NAM MÔ
ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG KINH
HỘI THƯỢNG
PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
(3
lần)
PHẬT NÓI KINH ÐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
QUYỂN
BA
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Những việc xưa kia của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
con đã nghe Phật nói. Vậy Bồ Tát đó có những Tam ma địa gì? Kính mong đức Thế
Tôn vì con tuyên nói.
Phật dạy: Này thiện nam tử!
Những môn Tam ma địa ấy là: Hữu tướng tam ma địa, Vô tướng tam ma địa, Kim Cang
sanh tam ma địa, Nhật quang minh tam ma địa, Quảng bát tam ma địa, Trang nghiêm
tam ma địa, Tinh kỳ tam ma địa, Tát trang nghiêm tam ma địa, Trang nghiêm vương
tam ma địa, Chiếu thập phương tam ma địa, Diệu nhãn tam ma địa, Trì pháp tam ma
địa, Diệu tối thắng tam ma địa, Thí ái tam ma địa, Kim Cang phiên tam ma địa,
Quán sát nhứt thiết thế giới tam ma địa, Lạc thiện thệ tam ma địa, Thần thông
nghiệp tam ma địa, Phật đảnh luân tam ma địa, Diệu nhãn nguyệt tam ma địa, Liễu
đa quyến thuộc tam ma địa, Thiên nhãn tam ma địa, Minh chiếu kiếp tam ma địa,
Biến hiện kiến tam ma địa, Liên hoa thượng tam ma địa, Thượng vương tam ma địa,
Thanh tịnh a tỳ tam ma địa, Tín tướng tam ma địa, Thiên luân tam ma địa, Sái cam
lồ tam ma địa, Luân quang minh tam ma địa, Hải thâm tam ma địa, Ða cung tam ma
địa, Ca lăng tần già thinh tam ma địa, Thanh liên hoa hương tam ma địa, Vận tải
tam ma địa, Kim Cang khải tam ma địa, Trừ phiền não tam ma địa, Sư tử bộ tam ma
địa, Vô thượng tam ma địa, Hàng phục tam ma địa, Diệu nguyệt tam ma địa, Quang
diệu tam ma địa, Bách quang minh tam ma địa, Quang xí thạnh tam ma địa, Quang
minh nghiệp tam ma địa, Diệu tướng tam ma địa, Khuyến a tô tam ma địa, Cung điện
tam ma địa, Hiện viên tịch tam ma địa, Ðại đăng minh tam ma địa, Ðăng minh vương
tam ma địa, Cứu luân hồi tam ma địa, Văn tự dụng tam ma địa, Thiên hiện tiền tam
ma địa, Tương ưng nghiệp tam ma địa, Kiến chơn như tam ma địa, Ðiển quang tam ma
địa, Long nghiêm tam ma địa, Sư tử tần thân tam ma địa, Ta để diện tam ma địa,
Vãng phục tam ma địa, Giác ngộ biến tam ma địa, Niệm căn tăng trưởng tam ma địa,
Vô tướng giải thoát tam ma địa, Tối thắng tam ma địa, Khai đạo tam ma địa.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại
đại Bồ Tát chẳng những chỉ có tam ma địa ấy (tam muội, chánh định) mà còn ở mỗi
một lỗ chân lông đầy đủ trăm ngàn vạn tam ma địa. Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại
đại Bồ Tát còn ở địa vị Bồ Tát mà công đức như thế, cho đến chư Phật Như Lai
phải khen ngợi tán thán công đức chưa từng có vậy.
Thiện nam tử! Khi xưa tôi (Phật)
còn làm Bồ Tát, cùng với năm trăm người lái buôn, muốn vào nước Sư tử, đem theo
các xe cộ, lạc đà, trâu …để tìm kiếm của báu. Tôi dẫn đầu đi đến nước đó, phải
đi qua các làng xóm tụ lạc, các thành ấp, khi đến bờ biển, tôi cùng các lái buôn
đều lên một chiếc thuyền lớn để đi, lúc bấy giờ đã vào thuyền. Tôi hỏi chủ
thuyền: Ông xem chiều gió kia thổi từ đâu đến, thổi đến nước nào? Hay là đến bảo
châu, hay nước Xà Bà, nước La Sát ư? Chủ
thuyền ấy xem chiều giới rồi nói thế này: Gió này nên hướng về nước Sư tử mà đi.
