Như thị ngã
văn: Tôi nghe như vầy:
Giải thích:
Như nghĩa là Như Lai, nói lý thật tướng của pháp Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, cho nên nói
như vậy (như thị). Tôn giả A Nan theo gần bên Phật nghe pháp như vậy, cho nên
nói là tôi nghe (ngã văn).
Nhứt
thời: Một khi
Giải: Ðây là
thời gian nói kinh này vậy.
Bạt Già
Phạm:
Giải: Ðây là
tên các đức của Như Lai, còn xưng đủ sáu nghĩa: 1- Tự tại, 2- Rực rỡ, 3- Ðoan
nghiêm, 4- Danh xứng, 5- Cát tường (Tốt đẹp), 6- Tôn quý. Rộng như các kinh đã
giải thích.
Tại danh xưng
Ðại Thành:
Giải: Tiếng
Phạn nói Xá Vệ.
Thệ Ða
Lâm:
Giải: Tên cũ
thì nói rằng: Kỳ Thọ là vườn cây của ông Kỳ Ðà thái tử cúng thí vậy.
Cấp Cô Ðộc
Viên: Vườn ông Cấp Cô Ðộc.
Giải: Cấp Cô
Ðộc là Tu Ðạt Trưởng giả, riêng gọi vườn đó là Trưởng giả đã rải vàng khắp đất
mua, hai người cùng chung cúng thí nên hiệp lại mà xưng.
Cùng đại Tỳ
Khưu chúng, các chư Bồ Tát và chư Thiên, Long, Bát bộ trước sau đoanh vây chung
quanh.
Giải: Ðây là
thính chúng nghe pháp.
Nghĩ thương
chúng sanh đời vị lai bạc phước ác nghiệp, liền nhập Chuẩn Ðề Tam Ma Ðịa, nói
quá khứ Thất Cu Chi Phật đã nói Ðà Ra Ni rằng.
Giải: Nghĩ
thướng nghĩa là đức Như Lai lân mẫn thương xót chúng sanh đời mạt pháp. Phạn ngữ
Tam Ma Ðịa, Trung Hoa dịch là Ðẳng trì, nghĩa là giữ gìn Ðịnh Huệ bình đẳng. Cu
Chi: Trung Hoa dịch là trăm ức. Ðà Ra Ni: Trung Hoa dịch là Tổng Trì nghĩa là
tổng trì tất cả các pháp môn, hàm nhiếp vô tận Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Lại trì giữ
các thiện không mất, trì giữ không cho ác sanh; cũng dịch là giá trị là ngàn cái
ác nhị biên, giữ gìn các thiện trung đạo. Biệt danh là Thần chú, nguyên không
thể phiên dịch chính xác, bởi hàm có nhiều nghĩa, nên không thể dùng văn tự lời
nói mà có thể giải thích rốt ráo. Chính đó là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, là Tâm ấn bí
Mật đại bất tư nghì của chư Phật vậy.
1 - Nẵng mồ
táp đa (dẫn) nẫm. 2 – Tam miệu tam một đà (dẫn) cu (dẫn) chi nẫm (dẫn) 3 – Ðát
nễ dã (nhị hiệp) tha (dẫn). 4 – Úm (án). 5 - Giả lễ. 6 - Chủ lễ. 7 - Chuẩn nê. 8
– Ta phạ (nhị hiệp) hạ (dẫn).
Giải: Phàm
tụng Chơn ngôn chữ Úm (Án) phải kéo dài ra, câu cần phải rõ ràng phân minh,
tiếng giọng không chậm không mau, sau đây sẽ giải thích rõ.
Chơn ngôn này
có tám câu: Ba câu trên là lời quy y chư Phật đã nói, năm câu dưới mới chính là
Thể của Thần chú.
Trên đây nói
chữ (dẫn) nghĩa là kéo dài ra, còn tiếng (nhị hiệp) là hai chữ hợp lại thành một
âm. Ngài Kim Cang Trí dịch thành Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Phạ Ha. Chữ Ða chữ
Nẫm trên là đều đưa giọng tiếng nương miệng. Chữ Lệ là khứ thinh. Ngài Ðịa Bà Ha
La dịch thành Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha. Ngài Xà Na Cấp Ða dịch thành:
Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Tóa Ha. Ngài Thiên Tức Tai dịch thành: Nẵng Mồ Táp Bát
Ða Nẫm, Tam Miệu Ngật Tam Một Ðà Câu Trí Nẫm, Ðã Nễ Dã Tha. Úm (án) Tả Lệ Tổ Lệ
Tôn Nễ Ta Phạ Hạ. Chữ Mồ là nhập thinh, chữ Bát Ða là nhị hiệp, chữ Tha là khứ
thinh, chữ Úm (án) và hai chữ Lệ đều là dẫn thinh, chữ Tôn là thượng thinh, chữ
Nễ là dẫn thinh, còn các chữ khác đều đồng như trên. Ngài Pháp Hiền dịch cũng
đại đồng như thế, chỉ có Ngài Thiên Tức Tai câu đầu thì đồng, câu sau hai chữ
lại nhị hiệp, chữ Tổ chữ Tôn hơi liền trong miệng. Sở dĩ các Ngài dịch không
đồng, đều do Phạn âm chuyển có nặng nhẹ, cho nên chữ cũng bất nhứt. Song đã Phạn
âm tức lấy âm của chữ chứ không lấy nghĩa của chữ. Nếu người rành giỏi Phạn âm,
tụng những bản dịch của các Ngài trên đều không có khác nhau. Hãy nên lấy một
bản dịch mà tụng, chỉ cần nơi Phạn âm không lầm là được. Phàm là chữ đưa nương
bên miệng ấy, là cần phải cái lưỡi chun lại rồi dui ra, tức được cái âm thinh
kia vậy.
Nẵng Mồ hoặc
là Noa Ma, hoặc là Nạp Mồ hoặc là Nam Mô, Trung Hoa dịch là Quy Mạng cũng nói là
Quy Y Ðát Nễ Giả Tha: Trung Hoa dịch Sở Vị: nghĩa là cũng nói Tức thuyết: (Liền
nói). Ta Phạ Hạ dịch nghĩa là: Thành Tựu cũng nói rằng: Cát Tường, Viên Tịch,
Tiêu Tai, Tăng Ích, cũng nói là nghĩa Vô Trụ, tức là Vô Trụ Niết Bàn Tận Vị Lai
Tế Lợi Ích Hữu Tình Vô Tận Kỳ Hạn vậy.
