NAM MÔ ÐẠI THỪA
TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG KINH
HỘI
THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
(3
lần)
PHẬT NÓI KINH
ÐẠI
THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
QUYỂN
BỐN
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay làm thế nào được sáu chữ Ðại Minh Ðà
Ra Ni? Nếu được thì vô lượng thiền định tương ưng không thể nghĩ bàn. Tức đồng
được Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác, vào môn giải thoát, thấy được địa vị
Niết Bàn, tham sân vĩnh diệt, pháp tạng viên mãn, phá hoại luân hồi của ngũ thú
và tịnh các địa ngục, đoạn trừ phiền não, cứu độ các loài bàng sanh, pháp vị
viên mãn của tất cả trí, dùng trí ấy diễn nói vô tận. Thưa Thế Tôn! Con cần sáu
chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni ấy. Con sẽ làm thế này, lấy của thất bảo đầy trong bốn đại
châu làm việc bố thí để chép viết. Bạch Thế Tôn! Nếu thiếu giấy bút, con sẽ
chích thân lấy máu làm mực, lột da làm giấy, chẻ xương làm bút. Thật như vậy!
Thưa Thế Tôn! Con không có hối tiếc, mà tôn trọng như bậc đại cha mẹ.
Lúc bấy giờ Phật dạy Ngài Trừ
Cái Chướng Bồ Tát: Thiện nam tử! Ta nhớ thời quá khứ, vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra
Ni này mà đã trải qua khắp vô số thế giới như vi trần. Ta cúng dường vô số trăm
ngàn vạn Câu chi an khố đa của đức Như Lai, ta ở chỗ của đức Như Lai ấy, mà cũng
không được nghe. Thời kỳ đó có Ðức Phật gọi là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ta ở trước Ðức Phật đó mà rơi lệ buồn
khóc. Khi bấy giờ đức Như Lai Ứng Chánh
Ðẳng Giác kia dạy Ta rằng: Thiện nam tử! Ông chớ nên buồn khóc! Thiện nam tử!
Ông hãy qua bên kia, sẽ thấy đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác,
tại nơi ấy Phật kia biết sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni.
Thiện nam tử! Ta từ từ rời chỗ
đức Bảo Thượng Như Lai, qua đến cõi Phật sát của Liên Hoa Như Lai, đến rồi đảnh
lễ chân Phật mà chấp tay đứng trước: Cúi mong đức Thế Tôn! Cho con sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni, Chơn ngôn Vương kia là bổn mẫu của tất cả, nhớ niệm tên ấy thì
tội cấu tiêu trừ, mau chứng Bồ đề. Vì cớ ấy mà con rất mong muốn, con đã chịu
khổ nhọc trải qua vô số thế giới mà cũng không được nên nay con mới trở lại
đây.
Khi ấy Ngài Liên Hoa Thượng Như
Lai liền nói công đức sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni rằng: Thiện nam tử! Vi trần đã
có ta có thể đếm được số lượng. Thiện nam tử! Lại như số cát trong biển lớn, ta
có thể đếm từng hạt một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh một biến thì
công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam tử! Lại như trời người tạo lập kho
lẫm, chu vi một ngàn du thiện na, cao một trăm thiện na chứa hạt mè đầy trong
kho mà không kẽ hỡ dẫu bằng một mũi kim,
người giữ kho không già không chết, trải
qua năm trăm kiếp, ném bỏ ra ngoài từng hạt mè một, như vậy trong kho ném hết
không sót, ta có thể đếm số lượng kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh
một biến thì được công đức, ta không thể đếm được. Thiện nam tử! Lại như bốn đại
châu gieo trồng hết thảy các loại lúa nếp, Long vương mưa nắng thuận thời, lúa
nếp đã trồng hết thảy chín vàng, thu cắt đều xong. Lấy Nam Thiệm bộ châu mà làm
sân chứa, dùng xe vận tải chở hết các lúa về sân, đập để xong xuôi, dồn thành
đống lớn. Thiện nam tử! Ta có thể đếm số lúa ấy từng hạt một như vậy. Thiện nam
tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh này một biến, công đức ấy ta không thể đếm được.
Thiện nam tử! Cõi Nam Thiệm Bộ Châu có những
con sông lớn ngày đêm chảy mãi gọi là sông Di Ða, sông Kinh Nga, sông Nại
Ra, sông Tán Nại Ra, sông Bà Nghiệt, sông Ái Ra Phạ Ðể, sông Tô Ma Na Ðà, sông
Hế Ma, sông Ca Lã Thú na Lị. Mỗi một con sông lớn này có năm ngàn con sông nhỏ
làm chi nhánh, ngày đêm chảy vào biển lớn.