Thuyền trương buồm nương gió đến nước Sư tử, ở trong nước đó có 500 nữ La sát.
Bỗng nhiên biến gió thổi mạnh, biển nổi sóng cuồn cuộn thuyền bị đập vỡ.
Khi ấy các người lái buôn hụp
lặn trong nước, thân kia trôi giạt vào bờ và lên được trên bờ. Năm trăm nữ La
sát ấy thấy các người lái buôn, ai nấy đều lòng rung động, kêu réo hét lên những
tiếng dữ tợn rồi hiện thành những cô gái trẻ đẹp, đến chỗ lái buôn. Họ đem y
phục cho các lái buôn, được mặc đồ rồi, tự mình vắt những đồ ướt khiến phơi mau
khô. Rời khỏi bờ biển, chúng tôi đến dưới cây Chiêm Ba Ca để nghỉ ngơi. Nghỉ
xong cùng nhau nói rằng: Chúng ta nay đây biết làm thế nào? Sanh nhai nghề gì?
Chẳng còn phương kế tính liệu làm sao? Nói rồi lặng thinh.
Bấy giờ bọn nữ La sát đến trước
những lái buôn nói như thế này: Tôi không có chồng, nên làm chồng mà ở với tôi.
Ở đây tôi có đồ ăn, thức uống, y phục, kho tàng, vườn cây, ao tắm. Bấy giờ các
nữ La sát, mỗi người đem một người lái buôn về chỗ mình ở. Ở đó trong hàng nữ La
sát có một người làm đại chủ tể tên là Ra để Ca lãm. Nữ la sát ấy đem tôi về ở
nhà nó. La sát lấy các món ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi thật đầy đủ. Tôi
được sống sung sướng không khác gì ở nhân gian. Ăn ngủ ở đó trải qua thời gian
hai ba cho đến bảy tuần lễ. Thoạt nhiên tôi thấy Ra để Ca lãm vui cười mừng
rỡ.
Bấy giờ lòng tôi sanh nghi lấy
làm lạ là chưa bao giờ thấy nữ La sát ấy
cười lên như thế. Tôi liền hỏi: Cô nay cớ chi mà vui cười như vậy. Nữ La sát
nói: Nước Sư Tử này là chỗ nữ La sát ở, tôi sợ tổn hại tánh mạng ông. Tôi lại
hỏi: Làm sao mà cô biết? Nữ La sát nói: Chớ qua đường hướng nam mà đi. Vì sao
vậy? Vì ở đó có thành sắt trên dưới bao quanh không có cửa ngõ, trong đó vô số
người lái buôn phần nhiều đã bị ăn thịt chỉ còn xương trắng, nay trong đó có kẻ
còn người mất, không tin lòng nhau, thì ông hãy theo đường này đến đó, tự nhiên
sẽ tin tôi. Khi ấy tôi chờ đến nửa đêm thì La sát ngủ mê, tôi là Bồ Tát cầm
nguyệt quang kiếm soi đờng qua phía nam, đi chung quanh thành sắt mà xem, thấy
không có cửa lớn, không có cửa nhỏ, bên thành sắt có một cây Chiêm Ba Ca. Liền
leo lên cây, tôi lớn tiếng kêu hỏi thì các người lái buôn trong thành bảo tôi
rằng: Hiền đại Thương Chủ! Hãy trở lại đi, biết không? Chúng tôi bị bọn nữ La
sát đem nhốt trong thành sắt này, cứ mỗi ngày ăn thịt trăm người.”
Khi nghe các bạn nói những việc
đã xảy ra, tôi liền trụt xuống cây Chiêm Ba La, lui y đường cũ phía nam mà cấp
tốc trở về chỗ nữ La sát. Lúc ấy La sát bảo tôi rằng: Hiền đại thương chủ! Thành
sắt đã nói, trở về thấy chăng? Ông nên nói thật. Tôi nói: Ðã thấy. Tôi hỏi: Làm
cách nào cho tôi được ra khỏi nơi này? La sát bảo với tôi rằng: Nay có một cách
hay có thể khiến ông yên ổn, ra khỏi nước Sư tử này mà trở về Nam Thiệm Bộ châu.