Nếu có
người tu hạnh Chơn ngôn, xuất gia hay tại gia Bồ Tát. Tụng trì Ðà Ra Ni này mãn
chín mươi vạn biến, những tội ác đã tạo trong vô lượng kiếp như: thập ác, ngũ
nghịch, tứ trọng, ngũ vô gián thảy đều tiêu diệt. Sanh chỗ nào thường gặp chư
Phật, Bồ Tát, giàu có nhiều của báu, thường được xuất gia.
Giải: Thập ác
nghĩa là: giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói
ác khẩu, tham, giận, tà kiến. Tứ trọng phái bốn cấm giới: Sát, trộm, dối, dâm.
Ngũ nghịch: 1- Giết cha, 2- Giết mẹ, 3- Làm thân Phật chảy máu, 4- Giết A La
Hán, 5- Phá sự hòa hợp của chúng Tăng. Nếu tạo một nghịch tội tức đọa A Tỳ địa
ngục thọ khổ một kiếp, đủ năm tội nghịch thì gọi là ngũ vô gián tội. Phạn ngữ A
Tỳ, Trung Hoa dịch là Vô Gián, nghĩa là đọa trong địa ngục này một đại kiếp thọ
khổ không xen hở một chút gảy móng tay.
Nếu có tại
gia Bồ Tát tu trì giới hạnh kiên cố không lui, tụng Ðà Ra Ni này thường sanh cõi
trời, hoặc trong cõi người, thường làm bậc quốc vương, không đọa ác thú gần gũi
hiền Thánh, chư Thiên kính ái ủng hộ gia trì, nếu có việc kinh doanh trong đời,
không bị các tai hoạch. Nghi dung đoan chánh, lời nói nghiêm oai, tâm không
phiền não. Nếu tại gia Bồ Tát, đầy đủ các cấm giới, ba thời niệm tụng y giáo tu
hành. Hiện đời sở cầu xuất thế gian tất địa, định huệ hiện tiền, chứng địa vị ba
la Mật viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Giải: Tại gia
Bồ Tát tuân giữ năm giới, mười điều thiện và đại giới của Bồ Tát cho nên nói
rằng: Tu hành giới hạnh. Xuất gia Bồ Tát giữ gìn đầy đủ giới Sa Di, giới Tỳ
Khưu, và giới Bồ Tát cho nên nói rằng: Ðủ các cấm giới. Xuất thế gian Tất Ðịa,
tức là Ðịnh Huệ hiện tiền, cho đến chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tất Ðịa:
Ðây nói là thành ý, nghĩa là thành tựu đại nguyện sở cầu thế, xuất thế gian. Do
hàm nhiều nghĩa nên không phiên dịch chính xác. Nói chứng Ðịa ấy, Ðà Ra Ni giải
thích rằng: Trong Du Dà từ phàm đến Thánh, tổng là bốn ngôi vị:
1 - Thắng Giải
Hạnh Ðịa, thường gọi là Hiện Tiền Ðịa.
2 – Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Ðịa, thông thường gọi là Thập Ðịa.
3 - Ðại Phổ
Hiền Ðịa tức là Ðẳng Giác Ðịa.
4 - Phổ Chiếu
Diệu Ðịa tức thành Chánh Giác Ðịa, cũng nói rằng: Thành Tỳ Lô Giá Na Tam Thân
Phổ Quang Ðịa.
Ba la Mật: Có
sáu món Ba la Mật và mười món Ba la Mật. Kinh Ðại Thừa Bảo Vương Ðẳng nói: Người
hành giả trì tụng Chơn ngôn, hằng ngày được đầy đủ sáu món ba la Mật viên mãn
công đức, cho nên trong các kinh Ðà Ra Ni nói: Hành giả tu Chơn ngôn hiện đời
hay thành Vô thượng Bồ đề. Ngũ tự Ðà Ra Ni tụng rằng:
Chư Phật sức
bổn thệ,
Hiện thành các
việc Thánh.
Tức nơi trong
một tòa,
Liền thành Tối
Chánh Giác.
Nếu tụng
mãn một vạn biến (Ngài Kim Cang Trí dịch mười vạn biến) tức nơi trong
mộng thấy Phật, Bồ Tát, liền thổ ra vật đen (vật đen tiêu biểu cho ác
nghiệp, mửa ra là tướng tội diệt phước sanh nên tự thấy trong miệng mửa ra vật
đen, hoặc cơm đen.)
Người kia
nếu tội rất nặng, tụng hai vạn biến (Các bản dịch khác nói hai mươi vạn
biến) cũng thấy tự trong miệng mửa ra cơm đen.
Tức trong
mộng thấy chư Thiên, đường, tự xá; hoặc lên núi cao hoặc thấy trên cây cao
(không bị hệ lụy về tội nghiệp, nên nhẹ bước đi lên, thành tựu thiên nhơn,
nên thấy thiên, đường, tự xá)
Hoặc nơi
trong ao lớn tắm rửa (rửa trừ tội cấu được thanh tịnh)
Hoặc thấy
bay bổng trên hư không (không bị tội nghiệp ràng buộc, nên thân khinh cử nhẹ
nhàng)
Hoặc thấy
cùng các thiên nữ an vui khoái lạc (nghĩa là do sức thiện căn giữ gìn tương
ưng, nên thấy cùng vui khoái lạc)
Hoặc thấy
thuyết pháp (được thị giáo lợi hỷ): dạy dỗ lợi ích vui mừng.
Hoặc thấy
nhổ tóc cạo tóc (nhổ tóc là phép của Tây quốc ngoại đạo, nhổ tóc cạo tóc đều
là tiêu biểu đoạn trừ căn gốc phiền não. Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc thấy nhổ
tóc hay tự mình cạo tóc)
Hoặc ăn sữa
cơm, uống bạch cam lồ (ăn sữa cơm là thành tựu thế gian phước thiện, uống
cam lồ là được pháp vị xuất thế)
Hoặc vượt
qua sông lớn, biển lớn (được vượt qua biển khổ).
Hoặc thăng
lên tòa Sư Tử (Ðắc được tòa Pháp Vương).
Hoặc thấy
cây bồ đề (là kiến đạo tướng).
Hoặc thừa
thuyền ( là thừa nương thuyền Bát Nhã, được tướng lên bờ giải thoát. Kinh
Tôn Tất Ðịa nói: Hoặc thâý sư tử, voi, trâu, nai, ngỗng v.v… đều là tướng Tất
Ðịa thành tựu).