Thiện nam tử! Như vậy mỗi con
sông lớn kia ta có thể đếm số mỗi một giọt nước kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu
chữ Ðại Minh một biến được công đức ta không thể đếm số lượng. Thiện nam tử! Lại
như loài hữu tình bốn chân trong bốn đại châu như sư tử, voi, ngựa, trâu đồng,
trâu nước, cọp, beo, nai, vượn, chồn, heo, dê, thỏ; những loài bốn chân như vậy
ta có thể đếm số lượng từng sợi lông một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại
Minh này một biến thì được công đức ấy ta không thể đếm số lượng được. Thiện nam
tử! Lại như núi Kim Cang Câu Sơn Vương kia, vuông mỗi bên tám vạn bốn ngàn du
thiện na, nơi núi ấy có người không già không chết, trải qua một kiếp nhiễu
quanh núi chỉ được một vòng. Núi Vương như vậy ta lấy y Kiều Thi Ca có thể trải
hết không sót. Nếu có người niệm sáu chữ Ðại Minh này được công đức ta không thể
nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như biển lớn sâu đến tám vạn bốn ngàn du
thiện na, lỗ miệng rộng lớn vô lượng, ta có thể lấy một sợi lông nhét vừa hết
không dư. Thiện nam tử! Nếu có người niệm một biến sáu chữ Ðại Minh này được
công đức mà ta không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như rừng cây Thi
Lợi Sa, ta có thể đếm hết mỗi một lá. Thiện nam tử! Nếu niệm một biến sáu chữ
Ðại Minh được công đức không thể nghĩ lường. Thiện nam tử! Lại như bốn đại bộ
châu những kẻ nam người nữ, con trai con gái ở đầy khắp trong đó, những người
này đều chứng Thất Ðịa Bồ Tát, chúng Bồ Tát ấy đã có công đức cùng với công đức
người niệm sáu chữ Ðại Minh này không khác. Thiện nam tử! Trừ một năm mười hai
tháng ra còn gặp năm nhuần mười hai tháng, lấy tháng dư nhuần ấy làm số năm đủ
mãn một kiếp trên cõi trời, ở đó ngày đêm thường mưa lớn.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số
mỗi một hạt mưa kia được. Nếu có người niệm sáu chữ Ðại Minh này một biến, công
đức số lượng rất nhiều. Nơi ý ông nghĩ sao? Thiện nam tử! Lại như vô số một trăm
ức đức Như Lai ở tại một chỗ trải qua một kiếp của cõi trời, lấy các thức ăn
uống, y phục, ngọa cụ và thuốc thang đồ cần dùng, các thứ ấy đem cúng dường cho
các đức Như Lai mà cũng không thể đếm hết số lượng công đức của sáu chữ Ðại
Minh. Chẳng những ta ngày nay ở thế giới này mà ta từ trong định ra cũng không
thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Pháp gia hạnh vi
diệu tương ưng của tất cả quán trí này, người đời sau sẽ được tâm pháp vi diệu
ấy. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, khéo an trụ sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni như
thế.
Thiện nam tử! Ta lấy phước gia hạnh trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu
chi na khố đa thế giới, đến chỗ đức Như Lai Vô Lượng Thọ chấp tay ở trước, vì
pháp ấy mà rơi lệ buồn khóc. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy ta tại đó và
vì đời sau mà bảo ta rằng: Thiện nam tử! Ông cần sáu chữ Ðại Minh Vương quán
hạnh Du Già đấy ư? Bấy giờ ta bạch: Con
cần pháp ấy Thế Tôn! Con cần pháp Thiện
Thệ ấy, như người quá khát nước mà cần nước. Bạch Thế Tôn! Con vì sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni ấy mà du hành vô số thế giới, vâng thờ cúng dường vô số trăm ngàn
vạn Câu chi na khố đa Như Lai mà chưa từng được sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni, xin mong đức Thế Tôn cứu
cái ngu độn cho con; như không đầy đủ khiến con được đầy đủ; mê mất đường về,
dắt dẫn cho con thấy đường trở về; nắng trời gay gắt, làm bóng che mát; nơi ngã
tư đường trồng cây Ta La. Tâm con
khao khát mong cầu pháp ấy, cúi
xin chỉ dạy, kiến được thiện trụ nơi đạo
cứu cánh, mặc được áp giáp đội mũ Kim Cang. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác dùng diệu âm Ca
Lăng tần già bảo Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Thiện nam tử! Ông thấy đức Liên
Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác,
vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà Ngài phải trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu
chi na khố đa thế giới.
Thiện nam tử! Ông nên cho sáu
chữ Ðại Minh. Ðức Như Lai này vì vậy cho nên đến đây. Quán Tự Tại Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn: Không thấy được Mạn Noa La (Ðàn Pháp) thì không thể đắc được pháp này. Làm thế nào biết là
Liên Hoa ấn? Làm thế nào biết là Trì Ma Ni ấn? Làm thế nào biết được Nhất Thiết
Vương ấn? Làm thế nào biết là Thể thanh tịnh Mạn Noa La?
Nay tướng Mạn Noa La đây: Chu vi
bốn phía vuông, mỗi bề vuông năm thước, trung tâm Ðàn Pháp (Mạn Noa La) đặt
tượng Phật Vô Lượng Thọ (Phật A Di Ðà).