Tôi thấy nói lời phải ấy tôi lại hỏi tiếp cô ta chỉ cho tôi đường nào ra khỏi
nước này. Khi ấy Ra để Ca lãm bảo với tôi rằng: Có Thánh Mã Vương hay cứu độ tất
cả hữu tình. Tôi liền tìm qua chỗ Thánh Mã Vương, Ngài đang lăn mình nơi đất cát
vàng, ăn bạch dược thảo, ăn rồi rung mình đứng dậy lông thân quất ngược, làm như
thế rồi mà nói lên rằng: Người nào muốn qua bờ bên kia. Ba lần kêu hỏi: Nếu
người nào muốn đi hãy tự nói lên.
Tôi thưa với Thánh Mã Vương
rằng: Tôi nay muốn qua bên kia, nói xong tôi vội trở về nhà nữ La sát để cùng
ngủ nghỉ. La sát ngủ dậy lòng sanh hối hận những việc đã qua mà hỏi tôi rằng:
Thương chủ! Thân ông thế nào? Có lạnh lắm chăng? Hỏi vậy tôi biết ý La sát không
muốn cho tôi đi. Tôi liền lấy cớ bảo cô ta rằng: Tôi mới vừa ra ngoài thành, đại
tiểu tiện mà trở vào cho nên bị lạnh. La sát bảo tôi nên đi ngủ sớm. Ðến mặt
trời mọc tôi mới dậy. Tôi kêu các bạn lái buôn cùng đi rằng: Nay nên ra khỏi
thành này mà du ngoạn. Khi ấy các bạn lái buôn tôi đều ra khỏi thành, đến ở một
chỗ mà nghỉ, rồi cùng nhau bàn luận: Nay trong chúng ta vợ người nào thật thương
chồng? Thấy những gì và làm những việc gì?
Lúc ấy trong chúng tôi có người
nói rằng: Họ lấy những đồ ăn cao lương mỹ vị cung cấp cho tôi.
Người khác lại bảo: Họ lấy các
thứ y phục đẹp đẽ cho tôi, hoặc nói lấy mão trời, vòng ngọc, đeo tai, y phục cho
tôi.
Hoặc: Tôi đã không được vừa
lòng.
Kẻ nữa lại bảo: Họ lấy các món
long xạ hương, chiên đàn hương cho tôi. Khi các bạn lái buôn tôi nói xong, tôi
bảo: Các bạn khó giải thoát. Bởi vì sao?
Vì thương yêu nữ La sát vậy. Những người lái buôn nghe lòng nghĩ lo sợ mà hỏi
rằng: Ðại thương chủ! Thật như vậy ư?
Tôi mới bảo rằng: Ðây là nước Sư
Tử, chỗ nữ La sát ở chứ chẳng phải người vậy. Ðây thật là lời nữ La sát nói với
tôi: Chỉ có Phật Pháp Tăng mới biết rõ đây là nữ La sát. Bấy giờ các lái buôn
nghe rồi tôi liền bảo họ rằng: Nước Sư Tử này có Thánh Mã vương hay cứu tất cả
hữu tình. Ngài lăn mình nơi đất cát vàng, ăn đại bạch dược thảo, ăn rồi rùng
mình đứng dậy lông thân quật ngược mà ba lần kêu hỏi lên rằng: Ai muốn qua bờ
bên kia? Tôi thưa Ngài Mã Vương rằng: Tôi nay muốn qua bờ bên kia. Bấy giờ các
lái buôn lại nói với tôi rằng: Ngày nào đi? Tôi bảo các người ấy sau ba ngày
quyết định sẽ đi. Các người hãy nên sắm đủ lương thực. Nói xong sau đó tôi và
các bạn lái buôn cùng trở vào thành. Ai nấy đều trở về nhà nữ La sát. La sát
thấy tôi về đến niềm nở thăm hỏi: Ông có mệt nhọc chăng? Tôi hỏi cô La sát: Tôi
chưa từng thấy ý người vui vẻ, vườn cây ao tắm là có thật ư? Lúc ấy La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương
chủ! Nước Sư tử này có các thứ hợp ý vừa lòng: Vườn cây, ao tắm. Tôi bảo cô ta
rằng: Hãy sắm đủ lương thực cho tôi, tôi muốn sau ba ngày đi dạo xem vườn cây,
ao tắm, xem những danh hoa đẹp đẽ kia, tôi sẽ hái các thứ hoa ấy mà đem về nhà.