Hoặc thấy
Sa Môn (Ðược xa lìa nhiễm ô ở đời mà ra khỏi tam giới)
Hoặc thấy
cư sĩ lấy áo trắng, áo vàng che đầu (Vàng là tiêu biểu cho chánh, trắng là
tiêu biểu cho tịnh, lấy bạch tịnh Chánh pháp mà phú hộ. Ngài Kim Cang Trí dịch:
Lấy y che phủ nơi đầu)
Hoặc thấy
mặt trời, mặt trăng (Tiêu biểu phá vô minh phiền não tối tăm)
Hoặc thấy
kẻ đồng nam, đồng nữ (Không bị tham dục phiền não nhiễm ô)
Hoặc trên
cây có trái nhũ quả (Nhũ nghĩa là trắng, trắng đó là thiện nghiệp, nghĩa là
được xuất thế, xuất thế gian thiện nghiệp quả báo)
Hoặc thấy
người hắc tượng phu trong miệng phun ra lửa hừng hẫy, cùng đấu chiến với họ mà
được thắng (Nghĩa là cùng với sân phiền não ma, cộng chiến cộng thắng)
Hoặc thấy
trâu nước, ngựa dữ, đến chạm húc người trì tụng, hoặc đánh, hoặc nạt sợ mà bỏ
chạy (Nghĩa là si phiền não ma, mình được thắng)
Hoặc ăn sữa
tươi, cháo, sữa chín, cơm (Nghĩa là được thượng vị phước thiện thành
tựu.)
Hoặc thấy
Tô ma na hoa (Trung Hoa nói: Xứng ý hoa, sắc vàng trắng rất thơm, cây cao độ
ba bốn thước che rủ xuống như lọng tàn, tiêu biểu chỗ mong cầu thiện pháp quyết
chắc được xứng ý. Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Hoặc thấy mùi thơm hoa trắng, mùi
hương thơm là tiêu biểu cho hương của Ngũ phần Pháp thân, nghĩa là được Ngũ phần
thiện nghiệp)
Hoặc thấy
bậc quốc vương (Ðược Ðại nhơn hộ niệm, được nghiệp tôn quý thù thắng)
Nếu không
thấy những cảnh giới như vậy đó, phải biết người này đời trước đã tạo tội ngũ
nghịch vô gián, nên trở lại tụng mãn bảy mươi vạn biến, liền thấy cảnh giới như
trên, tức biết tội diệt thành tiên hạnh.
GIẢI: Ðây là
khiến tụng bảy mươi vạn biến, trên nói một vạn, hai vạn sợ nghi lầm, nên như các
Ngài dịch rằng: Mười vạn, hai mươi vạn, sẽ được mộng thấy những cảnh giới như
trên, đó đều là cái tướng chứng nghiệm thành tựu của người hành giả. Kinh Tô
Thất Ðịa nói: Ở trong mộng kia thấy người chủ Chơn ngôn xoay mặt mà đi, hoặc
không cùng nói chuyện, nên phải lại cần khởi thủ công phu niệm tụng, như vậy
trải qua ba phen. Nếu trong mộng thấy chủ Chơn ngôn cùng nói chuyện, phải biết
người này không lâu sẽ thành tựu. Nếu không có cảnh giới, không nên tụng trì,
nếu cưỡng niệm trì, sợ cùng người bị tai vạ (Vì người này không có căn cơ với
pháp này, nên chọn pháp khác mà tu trì, ý riêng của dịch giả) khi mới bắt đầu
tụng trì, nên ở chỗ tịnh thất kín đáo mà hạ thủ công phu.
1-Nhiên hậu
y pháp họa vẽ bổn tượng (Chuẩn Ðê bổn tôn tượng) hoặc ba thời, hoặc bốn thời,
hoặc sáu thời, y pháp cúng dường cầu thế gian, xuất thế gian Tất địa, cho đến
Vô thượng Bồ đề , tất cả đều được, nếu có tu trì Ðà Ra Ni này, phải biết vị lai
thành tựu, xứ sở có nạn hay không nạn, tất địa chậm mau nên ở nơi tịnh thất,
lấy Cù ma di thoa đắp một tiểu đàn, tùy sức cúng dường. Lấy kiết giới Chơn ngôn,
kiết mười phương giới. (Bốn phương, bốn phương bàn, trên dưới). Lấy một bình
nước hương thơm để tại trong đàn, nhứt tâm niệm tụng bình kia động chuyển, nên
biết chỗ đã làm, việc sở cầu thành tựu, nếu không động chuyển việc kia không
thành.
GIẢI:
Kiết giới Chơn ngôn, kiết dưới đất làm giới hạn, tường vách làm giới hạn
v.v… Trích ra trong Kim Cang Trí dịch rằng: Nếu nơi trước tượng Phật, hoặc trước
tháp, chỗ thanh tịnh, lấy Cù Ma Di (phân trâu sạch) trộn với đất đắp làm cái đàn
vuông bốn thước, lại lấy hương hoa, tràng phan, bảo cái, đồ ăn, đồ uống, đèn,
nến, tùy sức mà bày biện trang nghiêm, y pháp cúng dường. Nếu muốn cầu nguyện,
trước cần niệm tụng Thần chú gia trì trong nước hương thơm mà tán rải bốn
phương, trên, dưới, mà kiết giới. Ðã kiết giới rồi, nơi đàn tứ giác mà chính
giữa trung ương để một bình nước hương thơm. Người hành giả mặt hướng về Ðông
phương, quì gối tụng 1080 biến, bình kia tức liền tự chuyển động, tùy ý Ðông Tây
nhậm vận trên dưới. Ngài Ha La dịch rằng: Niệm chú trong nước hương thơm tán rải
tám phương, trên, dưới, để làm kiết giới, nơi đàn tứ giác chính giữa trung ương,
để một bình nước hương thơm, người trì chú ở trong đàn kia, mặt hướng Ðông
phương, quỳ gối chú 1080 biến. Nói là gia trì hương thơm ấy, là phải tụng Căn
bản Chơn ngôn (Chú Chuẩn Ðề) 21 biến sái vẩy nước khắp mười phương.
2-Lại phép
nữa: Dùng một cái bát sành mới, thoa đắp hương thơm để nơi trong đàn, chuyên tâm
niệm tụng, nếu cái bát kia chuyển động, việc tức thành tựu, nếu không chuyển
động việc tức không thành.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch rằng: Lấy một bình bát mới đem đốt hương thơm xông khắp trong
ngoài, đựng bột hương thơm đầy bát, nước hương thơm và hoa thơm tốt, để trong
đàn y như phép để bình trước mà làm, niệm tụng bát kia liền chuyển, cùng như
bình không khác. Nếu muốn được biết tất cả việc thành tựu hay không thành tựu,
tức thắp hương tác bạch rõ ràng trước Thánh tượng Chuẩn Ðề, những bổn nguyện bí
quyết nghi tâm của mình. Nếu chuyển bên hữu tức thành tựu, còn tả chuyển thì
không thành tựu.