Nên dùng năm thứ bột quý phân rải trong đàn như: Nhơn nại ra nhĩ la bảo mạc, Bát
nạp ma ra nga bảo mạc, Ma ra kiết đa bảo mạc, Pha để ca bảo mạc, Tô phạ ra noa
lỗ bá bảo mạc. Nơi bên hữu đức Vô Lượng Thọ Như Lai để trì Ðại Ma Ni Bảo Bồ Tát;
nơi bên tả Phật để sáu chữ Ðại Minh. Bốn tay thì thân sắc trắng đẹp như ánh
trăng thu, trang nghiêm các thứ báu. Tay trái cầm hoa sen, nơi trên hoa sen để
Ma Ni Bảo. Tay mặt cầm xâu chuỗi, hai tay dưới kiết Nhứt Thiết Vương ấn. Nơi dưới chân sáu chữ
Ðại Minh để trời người và các thứ trang nghiêm; tay bên hữu cầm Lư hương, tay
bên tả bưng bát đầy các thứ báu. Nơi bốn góc Man Noa La bày bốn vị Ðại Thiên
Vương nắm cầm các thứ khí trượng. Bên ngoài bốn góc Mạn Noa La để bốn hiền bình
đầy các thứ Ma Ni báu. Nếu người thiện nam và thiện nữ muốn vào Ðàn Pháp (Mạn
Noa La), không thể để cho những quyến thuộc của mình vào trong Ðàn Pháp, chỉ nên
viết tên của họ, kẻ trước vào Ðàn Pháp ấy, hãy ném tên họ của quyến thuộc mình
vào nơi trong Mạn Noa La, các quyến thuộc ấy đều được Bồ Tát vị. Người ở trong
đó xa lìa các khổ não, mau chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Pháp Mạn Noa La này vị A Xà Lê
không được vọng truyền. Nếu có phương tiện thiện xảo, thâm tín Ðại Thừa, gia
công hành trì, chí cầu giải thoát, người như vậy thì nên truyền không nên truyền
ngoại đạo dị kiến (các đạo khác). Bấy giờ Ngài Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Nếu có năm món sắc bảo mạc như vậy mới được
kiến lập Mạn Na Loa. Nếu thiện nam tử và thiện nữ nghèo cùng thiếu thốn không
thể sắm đủ các thứ quý báu ấy thì làm thế nào? Ngài Quán Tự Tại bạch rằng: Thưa
Thế Tôn! Nên phương tiện dùng các thứ đẹp đẽ mà làm Ðàn Pháp, lấy các thứ hương
hoa để cúng dường. Nếu người thiện nam ấy cũng không sắm sửa được gì vì: hoặc ở
nhờ nơi quán chợ miễu đình, hoặc có lúc giữa đường thì bây giờ vị A Xà Lê vận ý
tưởng thành Mạn Noa La kết A Xà Lê ấn tướng.
Khi bấy giờ đức Liên Hoa
Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Hãy nói sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni
này cho ta, ta vì vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến họ được xa
lìa luân hồi khổ não, mau chứng Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát nói sáu chữ Ðại Minh cho Liên Hoa Thượng
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác rằng:
"ÚM MA NI BÁT NẠP MINH
HỒNG”
Khi đang nói sáu chữ Ðại Minh Ðà
Ra Ni này, bốn đại bộ châu và các cung trời thảy đều chấn động rung lay như tàu
lá chuối. Nước bốn biển lớn sóng nổi cuồn cuộn. Tất cả quỷ Tỳ Na Dạ Ca và Dược
Xoa, La Sát, Củng Bàn Noa, Ma Hạ Ca … và các quyến thuộc của các ma làm chướng
ngại ấy thảy đều sợ hãi chạy trốn.
Lúc bấy giờ Ngài Liên Hoa
Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác duỗi
tay như mũi tượng vương trao cho Quán Tự Tại đại Bồ Tát chuỗi chơn châu anh lạc
giá trị trăm ngàn để dùng cúng dường. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát đã thọ nhận
rồi đem dâng lên đức Vô Lượng Thọ Như
Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Phật kia Ngài thọ nhận rồi trở lại đem dâng lên đức
Liên Hoa Thượng Như Lai mà khi ấy Ðức Phật Liên Hoa Thượng Như Lai đã thọ được
sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni, rồi Ngài đã trở về trong Liên Hoa Thượng thế giới.
Thiện nam tử! Khi xưa ta qua ở chỗ Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác kia đã được nghe
Ðà Ra Ni như thế.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Khiến con làm thế nào được sáu chữ Ðại Minh ấy.
Bạch Thế Tôn! Cam lồ đức vị tương ưng đầy đủ như thế. Bạch Thế Tôn! Con nếu nghe
được Ðà Ra Ni ấy thì lòng không biếng trễ, tâm niệm suy nghĩ mà thường thọ trì,
khiến các hữu tình nghe được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni được công đức rất lớn,
mong Ngài vì đó mà nói lên.