Cô La sát bảo với tôi rằng: Ðại thương chủ! Tôi sẽ sắm đủ lương thực. Lúc ấy sợ
cô La sát biết phương kế chắc sẽ giết tôi, tôi nghĩ như vậy mà làm thinh. Cô La
sát lấy đồ ăn thức uống rất ngon cho tôi ăn, ăn rồi tôi than thở. Cô La sát hỏi:
Ðại thương chủ! Cớ chi mà than thở vậy? Tôi bảo cô rằng: Tôi vốn là người Nam
Thiệm Bộ châu, nghĩ nhớ đất cũ. Cô La sát bảo tôi rằng: Ðại thương chủ! Chớ nhớ
xứ cũ làm gì. Nước Sư Tử này có các thứ ăn uống, y phục, kho tàng các điều hợp ý
vừa lòng: Vườn cây, ao tắm, thọ hưởng các thứ khoái lạc. Cớ vì sao lại nhớ Nam
Thiệm Bộ châu kia? Tôi bấy giờ làm thinh mà yên ở đó. Qua ngày ấy rồi, đến ngày
thứ hai, cô La sát sắm đủ các thứ lương thực đồ ăn uống cho tôi. Các thương nhơn
khác cũng đều sắm đủ lương thực. Qua ngày thứ ba khi mặt trời vừa mới hừng mọc,
tôi đem tất cả những người lái buôn đều ra khỏi thành. Ra khỏi thành chúng tôi
cùng bàn: Chúng ta nay nên đi mau, không nên ngó lại nước Sư tử này. Nói xong
tôi cùng chúng bạn tức thời vội vã qua đến chỗ Thánh Mã vương, đến nơi thấy
Thánh Mã vương đang lăn mình ăn cỏ, ăn rồi rùng mình đứng dậy lông thân quật
ngược. Khi ấy nước Sư tử đất đều chấn động, Mã vương ba lần nói rằng: Nay người
nào muốn qua bờ bên kia? Các bạn lái buôn đồng nói lên rằng: Chúng tôi nay đều
muốn qua bờ bên đó. Lúc ấy Thánh Mã vương vươn mình mạnh mẽ nói lời vội thúc
rằng: Các người nên đi trước, chớ ngó lại nước Sư tử! Thánh Mã vương nói như vậy
rồi, bấy giờ tôi thừa cỡi Mã vương đi trước, năm trăm lái buôn đều lên ngựa theo
sau.
Khi ấy trong nước Sư tử các nữ
La sát thoạt nghe tin các lái buôn đi, miệng nói lên những lời thống khổ, liền
cấp tốc đuổi theo, theo sau kêu gào, khóc thương than thở! Các bạn lái buôn tôi
nghe tiếng động lòng, quay đầu ngó lại, trong chốc lát đều rơi xuống nước. Các
nữ La sát với thân kia lên thảy đều ăn thịt. Khi ấy chỉ còn một mình tôi về được
Nam Thiệm Bộ Châu, Thánh Mã vương đưa tôi đến tận bờ biển. Ðến bờ, tôi bước
xuống nhiễu quanh Thánh Mã vương ba vòng, rồi tìm đường mà về chỗ cũ. Ðã về đến
nhà, cha mẹ thấy tôi ôm chân tôi mừng rỡ, thương khóc nước mắt tuôn trào. Cha mẹ
trước kia vì thương nhớ tôi khóc than, nên đôi mắt phải mù lòa, nay tôi về lại
sáng tỏ như xưa. Cha mẹ cùng tôi ở chung một chỗ. Tôi bèn thuật lại đầy đủ những
việc đã trải qua cùng bao gian khổ. Cha mẹ nghe rồi bảo với tôi rằng: con ngày
nay được toàn tánh mạng yên ổn mà về, ta hết sức sung sướng không còn lo buồn
nữa, ta không mong con phải cho ta nhiều của báu, nay chính ta tự biết tuổi già
sức yếu cần con gần gũi sớm chiều một bên, ta sẽ chết, con hãy làm chủ mà tống
tang ta. Khi xưa che mẹ đã nói lên những lời ngọt lành như thế mà an ủi tôi. Trừ
Cái Chướng! Tôi khi ấy làm thân thương chủ đã chịu những việc khổ sở nguy nan
như vậy!