3-Lại phép
nữa: Muốn biết việc vị lai, trước thoa đắp một đàn nhỏ, khiến một đồng tử có đủ
tướng phước đức, tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới thanh tịnh, dùng Thất Cu Chi
Chơn ngôn gia trì, hương thơm thoa vào tay đồng tử, lại gia trì nơi cành hoa 7
biến, để trong tay đồng tử, khiến đồng tử che mặt đứng nơi trong đàn, lại lấy
một cành hoa khác tụng Chơn ngôn gia trì một biến đánh lưng tay đồng tử việc
lành dữ, đồng tử đều nói.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Khiến lấy một cành hoa đẹp, niệm tụng 108 biến, lấy bột hương
thoa, đồng tử tay cầm hoa che mặt, lại tự tay lấy một cành hoa riêng niệm tụng
đánh nơi thân đồng tử.
4-Lại phép
nữa: Lấy một kính soi sáng để trong đàn, trước tụng Chơn ngôn gia trì cành hoa
108 biến, vậy sau lại tụng Chơn ngôn một biến đánh vào mặt gương một cái, nơi
trên mặt gương liền có văn tự hiện nói việc thiện ác.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Hoặc sứ giả liền hiện thân trong gương, sứ giả ấy là sứ giả của
Phật Mẫu Chuẩn Ðề.
5-Lại phép
nữa: Muốn biết việc lành hay không lành, thành tựu hay không thành tựu. Lấy dầu
thơm Tô ma na hoa, tụng Chơn ngôn gia trì 108 biến, thoa mặt ngón tay cái bên
hữu, tụng Chơn ngôn âm thinh không đoạn dứt, khiến đồng tử xem trên mặt ngón
tay, hiện hình tượng chư Phật, Bồ Tát, hoặc hiện văn tự nói đủ thiện ác.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Hoặc lấy châu sa, hoặc lấy Tô ma na hoa tẩm trong dầu mè thoa nơi
ngón tay cái, niệm tụng 108 biến, tức hiện Thiên thần và hình tượng Tăng, Bồ
Tát, Phật v.v… nếu tâm có chỗ nghi ngờ việc trong ba đời, mỗi mỗi hỏi đều biết,
tức trên ngón tay cái tự hiện.
6-Lại phép
nữa: Nếu có người bị quỷ mị làm bịnh, lấy nhánh dương liễu hoặc nắm cỏ tranh,
tụng Chơn ngôn đập phủi trên thân người bịnh, tức được trừ lành.
GIẢI: Ngài Ha
La dịch rằng: Dùng Thần chú, chú vào trong cỏ tranh, phủi nơi người bịnh, nếu
được cỏ tranh thơm là đệ nhứt, không gặp cỏ tranh thơm cũng được. Ngài Kim Cang
Trí dịch rằng: Lấy nhánh thạch lựu hay các loại cỏ tranh trắng thơm niệm tụng
Thần chú đập phủi đó.
7-Lại phép
nữa: Nếu người mắc trọng bịnh tụng Chơn ngôn 108 biến xưng tên người bịnh, lấy
sữa bò tươi hộ ma tức lành bịnh.
GIẢI: Nghĩa là
lấy các loại cỏ tranh thơm, trộn sữa tụng Chơn ngôn chú vào làm phép, bỏ vào
trong lư lửa đốt gọi là Hộ Ma. Ngài Kim Cang Trí dịch rằng: Lấy cỏ tranh để
trong sữa bơ niệm tụng 7 biến Thần chú bỏ vào trong lửa thiêu đốt, khiến cho bay
khói xông lên người bịnh, tức người bịnh được lành. Nói Tô ấy là bơ, nghĩa là
lấy sữa bò nấu luyện thành lạc tức sữa chín, lấy lạc sữa chín nấu luyện thành
lạc tức sữa chín, lấy lạc sữa chín nấu luyện thành sanh tô tức bơ, lấy sanh tô
nấu luyện thành thục tô tức tô ma, lấy thục tô nấu luyện thành đề hồ.
8-Lại phép
nữa: Nếu có trẻ hài nhi khóc dạ đề (khóc ban đêm) khiến đứa gái nhỏ bên mặt xe
chỉ, tụng Chơn ngôn gia trì gút 21 gút, đeo nơi cổ trẻ hài nhi tức không khác dạ
đề nữa.
GIẢI: Các bộ
khác dịch rằng: Khiến đứa gái nhỏ xe chỉ ngũ sắc, tụng một Thần chú lại một gút,
mãn 21 gút, cho bệnh nhơn, trẻ nam hay nữ v.v… đeo nơi cổ, các ác ma quỷ mị bệnh
tức được trừ khỏi.
9-Lại phép
nữa: Trước gia trì nơi bạch giới tử (hạt cải trắng) 108 biến, nhiên hậu lấy giới
tử tụng Chơn ngôn một biến ném vào người bị bệnh quỷ mị. Mãn 21 biến quỷ mị kia
chạy trốn, người bệnh trừ khỏi.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch rằng: Hoặc lấy bạch giới tử để trong sữa bơ, lấy một ít giới tử
tụng Thần chú một biến ném vào trong lửa một lần, như vậy trải qua 21 lần bệnh
liền trừ khỏi.
10-Lại phép
nữa: Hoặc có bệnh quỷ mị, lấy Cù ma di thoa một tiểu đàn, lấy than trấu vẽ nơi
đất làm thành hình quỷ mị, tụng Chơn ngôn, lấy thạch lựu làm các roi gậy, quỷ
kia khóc la trốn bỏ chạy mà đi.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Ðồng với pháp này. Ngài Ha La dịch: Bảo người bịnh đứng trước,
lấy mực vẽ hình người bịnh kia, tụng Thần chú trong nhánh dương liễu đánh nơi
hình vẽ đó cũng được trừ lành. Cù ma di đây nói là ngưu phẩn, phân trâu ở Tuyết
sơn ăn toàn loại cỏ thơm, nên phân của nó dùng để đắp các đàn tràng tu Mật
tông.