Phật dạy: Thiện nam tử! Nếu có
người biên chép sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này thời đồng với chép tám vạn bốn
ngàn Pháp Tạng. Nếu có người lấy vàng báu cõi trời, tạo hình tượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, số như vi trần,
làm như vậy rồi nơi một ngày khánh lễ tán dương cúng dường, chỗ thu hoạch quả
báo không bằng đã được quả báo công đức biên chép một chữ trong sáu chữ Ðại Minh
Ðà Ra Ni ấy, đã khéo an trụ nơi đạo giải thoát không thể nghĩ bàn. Nếu thiện nam
tử và thiện nữ, y pháp niệm sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này thì người đó sẽ đắc
tam ma địa (được đại chánh định) gọi là: Trì ma ni bảo tam ma địa, Quảng bát tam
ma địa, Thanh tịnh địa ngục bàng sanh tam ma địa, Kim Cang giáp trụ tam ma địa,
Diệu túc bình mãn tam ma địa, Nhập chư phương tiện tam ma địa, Nhập chư pháp tam
ma địa, Quán trang nghiêm tam ma địa, Pháp xa thinh tam ma địa, Viễn ly tham sân
si tam ma địa, Vô biên tế tam ma địa, Lục ba la Mật môn tam ma địa, Trì đại diệu
cao tam ma địa, Cứu chư bố úy tam ma địa, Hiện chư Phật sát tam ma địa, Quán sát
chư Phật tam ma địa, được một trăm lẻ tám món tam ma địa như vậy.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát
bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Con nay đến nơi nào để đắc sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni.
Mong Ngài vì con chỉ dạy.
Phật dạy: Thiện nam tử! Ở thành
lớn Ba La Nại có một vị Pháp sư, thường phát tâm khóa tụng thọ trì sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni. Bạch Thế Tôn! Con nay muốn qua thành lớn Ba La Nại, thấy Pháp sư
đó đặng lễ bái cúng dường. Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Pháp sư
kia rất khó được gặp gỡ, người hay thọ trì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni. Thấy được
Pháp sư đó cũng như thấy đức Như Lai, như thấy công đức Thánh Ðịa, như thấy
phước đức chứa tụ, như thấy trân bảo, như thấy ban cho châu ma ni như ý, như
thấy Pháp Tạng, như thấy cứu đời.
Thiện nam tử! Ông nếu thấy vị
Pháp sư đó không được sanh lòng khinh mạn nghi ngờ. Thiện nam tử! Sợ ông thoát
thất địa vị Bồ Tát ngược lại sẽ chịu trầm luân, vì vị Pháp sư kia giới hạnh
khuyết phạm, lại có vợ con, đại tiểu tiện dính dơ Ca sa, không có oai nghi.
Khi bấy giờ Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Như
lời Phật ban dạy: Chúng con Trừ Cái Chướng Bồ Tát và vô số chúng xuất gia Bồ
Tát, Trưởng giả, Ðồng tử, Ðồng nữ, ủng hộ tùy tùng muốn hưng khởi đại lễ cúng
dường mạnh mẽ, nắm cầm Thiên bào cái cõi trời và các thứ mão báu, vòng ngọc đeo
tai anh lạc trang nghiêm, vòng quý đeo tay, những y phục Kiều Thi Ca, các thứ
ngọa cụ bằng nhung gấm, còn có các thứ
hoa như: Hoa Ưu bát la, hoa Cự
mẫu na, hoa Bôn na lý ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha mạn na la, hoa Mạn thù sa,
hoa Ma ha mạn thù sa, hoa Ưu mạn bát la rất thơm diệu.
Còn có các loại cây hoa khác
như: cây Chiêm ba ca, cây Ca la vĩ la, cây Ba tra la, cây A để mục ngật đa ca,
cây Phạ lật sử ca thiết, cây Quân đa, cây Tô ma na, cây Ma lý ca.
Còn có các loại chim: chim Uyên
ương, chim Bạch hạc, chim Xá lợi, từng bầy theo; còn có các thứ lá đủ màu năm
sắc trăm loại: vàng, xanh, đỏ, trắng, hồng, sắc pha lê ca; có các cây quý báu
thơm ngọt.
Ðem
hết thảy các thứ cúng dường như thế, qua đến thành lớn Ba La Nại, đến chỗ Pháp
sư ở, đến rồi cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài. Tuy thấy pháp sư giới hạnh khuyết
phạm không có oai nghi, vẫn đem đầy đủ lọng tàn, ngoạ cụ, y phục và các phẩm vật
hương hoa trang nghiêm mà làm đại lễ cúng dường pháp sư rồi chấp tay ở trước vị
pháp sư đó mà thưa rằng: Ðây là Ðại Pháp Tạng, là Cam lồ vị tạng, là Bể pháp
thâm sâu vi diệu, cũng như hư không. Tất cả người, trời, rồng, dược xoa, Ngạn
đạt phạ, A tô la, Nga Lỗ Noa, Ma hộ la nga, người và chẳng phải người, hết thảy
khi nghe ông nói pháp tất cả đều nhóm hội nơi đó. Nghe ông noí pháp như đại Kim
Cang, khiến các hữu tình giải thoát quả báo ràng buộc luân hồi; những hữu tình
ấy đều được phước đức. Người ở trong thành lớn Ba La Nại này thường thấy ông cho
nên các tội thảy đều tiêu diệt, cũng như lửa đốt rừng khô. Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác biết rõ nơi ông.