Bấy giờ, Ðức Phật dạy Trừ Cái
Chướng Bồ Tát: Thánh Mã vương ấy tức Quán Tự Tại đại Bồ Tát, trong cơn nguy
hiểm, lo sợ ấy đã cứu giúp tôi. Trừ Cái Chướng! Tôi nay không thể nói hết số
lượng công đức của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Tôi chỉ vì ông mà lược nói về
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát , trong lỗ chân lông nơi thân của Ngài đã có công
đức. Trừ Cái Chướng! Thân Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, có lỗ lông vàng kim sắc,
trong đó có vô lượng trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn Ðạt Phạ. Những Ngạn
Ðạt Phạ ấy không còn chịu khổ luân hồi mà hưởng thọ sự tối thắng khoái lạc, thọ
dụng các vật ở cõi trời không cùng tận, không có ác tâm, không lòng ganh ghét,
không tham sân si, thường tu hành Bát Chánh Ðạo, thường thọ pháp lạc.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ
chân lông vàng ấy, lại phóng ra hào quang như ý bảo châu. Tùy theo chúng Ngạn
Ðạt Phạ kia, nghĩ tưởng điều cần dùng gì thì tùy ý biến hiện đầy đủ, ở trong lỗ
chân lông vàng ấy, lại có lỗ chân lông đen, ở trong đó có vô số trăm ngàn vạn
Câu chi na khố đa các vị Tiên nhơn đủ thần thông, trong đó có kẻ đủ một thần
thông, hoặc có kẻ đủ hai, ba, bốn, năm thần thông; cũng có kẻ đủ sáu món thần
thông. Ở trong lỗ chân lông ấy, lại hiện đất bạc, vàng ròng làm núi, chót núi
cao làm bằng bạc trắng, ba mươi bảy thứ ưa thích, hoa sen báu trang nghiêm núi
ấy, ở trong núi kia có tám vạn bốn ngàn chúng Thần Tiên. Những Tiên chúng đó
xuất hiện ra cây Kiếp Thọ, thân câu thì màu hồng thẫm, màu huỳnh kim, cành lá
thì làm bằng bạc trắng, phóng ra ánh sáng quý báu. Lại nơi mỗi lỗ chân lông hiện
ra bốn ao báu; nước ao có đầy đủ tám món công đức. Có những hoa hương thơm mầu
nhiệm trổ khắp trong ao, hai bên bờ ao
có cây Thiên Diệu Hương, cây Chiên Ðàn Hương, lại có cây Kiếp Thọ trang nghiêm,
trên treo mão trời, dây ngọc vòng tai, có những chuỗi ngọc anh lạc đẹp đẽ trang
sức cho cây. Trên cây treo các linh báu, có các diệu y Kiều Thi Ca phục sức. Ở
dưới mỗi cây Kiếp Thọ có một trăm Ngạn Ðạt Phạ vương thường tấu các khúc âm nhạc
êm dịu, lại có các bầy nai, chim, các giống linh cầm. Nghe âm nhạc rồi thảy đều
suy nghĩ: Các loài hữu tình phần nhiều chịu khổ luân hồi. Vì sao người Nam Thiệm
Bộ Châu phải chịu cảnh sanh, già, bịnh,
chết. Thương nhau mà phải xa lìa, chịu các khổ như thế. Các loài cầm thú chim
nai này nơi đây hết thảy đều nghĩ tưởng đến kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
như thế thì liền ở đó có các món ăn uống cao lương mỹ vị của cõi trời, các hương
thơm vi diệu cõi trời, các y phục mầu nhiệm của cõi trời. Nghĩ đến thì đầy đủ
như ý.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng Bồ
Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Con nay nghe việc đó thật là hy hữu!