11-Lại phép
nữa: Hoặc người bị quỷ mị làm đau ốm, mà người bệnh ở viễn xứ xa xôi, không thể
tự đến được, hoặc người trì tụng không đến nơi bệnh nhơn, lấy nhánh dương liễu
hay nhánh đào hoặc cành hoa, gia trì Thần chú 108 biên, sai người đem đến chỗ
bệnh nhơn, hoặc lấy hoa bảo người bệnh ngửi, hoặc lấy hoa đánh bệnh nhơn, quỷ mị
tức đi, người bệnh liền khỏi.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Bảo người đem đi nói người kia rằng: Ngươi đi. Ngài tên … sai ta
đem roi về đánh ngươi đây, ngươi nếu không đi bị tổn đó, ngươi không được lảng
vảng, nếu không đi roi đánh, tức đi.
12-Lại phép
nữa: Nếu bị rắn mổ, hoặc bị quỷ nữ Noa kiết nễ bắt giữ, đi xung quanh bệnh nhơn
tụng Chơn ngôn, bệnh kia liền khỏi.
GIẢI: Ði quanh
bệnh nhơn tụng Thần chú vài vòng, tức khỏi.
13-Lại phép
nữa: Nếu người mắc bệnh ung nhọt sưng v.v… và bị các độc trùng cắn, lầy đàn
hương nhồi dẻo hòa với đất làm bùn, tụng Chơn ngôn 7 biến thoa lên mụt ghẻ, tức
lành.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Bảo lấy huân lục hương hòa với đất nước tịnh thủy, thoa nơi mụt,
ung nhọt, ghẻ lở, tức lành.
14-Lại phép
nữa: Nếu người đi đường tụng Chơn ngôn này, không bị giặc cướp làm thương tổn,
cũng xa lìa các nạn ác cầm thú.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Nếu đi đường hiểm trở trong ban đêm thường niệm chú Chuẩn Ðề,
không bị giặc cướp, cọp beo, ác quỷ, các chỗ nạn sợ sệt, trì tâm niệm tụng để
làm hộ thân, thì các nạn kia liền được tự diệt, nếu khi đi khất thực, thường trì
chú này, không bị người ác, các loài chó dữ xâm hại, khất thực được dễ dàng.
15-Lại phép
nữa: Nếu có sự lý luận tranh tụng đấu tranh và đàm luận cầu hơn, tụng Chơn ngôn
này là thắng mạnh hơn hết.
GIẢI: Chuẩn Ðề
Chơn ngôn cứng như chày Kim Cang, vật chi cũng đều đập nát không dám đương đầu,
cho nên tranh tụng, lý luận, đàm thuyết, danh ngôn, pháp nghĩa, thảy đều được
thắng.
16-Lại phép
nữa: Nếu đi trong sông sâu biển lớn, tụng Chơn ngôn này không bị trôi chìm, và
trong nước có các loài ác long, ma yết, cá sấu, cá mập làm tổn hại.
GIẢI: Ma yết
đây nói rằng cá kình dài hơn mười mét, hoặc vài trăm mét, có thể nuốt các loại
thuyền ghe lớn, nghĩa là các loại trùng rắn độc. Ngài Kim Cang Trí dịch: Hoặc bị
rắn cắn, liền bảo người kia đi quanh niệm tụng vài vòng liền khỏi.
17-Lại phép
nữa: Nếu bị giam cầm tù tội, người ấy trì tụng Thần chú Chuẩn Ðề này mau được
giải thoát.
GIẢI: Thể của
Bồ đề tâm tự tánh vốn không, xa lìa tất cả vật, cũng như hoa sen, tánh không bị
nhiễm bùn dơ. Nay Thần chú này từ nơi tâm Bồ đề của chư Phật lưu xuất ra, cho
nên trì tụng ấy, tự nhiên mau được giải thoát.
18-Lại phép
nữa: Nếu trong nước có tật bệnh, mười đêm lấy dầu mè, bột gạo thơm, hoà với bơ,
mật, làm phép hộ ma tức được tai diệt, quốc độ an ninh.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Hoặc quốc độ mưa nắng không hòa, các loài lục súc, trâu, ngựa, bị
dịch độc lưu hành; nên lấy dầu mè, bột gạo, đại mạch, gạo tẻ, đậu, bơ, mật, sữa
tươi, sữa chưng chín, bạch nhũ mộc, các loại hương thơm đều để một bên. Thắp
hương phát nguyện vì tất cả chúng sanh trừ khử tai nạn, tức tay thủ khế hộ thân
tụng niệm, lấy các vật trước niệm tụng gia trì , bỏ vào trong lư lửa mà thiêu
đó, như vậy bảy ngày, mỗi ngày ba thời, khi làm phép mỗi thời riêng tụng Thần
chú đủ 1080 biến, tức được mãn nguyện, tất cả an vui, tất cả Tam-Bảo thảy đều hộ
niệm, cũng hay thành tựu tất cả đại nguyện. Ngài Ha La dịch: Nên lấy bơ hòa với
mè, dầu mè, bột gạo, dùng ba ngón tay lấy vật kia một nhúm, đọc Thần chú một
biến, bỏ vào trong lửa thiêu, hoặc trải qua bảy ngày bảy đêm sáu thời như vậy
nối nhau không dứt, tất cả tai dịch đều tiêu diệt. Nói thủ khế ấy là tay kiết ấn
vậy.
19-Lại phép
nữa: Nếu cầu giàu có nhiều của báu, mỗi ngày lấy các món ăn làm phép hộ ma tức
được tiền tài của báu giàu có.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Nếu muốn cầu giàu có, lấy bột gạo dầu mè để trong bơ, sữa chưng
chín, trong tay cầm chút ít, phát nguyện niệm tụng 7 biến bỏ vào trong lư lửa
thiêu, tùy sức 7 ngày cho đến 49 ngày, tức được như nguyện. Ngài Ha La dịch: Lấy
bơ hòa với gạo nếp tụng (chú 108 biến bỏ vào lửa thiêu đó, tùy tâm dã nguyện đều
thành chắc chắn tài bảo tăng ích vậy.