Nay có trăm ngàn vạn vô số Câu chi na khố đa Bồ Tát, qua đến nơi ông đồng xin
thiết lễ đại hưng cúng dường phụng sự. Trời Ðại Phạm Thiên vương, trời Na La
Diên, trời Ðại Tự Tại, trời Nhật Thiên, trời Nguyệt Thiên, trời Phong Thiên,
trời Phong Thiên, trơì Thủy Thiên, trời Hỏa Thiên, Diêm Ma Pháp Vương, và Tứ Ðại
Thiên Vương cũng đều đến cúng dường.
Bấy
giờ pháp sư nói rằng: Thiện nam tử! Ông lại đùa giỡn đó ư? Hay là thật có tam mong cầu? Hay là kẻ Thánh vì nơi thế gian
đoạn trừ phiền não luân hồi ấy ư?
Thiện nam tử! Nếu có được sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni này thì
người đó không thể bị ba độc tham sân si làm nhiễu ô, cũng như vàng báu tử ma
không bị bụi dơ làm bẩn. Thật như vậy, thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh vương Ðà
Ra Ni này nếu có người đeo, trì tại trong thân, người đó cũng không bị nhiễm
trước bịnh tham sân si.
Lúc
bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát nắm chân pháp sư mà bạch rằng: Mắt chưa đủ sáng,
mê mất đạo mầu, ai là người dẫn đường? Tôi nay khao khát Chánh pháp, nguyện cầu
ban cho pháp vị, nay tôi chưa được Chánh đẳng Bồ đề khiến được an trụ pháp chủng
Bồ đề, sắc thân thanh tịnh không hoại các thiện, khiến các hữu tình đều chắc
pháp ấy, những người thưa hỏi lòng chớ lẫn tiếc, cúi mong pháp sư ban pháp cho
tôi "sáu chữ Ðại Minh Vương”, khiến chúng tôi mau được Vô thượng Bồ đề Chánh
đẳng chánh giác, thường chuyển mười hai pháp luân, cứu độ tất cả hữu tình ra
khỏi luân hồi khổ não, pháp Ðại Minh Vương này xưa đã chưa từng nghe. Nay khiến
tôi được "sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni”, không cứu giúp, cũng chẳng nhờ nương
mà được làm nơi nương tựa, trong đêm tối tăm làm đèn đuốc sáng.
Bấy
giờ pháp sư dạy rằng: Sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni này khó được gặp, như Kim
Cang kia không thể pháp hoại, như thấy Vô Thượng Trí, như vô tận trí, như trí
Như Lai thanh tịnh, như vào Vô thượng giải thoát, xa lìa tham sân si luân hồi
khổ não, như thiền giải thoát tam ma địa và tam ma bát để, như vào tất cả pháp
mà nơi ấy thường được Thánh chúng ưa mến. Nếu có thiện nam tử ở các nơi vì cầu
giải thoát mà phải tuân phụng các pháp ngoại đạo như kính thờ Ðế Thích hoặc thờ
bạch y, hoặc thờ thanh y, hoặc thờ Nhật thiên, hoặc thờ Ðại Tự tại thiên, Na La
Diên thiên, Nghiệt lỗ noa, hoặc trong đám ngoại đạo lõa hình, họ ưa mến những
chỗ như vậy, những kẻ ấy không được giải thoát hư vọng vô minh, có danh gọi tu
hành, mà không đắc đạo, luống uổng một cuộc đời lao nhọc. Tất cả chúng trời:
Trời Ðại phạm thiên vương, trời Ðế Thích thiên chủ, trời Na La Diên, trời Ðại Tự
tại, Nhật thiên, Nguyệt thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa Thiên, Diêm Ma Pháp
Vương, Tứ Ðại thiên vương mà ở đó thường khi muốn làm sau cầu ta "sáu chữ Ðại
Minh vương”. Những kẻ nào đắc ta sáu chữ Ðại Minh Vương đều được giải thoát
vậy.
Trừ
Cái Chướng! Tất cả Như Lai Mẫu Bát Nhã Ba la mật đa, tuyên nói sáu chữ Ðại Minh
vương như thế. Tất cả Như Lai Ứng Chánh
Ðẳng Giác và các Bồ Tát, thảy đều cung kính chấp tay mà lễ.