Phật dạy: Này thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức Thế
Tôn: Như vậy, loài hữu tình tâm chỉ nghĩ đến danh hiệu kinh này mà còn được lợi
ích an vui như thế, huống nữa nếu lại có người nghe được kinh này mà hay biên
chép truyền bá, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, cung kính. Những người như vậy
thường được an vui. Hoặc lại có người đối với kinh này viết một chữ, thì người
đó đời đương lai không còn chịu khổ luân hồi, vĩnh viễn không còn trong những
nhà hà tiện như: hàng thịt cắt mổ … đã sanh ra thân thì hoàn toàn không chịu
cảnh lưng gù, miệng méo, môi sứt, ghẻ lác, cùng hết thảy những bịnh tướng không
đáng ưa, lại được thân tướng viên mãn, các căn đầy đủ, có thế lực lớn. Huống thọ
trì đọc tụng, chép viết đầy đủ, cúng dường, cung kính thì người đó thu hoạch
công đức nhiều biết là dường nào!
Bấy giờ đức Thế Tôn khen rằng:
Lành thay! Lành thay! Trừ Cái Chướng! Ông nay khéo nói pháp như vậy, nay trong
hội này, vô số trăm ngàn vạn Thiên, Long, Dược Xoa, Ngạn Ðạt Phạ, A Tô La,
Nghiệt Lỗ Noa, Khẩn Na La, Ma Hộ La Nga, người và chẳng phải người. Ô Ba Sách
Ca, Ô Ba Tư Ca, tất cả các chúng đó đều nghe pháp ông nói như vậy, nghe rồi đem
truyền bá rộng rãi pháp môn do ông đã hỏi. Lúc đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch đức
Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay nói diệu pháp đây, các chúng trời người khởi
lòng tin kiên cố. Ðức Thế Tôn khen rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông
có thể như thật hỏi lại Ngài Quán Tự Tại, lỗ chân lông trong thân đã hiện ra
công đức như vậy. Trừ Cái Chướng! Ngài lại có lỗ chân lông trang nghiêm quý báu,
trong đó có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa Ngạn Ðạt Phạ nữ, diện mạo đoan
nghiêm, hình thể đẹp đẽ, các thứ trang nghiêm như vậy, sắc tướng dường như Thiên
nữ. Các chúng kia khổ tham, sân, si đều không thể xâm hại nơi thân họ, mà cũng
không chịu chút phần khổ não nào của cõi nhơn gian. Nữ Ngạn Ðạt Phạ ấy ở trong
ba thời thường niệm danh hiệu Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, thì những kẻ ấy lúc
đó đều được tất cả vật cần dùng đầy đủ.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát
bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con muốn vào trong lỗ chân lông kia để xem những
việc đã có.
Phật dạy: Này thiện nam tử! Lỗ
chân lông kia không có bờ cõi biên giới, như cõi hư không, không có chướng ngại.
Thiện nam tử! Lỗ chân lông như vậy, không chướng, không ngại, cũng không xúc
não. Trong lỗ chân lông kia, Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát đi vào trong đó trải qua
mười hai năm mà không thấy được bờ cõi biên giới. Thấy trong mỗi lỗ chân lông có
các Phật bộ an trụ. Vậy nên Ngài Phổ Hiền không thể thấy biên giới gần xa kia
được. Còn các Bồ Tát khác làm thế nào mà được thấy biên giới!? Bấy giờ Trừ Cái
Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát ở trong lỗ
chân lông kia trải qua mười hai năm không thể thấy cõi biên giới mà các lỗ chân
lông lại có trăm ngàn Ðức Phật ở trong đó. Ngài Phổ Hiền đại Bồ Tát còn không
thể thấy được biên giới thì con nay làm thế nào mà vào trong ấy ư?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Ta
cũng không thấy như thế là vi diệu tịch tịnh, là vô tướng, cho nên hiện ra đại
thân có đủ mười một mặt, có trăm ngàn mắt đầy đủ rộng lớn, được tương ưng với
địa vị vắng lặng Niết Bàn. Ðại trí vô
đắc, không có luân hồi, không thấy cứu độ, cũng không chủng tộc, không có
trí huệ, cũng không có nói các pháp như vậy: như hình bóng, như tiếng vang.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát, không thấy không nghe, vì không có tự
tánh, cho đến Như Lai cũng đã không thấy thì ý ông thế nào? Thiện nam tử! Phổ
Hiền và hết thảy các vị Bồ Tát cũng đều đầy đủ như thế không thể nghĩ bàn, nhưng
không thể rõ biết chỗ biến hóa của Quán Tự Tại.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại
đại Bồ Tát biến hóa các việc cứu độ vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa hữu
tình, khiến được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế giới, thấy Phật Như Lai Vô Lượng
Thọ, được nghe pháp yếu, khiến mau thành đạo bồ đề. Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng
Bồ Tát bạch đức Thế Tôn rằng: Không biết dùng phương tiện gì khiến con được thấy
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát?