Nói là Hộ ma
ấy: Là các vật trước bỏ vào trong lư lửa thiêu để cúng dường. Kinh Tô Tất Ðịa
nói: Nơi trước tôn tượng làm phép hộ ma, lư đảnh vuông một tấc tư, mặt bằng bề
lượng sâu nửa tấc, bề cao bốn ngón tay. Lấy phân trâu và nước tiểu trâu ăn cỏ
thơm ở núi Tuyết sơn để thoa dùng nước hương thơm sái vẩy. Hoặc làm cái lư tròn
để chỗ niệm tụng kia, nếu ở trong phòng thất nên đem ra nơi ngoài có thể trông
thấy tôn tượng mà xuyên ra cái lư, tùy sự nghiệp kia, y pháp mà làm các vật nhũ
mộc v.v…và lấy hương hoa để bên hữu, đồ đựng hộ ma thiêu để bên tả, ngồi tòa cỏ
mao (cỏ tranh). Nhiếp tâm lắng tịnh, trước tụng Bổn Tôn Chơn ngôn một biến (Thần
chú Chuẩn Ðề), thỉnh an bổn tòa, y pháp cúng dường, nguyện đức Bổn Tôn thùy nạp
phép thực hộ ma. Cây hộ ma có mười hai thứ, phương này không có, có thể dùng tử
đàn hương (cây đàn hương tím), hoặc cây kiên thật nhũ mà thay đó, lấy nhánh ngay
thẳng, dài hai ngón tay, hoặc mười ngón tay, đều chọn thứ mới tươi nhuận, xem
trên dưới một mặt, để trong hương thủy rửa sạch, dầu bằng hướng bên ngoài, đầu
thô hướng nơi thân, lấy sữa tươi, sữa chưng chín, bơ, mật, trộn hai đầu bỏ nơi
trong lư lửa, như khi niệm tụng, để hai tay lại giữa hai đầu gối khi hộ ma thiên
cũng nên như vậy. Hộ ma rồi, dụng bổn Chơn ngôn tịnh thủy, lấy tay đưa đi khắp
nơi vẩy nước tán sái trong lư như vậy ba lần, hộ ma xong rồi như pháp đưa đi.
Nếu lấy bơ mật dầu làm phép, phải dùng cái thìa đến chữ Ta Phạ Hạ, các tiếng
chưa dứt liền rót vào trong lư, ban đầu lấy một thìa đầy bơ hộ ma (thiêu) một
lần trong đó, thìa nhỏ thiêu (hộ ma) xong, trở ra lại lấy một thìa đầy bơ thiêu
(hộ ma) một lần, trở lại hiến cúng ứ già cho đến cúng dường chuẩn theo như
trước, trở ra lại kiết các ấn hộ thân, cho đến giải mới có thể đưa các Ngài đi,
như sau sẽ rõ.
20-Lại phép
nữa: Nếu muốn khiến người kính thương vui mừng ấy, trong câu Chơn ngôn xưng tên
người kia, tức được hoan hỷ thuận phục.
GIẢI: Ngài Ha
La dịch: Xưng danh tự người trước kia, đọc một câu Thần chú xưng tên một lần.
Mãn 108 biến tức liền kính niệm.
21-Lại phép
nữa: Nếu không có y áo niệm tụng tức được y áo.
22-Lại phép
nữa: Trong ý mong cầu, niệm tụng đều được như ý.
GIẢI: Chuẩn Ðề
Thần chú là tâm bảo của chư Phật, như ma ni châu ngọc, tùy niệm chúng sanh. Cho
nên đều được như ý.
23-Lại phép
nữa: Nếu người thân thể chi tiết đau nhức, gia trì trong tay 21 biến Thần chú,
xoa bóp chỗ đau tức khỏi.
GIẢI: Nếu tự
mình làm hoặc vì người khác làm đều được.
14-Lại phép
nữa: Nếu mắc bịnh sốt rét và đau đầu, niệm Thần chú gia trì nơi tay 21 biến xoa
bóp cũng được trừ lành.
GIẢI: Các việc
này đều được thành là nhờ sự tu hành trước hết, hoặc người tu hành trong thời
gian dài, đã trì tụng Chuẩn Ðề Thần chú. Cho nên được tùy thủ ứng vật, thảy đều
linh nghiệm, nếu ban đầu người mới trì tụng tu hành, Phạn âm chưa thuần thục,
tâm không chuyên nhứt, chê bai không linh nghiệm, đắc tội rất nặng.
25-Lại phép
nữa: Thoa đắp một đàn nhỏ, lấy một cái bát đồng đựng đầy tro củi thơm thanh
tịnh, bảo đồng tử hai tay đè lên bát tro, người trì tụng nên tụng Thần chú, sứ
giả của Bổn Tôn nhập vào thân của đồng tử, bát kia liền chuyển động, tức xuống
lời đồng tử, tức tự kiết tam bộ tam muội gia ấn, tức tụng tam bộ Chơn ngôn, liền
lấy đá mếm trơn viên phấn đưa qua cho đồng tử, đồng tử tức nơi trên đất họa vẽ
việc quá khứ, vị lai, tốt xấu, lành dữ và thất lạc kinh luận, quên mất nghĩa
khó, ấn chú, tức được biết rõ.
GIẢI: Trong
đây không nói biến, hay là 108 biến, hoặc trì cho đến đồng tử tự kiết. Ấn chú
làm hạn định.
26-Lại phép
nữa: Hai bên quân địch nhau, viết Ðà Ra Ni này trên cỏ cây hoa, trei trên sào
tre, bảo người kia tay cầm tụng Chơn ngôn, địch kia tức phá tán.
GIẢI: Vài điều
trên đây như các nhà dịch đều thiếu.
27-Lại phép
nữa: Nếu người nữ không có con trai hay con gái, lấy ngưu huỳnh, nơi trên vỏ cây
hoa viết Thần chú này, khiến đeo không lâu sẽ có con trai con gái.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Nơi vỏ cây hay trên lá, viết Ðà Ra Ni này và vẽ hình đồng tử lấy
vải lụa tím bọc lại, niệm tụng Thần chú 1080 biến, để trên cái búi tóc giữa đỉnh
đầu, tức liền mang thai.
Có kẻ nói
rằng: Bổn ý của chư Phật, khiến người đoạn các phiền não tham, sân, si. Nay cớ
chi trở lại khiến người khởi tham niệm cầu các việc danh lợi ở đời ư?
Ðáp: Ðây là
sức diệu dụng phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn của chư Phật. Bởi vì có
những chúng sanh không chịu cầu thẳng đến đạo quả Vô thượng Bồ đề, vả lại tùy
lòng ham muốn của họe, khiến họ trì Thần chú hết thảy cầu mong đều được toại
lòng, do oai lực của Thần chú không thể nghĩa bàn huân vào, tội nghiệp được tiêu
diệt, giống Bồ đề thành tựu. Tự nhiên siêu phàm nhập Thánh, như Chơn ngôn này là
cảnh giới của chư Phật, hàng thập địa Bồ Tát còn chẳng lường được, huống kẻ phàm
phu suy nghĩa sao được ư? Nếu có đầy đủ trí nhãn, cần trọn ngày cầu, tức cùng
với lý Bát Nhã tương ưng, đó chính là Phật thì đâu có chúng sanh mà khởi các
phiền não tham…?