Thiện nam tử! Ở trong pháp Ðại Thừa này, là tối thượng tinh thuần vi
diệu. Vì sao vậy? Bởi đối với các khế kinh Ðại Thừa như Úng Tụng, Thọ Ký, Phúng
Tụng, Thí Dụ, Bổn Sanh, Phương Quảng, Hy Pháp, Luận Nghị trong đó mà đắc. Thiện
nam tử! Người được bổn mẫu đây thì được Niết Bàn giải thoát, cần gì phải nhờ
nhiều ư? Cũng như thân ròng lúa nếp của
nhà mình. Ðồ đựng đầy phải tràn ra, trời nắng quá thì phải khô héo, giã sàng rê
sảy thì bỏ vỏ thóc, làm thế nào để thu lấy gạo tinh. Như vậy các bộ DU GIÀ khác
cũng như lúa còn vỏ, trong tất cả các bộ Du Già. Sáu chữ "Lục Tự Ðại Minh vương”
này như đã bóc vỏ thấy gạo.
Thiện nam tử! Bồ Tát được pháp đây, tu hạnh bố thí Ba la mật đa và
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ Ba la mật đa. Thiện nam tử!
Sáu chữ Ðại Minh vương này khó được gặp, chỉ niệm một biến thì người đó sẽ được
tất cả Như Lai, lấy y phục, đồ ăn uống, thuốc thang, và tòa ngọa tất cả đồ cần
dùng để cúng dường.
Bấy
giờ Trừ Cái Chướng bồ bạch pháp sư rằng:
cho tôi sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni. Bấy giờ Ngài pháp sư chánh niệm suy nghĩ.
Thoạt nhiên nơi hư không có tiếng rằng: Thánh giả hãy ban cho sáu chữ Ðại Minh
vương. Bấy giờ pháp sư kia suy nghĩ: Là tiếng âý từ đâu pháp ra? Ở trong hư
không lại phát ra tiếng rằng: Thánh giả! Nay đây Bồ Tát gia hạnh chí cầu nên
được minh ứng, cho sáu chữ Ðại Minh vương vậy.
Bấy
giờ pháp sư Ngài quán thấy trong hư không Liên Hoa Thủ, Liên Hoa Cát Tường, như
ánh trăng thu, đầu đảnh búi tóc đội mão báu, tất cả trí thù diệu trang nghiêm,
thấy thân tướng như vậy, pháp sư bảo Trừ Cái Chướng rằng: Thiện nam tử! Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát, khiến nên trao cho ông sáu chữ Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni,
ông nên lắng nghe. Lúc ấy Trừ Cái Chướng chấp tay nép thân cung kính nghe Lục Tự
Ðại Minh Vương Ðà Ra Ni rằng:
"ÚM
MA NI BÁT MINH HỒNG”.
Khi
trao cho Ngài Ðà Ra Ni ấy, cõi đất thảy đều có sáu lần chấn động. Trừ Cái Chướng
Bồ Tát khi ây đắc được tam ma địa, lại được vi diệu huệ tam ma địa. Ðắc được tam
ma địa rồi, bấy giờ Trừ Cái Chướng đại Bồ Tát lấy thất bảo đầy trong bốn đại bộ
châu phụng hiến cúng dường pháp sư. Khi ấy pháp sư dạy rằng: Nay sự cúng dường
chưa xứng đáng một chữ thì làm thế nào cúng dường sáu chữ Ðại Minh? Không thọ
nhận đồ ông cúng. Thiện nam tử! Ông là Bồ Tát Thánh giả hay chẳng phải Thánh
giả. Ngài Trừ Cái Chướng lại lấy các chơn châu anh lạc giá trị trăm ngàn cúng
dường pháp sư. Lúc ấy pháp sư nói: Thiện nam tử! Nên lắng nghe tôi nói, ông nên
đem đồ cúng dường này mà dâng lên Ðức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Khi ấy Trừ Cái
Chướng Bồ Tát đầu mặt đảnh lễ nơi chân pháp sư mà nói lên lòng mong cầu được đầy
đủ rồi cáo từ Ngài mà về. Trở về nơi vườn rừng cây Kỳ Ðà, về đến nơi đảnh lễ sát
chân Ðức Phật.
Bấy
giờ đức Thế Tôn, Thích Ca Mâu Ni Như Lai
Ứng Chánh Ðẳng Giác dạy rằng: Thiện nam tử! Tôi biết ông đã được sở đắc. Ðúng
như vậy thưa Thế Tôn!
Khi
bấy giờ tại nơi ấy có bảy mươi bảy trăm ức đức
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều đến nhóm hội. Các đức Như Lai kia đồng
nói Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni rằng: "Nẵng Mồ Táp Bát Ða Nẫm, Tam Miệu Ngật Tam Một
Ðà Câu Trí Nẫm, Ðát Nễ Dã Tha: Úm - Tả Lệ Tổ Lệ Tôn Nễ Ta Phạ Hạ.”