28-Lại phép
nữa: Hoặc có người nữ chồng không kính trọng, lấy một cái bình mới đựng nước
đầy, nơi trong bình để đồ thất bảo (vàng, bạc, ngọc v.v…) và các linh dược, ngũ
cốc, bạch giới tử (hạt cải trắng) lấy dây lụa trắng cột nơi cổ bình, dùng Chơn
ngôn gia trì 108 biến, bảo người nữ kiết căn bản ấn (ấn Chuẩn Ðề) để an trên
đỉnh đầu, lấy nước ấy rót tưới vào đỉnh đầu, tức được yêu thương kính trọng,
chẳng những kính trọng cũng được có con ở trong thai bền chắc.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Lấy tịnh bình đựng đầy nước thơm, đem để chỗ tịnh xứ, lấy ngưu
phẩn (phân trâu ở Tuyết sơn ăn toàn cỏ thơm) thoa đắp Ðàn tràng niệm tụng 108
biến, như vậy bảy bình đều làm pháp này tại chỗ thanh tịnh, dùng hương hoa làm
đạo tràng, lấy nước hương thơm trong bình tắm rửa, chồng liền vui vẻ thương yêu,
cũng được có thai. Vợ không ưa chồng cũng làm phương pháp như trước. Bằng cứ
trong một Ðại Tạng kinh, Ðà Ra Ni Thần chú gồm năm bộ:
1-Phật bộ các
Thần chú của chư Phật.
2-Liên Hoa bộ
các Thần chú của Quán Tự Tại Bồ Tát, chú của Trì Liên Hoa Bồ Tát.
3-Kim Cang bộ
các chú của Kim Cang Thủ Bồ Tát, Chú của các vị Kim Cang thần.
4-Bảo bộ là
Thần chú của chư Thiên.
5-Yết Ma bộ là
các Thần chú của chư Quỷ Thần.
Năm bộ này mỗi
bộ gồm có năm bộ. Tổng thành 25 bộ. Nay Chuẩn Ðề Chơn ngôn Thần chú bao gồm trì
nhiếp thảy hai mươi lăm bộ. Cho nên tùy chỗ dụng đều được thành tựu.
29-Lại phép
nữa: Người hành giả mỗi khi niệm tụng, kiết đại ấn tụng Chơn ngôn in tháp, mãn
sáu mươi vạn biết việc sở cầu tức được đầy đủ. Quán Tự Tại Bồ Tát, Kim Cang Thủ
Bồ Tát, Ða La Bồ Tát, tức vì hiện thân sở cầu như ý, hoặc làm vua trong cung A
Tu La, hoặc được Bồ Tát Ðịa, hoặc được thuốc trường niên, hoặc được kính ái pháp
thành tựu.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí dịch: Nơi bên bờ biển lớn, hoặc trên bãi cát mé sông, lấy bản in hình
tượng tháp, in trên bãi cát mé sông, làm hình tượng tháp. Niệm tụng một biến in
thành một tháp. Như vậy mãn số sáu mươi vạn biến, tức được thấy Thánh giả Quán
Tự Tại Bồ Tát v.v… tùy theo tâm nguyện đều được đầy đủ, hoặc thấy trao cho Thần
tiên diệu dược, hoặc thấy thọ ký Bồ Tát, hoặc hiện tiền đến hỏi tùy nguyện mong
cầu đều được các địa vị Bồ Tát. Nếu muốn cầu thông minh, lấy thạch xương hồ,
ngưu huỳnh, mỗi thứ nửa lượng giã nhỏ làm bột hoà với bơ, nơi trước Phật làm đàn
tụng niệm 5000 biến uống đó, tức được thông minh. Kinh Trì Minh Tạng nói: Nếu có
người tu hành, muốn làm phép tối thượng thù thắng được thành tựu ấy. Nhứt tâm
chuyên chú tinh cần tu tập, trước ở nơi bên bờ biển lớn tụng Chuẩn Ðề căn bản
Chơn ngôn, tạo sa tháp (tháp cát) lục lạc xoa (60 vạn) rồi thì việc sở cầu quyết
được thành tựu. Kim Cang Thủ cũng gọi Kim Cang Tạng.
30-Lại phép
nữa: Nơi Bồ đề đạo tràng, ở trước Ðại Chế Ðể, tụng Ðà Ra Ni này, được thấy Thánh
Tăng chung nói chuyện và Tất Ðịa thành tựu được chung kia đồng hành, tức đồng
bực Thánh Tăng kia vậy.
GIẢI: Bồ đề
đạo tràng tại Trung Thiên Trúc, nước Ma Kiệt Ðà. Phật ngồi nơi đó thành Ðẳng
Chánh Giác, chọ nên gọi Chế Ðể, là tháp Phật vậy. Tháp này ở trong Bồ Ðề đạo
tràng. Ngài Kim Cang Trí dịch: Nhiễu quanh bên hữu hình tượng cây Bồ đề, hành
đạo niệm tụng 100 vạn biến, tức thấy Phật, Bồ Tát, La Hán, vì đó nói pháp, muốn
theo Bồ Tát liền được tùy tùng, sở cầu như nguyện cho đến hiện thân thành đại
chú Tiên, liền được đi đến mười phương Tịnh độ hầu hạ chư Phật, được nghe Chánh
pháp. Lại muốn được thấy tất cả quỷ thần, lấy ngưu huỳnh niệm tụng Thần chú cho
được pháp ra khỏi lửa, tức lấy thoa nơi đôi mắt và uống vào liền thấy. Trì Minh
Tạng Nghi Quỹ nói: Tụng mãn số một Câu chi (100 ức) được A La Hán hiện thân và
được lợi ích lớn, từ đó về sau đồng hành với A La Hán, cũng đồng oai đức với các
Ngài.
31-Lại phép
nữa: Nơi trên đảnh núi cao, niệm tụng một Câu chi biến (100 ức biến) Kim Cang
Thủ Bồ Tát tức đem người này, lãnh 560 người đồng vào cung điện A Tô La, thọ
mạng một kiếp, được thấy đức Di Lặc Bồ Tát, Thinh Văn Chánh pháp, nghe pháp rồi
chứng được địa vị Bồ Tát không thoái chuyển.
GIẢI: Nói một
kiếp đây là một tiểu kiếp có 1680 vạn năm, vào A Tô La cung là để chờ đức Di Lặc
hạ sanh. Kinh Thượng Sanh nói: Ðức Bồ Tát Di Lặc ra đời nhằm lúc tuổi thọ con
người là 56 vạn ức năm.
Chỗ cung A Tô
La không phải là một, vả lại như chỗ Ngài Thanh Biện Luận sư đã vào, cung này ở
Nam Thiên Trúc, cách thành phía nam nước An Ðạt La không xa, tại hang núi lớn,
vách đá bao kín, Ngài Luận sư niệm Thần chú trong hạt cải trắng ném vào vách đá
tự nhiên mở rộng, đón Ngài vào trong, đợi thấy đức Di Lặc giáng sanh.
31-Lại phép
nữa: Trên núi Tỳ Bổ La (Núi đây ở Ma Kiệt quốc. Lại nói rằng: Chỉ có núi cao
cũng được). Trước tượng tháp xá lợi niệm tụng, tùy sức dùng hương hoa cúng
dường, xin vật để nuôi thân mạng, theo tháng ngày mùng một đến ngày rằm, tụng Ðà
Ra Ni mãn 30 vạn biến, lấy ngày mãn đó, một ngày một đêm không ăn, bội thêm sự
cúng dường, đến cuối đêm tức thấy Kim Cang Thủ Bồ Tát, đem người tu hành đến tự
trong cung, vì hành giả chỉ bày cửa hang A Tu La, vào trong hang được cam lồ của
trời, sống lâu bằng mặt trời, mặt trăng.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Thủ ấy, tay cầm Kim Cang xử, tiêu biểu nội tâm đầy đủ đại Bồ đề, ngoài đập
nát các ma phiền não, lại tự thể bền chắc thành trí Kim Cang, đập phá núi tà
kiến, chứng Kim Cang định, thường trong tay cầm cái bảo xử, cho nên gọi là Kim
Cang Thủ Bồ Tát, nói đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa, Bồ đề nghĩa là Năng giác ngộ, Tát Ðỏa
là Hữu tình. Nghĩa là tự mình hay giác ngộ, lại trụ ở trong sanh tử để giác ngộ
tất cả các loài hữu tình vậy.
Ngài Kim Cang
Trí dịch: Không nói trên núi, chỉ nói ở trước tháp, hoặc đứng trước tượng Phật,
hoặc trước tháp Xá lợi. Ban đầu nói ở trước tháp ấy, hoặc Như Lai Bát Ðại Linh
Tháp, hoặc Tháp Thân Kệ Tháp chứ chẳng những Xá lợi tháp vậy.
33-Lại phép
nữa: Nơi Tam đạo Bảo Giai, chỗ Bảo Tháp từ trên trời xuống. Hành gaỉ xin ăn,
nhiễu quanh tụng câu chi biến 100 ức biến, tức thấy Vô Năng Thắng Bồ Tát cùng
nguyện vì nói diệu pháp, chỉ bày đạo Vô thượng Bồ đề, hoặc thấy A Lợi Ðể Mẫu,
đem người này vào trong cung mình cho uống thuốc trường niên, hoàn đồng niên
thiếu, đoan chánh đáng mừng. Lại được phục tàng của báu giấu kín, đại nhơn hứa
khả, nên rộng làm lợi ích Tam-Bảo. Ðược tất cả Bồ Tát an ủi, chỉ bày chánh đạo
cho đến Bồ đề đạo tràng.
GIẢI:
Nếu người trì tụng Ðà Ra Ni này, cho đến chưa ngồi đạo tràng mà tất cả Bồ
Tát đã làm bạn thắng hữu. Cho nên thường an ủi chỉ bày 37 món trợ đạo Bồ đề,
khiến tinh tấn tu hành cho đến ngồi dưới cây Bồ đề thành Ðẳng Chánh Giác, cho
nên nói rằng ngồi Ðạo tràng.
A Lợi Ðể Mẫu
tức Quỷ tử mẫu, vốn gọi Hoan hỷ mẫu. Phục tàng nghĩa là của báu giấu kín trong
lòng đất, chư Phật, Bồ Tát cho người kia đem về rộng làm lợi ích quần sanh, cúng
dường ngôi Tam-Bảo, không được bỏn xẻn giấu cất tư dùng. Tam Ðạo Bảo Giai ở
Trung Thiên Trúc nước Tăng Già Xá, xưa Phật lên cung trời Ðao Lợi vì mẹ nói pháp
ba tháng xong, từ trên xuống, Thiên Ðế Thích hóa làm ba đường báu, đường chính
giữa là vàng ròng, bên tả ngọc lưu ly, bên hữu ngọc mã não, Phật từ chính giữa
đi xuống. Sau vua A Dục đến chỗ đó kiến lập một Bảo Tháp vậy.
Ngài Kim Cang
Trí dịch: Nếu ở trước Chuyển pháp luân tháp, hoặc trước tháp chỗ Phật giáng
sanh, hoặc trước Bảo Giai tháp, hoặc trước tháp Xá lợi, nhiễu quanh bên hữu niệm
tụng đủ 49 ngày, tức thấy hai vị Bồ Tát kia, tùy theo chỗ nguyện mong, thảy đều
đầy đủ v.v…
Trì Minh Tạng
nói: Bồ Tát cho Thánh dược biến thân người tu hành đầy đủ tướng tốt đẹp thù
thắng, lại được tất cả Bồ Tát tiếp dẫn chứng đạo, cho đến mau ngồi Bồ đề đạo
tràng.
34-Lại phép
nữa: Nếu người không có túc căn lành, không có giống Bồ đề, không tu Bồ đề hạnh,
vừa tụng một biến thì sanh mầm Bồ đề pháp, huống gì thường hay niệm tụng thọ
trì.
GIẢI: Ngài Kim
Cang Trí: Nếu đọc một biến tức được phần căn khí sanh mầm Bồ đề, huống thường
tụng trì mà không biếng trễ, do đây thiện căn mau thành Phật chủng, vô lượng
công đức thảy đều thành tựu.
Ngài Ha La
dịch: Nếu được nghe pháp đại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, mau chóng chứng quả Vô
thượng Chánh đẳng chánh giác. Nếu người nhớ trì tụng niệm thường không trễ bỏ
tâm Phật Mẫu Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, vô lượng thiện căn đều được thành
tựu.
Khi Phật nói
pháp Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni này, vô lượng chúng sanh xa lìa trần cấu, được Ðại
Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni, Ðại Minh Chú Công Ðức, được thấy mười phương chư Phật, Bồ Tát
và hết thảy các Thánh chúng làm lễ lui về.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|