Khi
bảy mươi bảy trăm ức Như Lai Ứng Chánh
Ðẳng Giác nói Ðà Ra Ni này thì Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nơi thân có một lỗ chân
lông gọi là Nhựt Quang Minh, trong ấy có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa
Bồ Tát. Trong lông Nhựt Quang Minh kia có một vạn hai ngàn núi vàng, mỗi một núi
ấy có một ngàn hai trăm chót cao, chung quanh núi ấy có hoa sen báu trang
nghiêm, chung quanh có vườn cây, có như ý ma ni báu cõi trời, có các ao tắm cõi
trời có vô số trăm ngàn vạn lầu các trang nghiêm bằng vàng báu, trên treo trăm
ngàn y phục, chơn châu, anh lạc. Trong lầu các kia có châu báu như ý mầu nhiệm,
cung cấp cho các đại Bồ Tát, tất cả đồ cần dùng đầu đủ. Bấy giờ các Bồ Tát vào
trong lầu các mà niệm sáu chữ Ðại Minh, lúc ấy thấy được địa vị Niết Bàn. Ðến
địa vị Niết Bàn rồi thấy được Như Lai, thấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, lòng
sanh vui mừng khi các Bồ Tát ra khỏi lầu các rồi lại về chỗ kinh hành, trong đó
có các vườn báu, lại về đến ao tắm, rồi đến núi báu Liên Hoa sắc, ở tại một chỗ
ngồi kiết già mà nhập vào Ðại định, như thế đó thiện nam tử! Các Bồ Tát an trụ
trong lỗ chân lông kia như vậy. Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông gọi là Ðế
Thích Vương, trong số đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa bất thoái
chuyển Bồ Tát. Nơi trong lông Ðế Thích Vương ấy có tám vạn núi vàng báu cõi
trời, trong núi ấy có châu ma ni báu như ý, gọi là Liên Hoa Quang, tùy tâm của
các Bồ Tát ấy suy nghĩ những gì đều được thành tựu.
Khi
Bồ Tát ở trong núi ấy, nếu nghĩ đến việc ăn uống thì liền được đầy đủ, không còn
chịu khổ phiền não luân hồi, thường khi tư duy thì thân kia được tương hợp với
sự tư duy. Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông gọi là Ðại Dược nơi trong ấy có vô
số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Bồ Tát sơ phát tâm. Thiện nam tử! Nơi trong
lỗ chân lông kia có chín vạn chín ngàn núi, trong núi ấy có hang Kim Cang báu,
hang vàng báu, hang bạc báu, hang đế thanh báu, hang liên hoa sắc báu, hang sắc
màu xanh lục báu, hang pha để ca sắc báu, núi vương đó có tám vạn chót cao, các thứ như ý ma ni và các
diệu báu khác trang nghiêm trên đó. Trong chót núi có chúng Ngạn Ðạt Phạ thường
tấu các khúc âm nhạc êm dịu, các sơ phát tâm Bồ Tát kia suy nghĩ: không, vô
tướng, vô ngã, sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, chết khổ, thương nhau xa lìa khổ,
ghét nhau gặp gỡ khổ, đạo A Tỳ địa ngục khổ, đọa Hắc Thằng địa ngục các hữu tình
khổ. Các hữu tình đoạ vào ngã quỹ thú khổ. Khi suy nghĩ như thế thì liền ngồi
kiết già phu mà nhập vào Ðại định ở trong núi ấy. Thiện nam tử! Lại có một lỗ
chân lông gọi là Hội Hoạ Vương, trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố
đa những vị Duyên Giác, hiện ra hào quang hỏa diệm, nơi lỗ chân lông kia có trăm
ngàn vạn núi vương, các núi vương ấy có bảy báu trang nghiêm. Còn có các thứ cây
Kiếp Thọ cành lá bằng vàng bạc, vô số trăm báu cùng các thứ trang nghiêm, trên
treo mão báu, vòng ngọc, các thứ y phục anh lạc, treo các linh báu, áo Kiều Thi
Ca, có các linh báu bằng vàng bạc, tiếng khua âm vang lung linh mầu nhiệm, trong
núi đầy đủ các thứ cây Kiếp Thọ như thế, có vô số Duyên Giác an trụ trong đó,
thường diễn nói Khế Kinh: Ứng tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Thí dụ, Bổn sanh, Phương
quảng, Hi pháp, Luận nghị, các pháp như thế.
Trừ
Cái Chướng! Khi ấy các Duyên Giác ra khỏi lỗ chân lông kia, sau cùng có một lỗ
chân lông gọi rằng: Phan Vương, rộng tám vạn du thiện na; ở trong đó có tám vạn
núi, các báu mầu nhiệm và ma ni như ý trang nghiêm, trong núi vương kia có vô số
cây Kiếp Thọ, có vô số trăm ngàn vạn cây
chiên đàn hương tỏa ra mùi thơm ngọt ngào, có vô số trăm ngàn vạn cây Ðại Thọ.
Lại còn có đất Kim Cang báu, có chín
mươi chín lầu các, trên treo trăm ngàn vạn chơn châu vàng báu y phục, chuỗi ngọc
anh lạc, ở trong lỗ chân lông ấy xuất hiện như thế. Trừ Cái Chướng! Vì ông mà
tôi đã nói pháp xong.
Bấy
giờ Phật bảo Ngài A-Nan Ðà: Nếu có người không biết nghiệp báo, ở trong tịnh xá
làm khạc nhổ và đại tiểu tiện … Nay tôi vì ông mà nói: Nếu ở nơi đất thường trụ
thanh tịnh ấy mà khạc nhổ thì người đó sanh ở trong cây Ta La, làm con trùng mỏ
nhọn như cây kim trải qua hai mươi năm. Nếu ở đất thường trụ mà đại tiểu tiện
thì người đó sanh làm con trùng dơ uế ở trong chỗ đại tiểu tiện nơi thành lớn Ba
La Nại. Nến lén dùng riêng của thường trụ Tam-Bảo vật chừng bằng cây tăm xỉa
răng, đọa làm loài cá trạnh, cá kình, cá sấu. Nếu trộm lấy của thường trụ
Tam-Bảo những thứ như mè, dầu, gạo, đậu … đọa vào trong ba ngã quỷ, đầu tóc bờm
xờm, lông mình đứng dựng, bụng to như núi, cổ nhỏ như kim, đốt cháy như rang
khô, chỉ bày hài cốt, người đó chịu khổ báo như thế. Nếu khinh mạn chúng Tăng,
người ấy sẽ đọa sanh vào trong nhà nghèo cùng bần tiện, sanh ra nơi nào các căn
cũng không đầy đủ, lưng gù, lùn xấu, khi bỏ thân ấy rồi lại sanh chỗ khác, nhiều
bịnh hoạn khô gầy tay chân cong quẹo, máu mủ tràn lan, da thịt nứt nẻ chảy nước,
trải quan trăm ngàn vạn tuổi chịu khổ báo như thế. Nếu trộm lấn đất cát của
thường trụ, đọa vào địa ngục rên la, ăn nuốt hòn sắt nóng, răng, môi rơi rụng và
yết hầu cháy nát, tim, gan, ruột, bụng khắp mình hực cháy.
Khi
ấy có vị Tỳ Khưu nói: Nghiệp phong kia thổi đến chết rồi lại sống, nơi ấy Diêm
Ma ngục tốt ắt đầu tội nhơn, tự nghiệp cảm của
người, sanh ra một lưỡi dài lớn, có trăm ngàn vạn lưỡi cày sắt cày lên
lưỡi ấy, chịu khổ báo trải qua nhiều vạn năm, khi ra khỏi địa ngục ấy rồi, lại
vào địa ngục vạc dầu sôi. Diêm Ma ngục tốt dắt đầu tội nhơn, lấy trăm ngàn vạn kim châm trên lưỡi, vì nghiệp lực nên vẫn
không chết, như vậy lần lượt vào các địa ngục, trải qua ba kiếp. Người ấy trở
lại làm thân người ở Nam Thiệm Bộ Châu, sanh vào nhà nghèo cùng khốn khổ, đôi
mắt đui mù, phải chịu những khổ báo như thế, hãy dè dặt chớ trộm cắp tài vật của
thường trụ Tam-Bảo.
Nếu
Tỳ Kheo trì giới, nên thọ trì ba y, khi vào vương cung mặc đệ nhất đại y, thường
nhựt trong chúng nên mặc đệ nhị y, làm các công vụ hoặc vào làng xóm hoặc khi đi
đường nên mặc đệ tam y. Các Tỳ Kheo nên thọ trì ba y như vậy. Nếu trì giới thì
được công đức, được trí tuệ. Ta nói Tỳ Kheo nên trì giới luật, không được trộm
dùng tài vật của thường trụ Tam-Bảo. Như ở trong hầm lửa, ở chốn độc dược, những
nơi như thế mà ta có thể cứu khỏi được, còn nếu trộm dùng tài vật của thường trụ
thì không thể nào cứu vớt được.
Bấy
giờ Ngài A-Nan Ðà bạch đức Thế Tôn rằng: Như lời Phật dạy chúng con sẽ thực hành
tu học đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo thọ trì giới luật, nên khéo an trụ giữ gìn giới pháp
của đức Thế Tôn.
Bấy
giờ Cù Thọ A Nan Ðà đảnh lễ sát chân Ðức Phật, nhiễu quanh rồi lui ra. Khi ấy
các vị đại Thanh Văn cũng đều trở về chỗ cũ. Tất cả trong thế gian, trời, rồng,
dược xoa, càn that bà, a tô la, nghiệt lỗ noa, khẩn na la, ma hầu la già, người cùng chẳng phải
ngươì, nghe Phật thuyết pháp rồi vui mừng tin thọ lễ Phật mà lui về.
Phật
nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
(HẾT QUYỂN THỨ TƯ)
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|