Phật dạy: Này thiện nam tử! Bồ
Tát kia chắc sẽ đến Tát Ha thế giới này mà diện kiến lễ bái cúng dường ta.
Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát
bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Có thể biết Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát khi
nào mới đến nơi đây? Phật dạy: Thiện nam tử! Khi mà căn cơ hữu tình ở đây thuần
thục thì Quán Tự Tại đại Bồ Tát kia Ngài sẽ đến nơi đấy.
Bấy giờ Ngài Trừ Cái Chướng đại
Bồ Tát lấy tay chống má suy nghĩ: Con nay có tội chướng gì? Thọ mạng tuy dài mà
chẳng được lợi ích, không được thấy Ngài Quán Tự Tại để cung kính lễ bái, cũng
như người mù đi giữa đường. Trừ Cái Chướng Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thưa Thế
Tôn! Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát thật khi nào mới đến nơi đây? Ðức Thế Tôn mỉm
cười dạy rằng: Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đó không có thời gian mà Ngài lại
đến đúng thời gian.
Thiện nam tử! Thân của Bồ Tát
kia, có những lỗ chân lông tên Sái cam lồ, nơi trong những lỗ chân lông ấy, có
vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa trời người an trụ. Có kẻ chứng Sơ địa, Nhị
địa cho đến có kẻ chứng vị Thập địa đại Bồ Tát. Trừ Cái Chướng! Trong những lỗ
lông Sái cam lồ ấy, có sáu mươi núi vàng bạc quý báu. Mỗi núi kia có sáu vạn Du
thiện na, chót cao chín vạn chín ngàn. Dùng Thiên diệu vàng báu làm trang nghiêm
khắp ni, các Bồ Tát còn một đời bổ xứ làm Phật cũng đều an ở trong ấy. Lại có vô
số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa chúng Ngạn Ðạt Phạ ở trong những lỗ chân lông
kia thường hằng tấu các khúc âm nhạc êm dịu. Trừ Cái Chướng! Trong lỗ chân lông
Sái cam lồ, lại có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa cung điện, dùng Thiên
ma ni quý báu nhiệm mầu mà trang nghiêm khắp nơi. Thấy rồi sanh lòng vui mừng.
Lại có các thứ chơn châu chuỗi ngọc anh lạc chen nhau trang sức. Ở trong mỗi
cung điện lại có Bồ Tát nói các pháp vi diệu, ra khỏi cung điện rồi mỗi mỗi đều
đi kinh hành. Ở chỗ kinh hành có bảy mươi ao báu, nước trong ao có đầy đủ tám
món công đức; có các thứ hoa gọi là hoa Ốt bát la, hoa Bát nạp ma, hoa Cự mẫu
na, hoa Bôn noa lợi ca, hoa Tháo ngạn đà ca, hoa Mạn na la, hoa Ma ha mạn na la,
hàm tiếu, ở tròn đầy đủ trong đó. Nơi đất kinh hành kia lại có cây Kiếp Thọ vừa
lòng ưa thích, dùng vàng bạc cõi trời mà làm cành lá, trên treo các mão trời
vòng tai ngọc quý, trang nghiêm các thứ trân châu báu anh lạc. Các Bồ Tát kia đi
kinh hành rồi, nơi ban đêm phân thời niệm tụng các pháp Ðại Thừa, suy nghĩ chỗ
tịch diệt Niết Bàn, nghĩ sự khổ địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh, suy nghĩ như thế
rồi, nhập vào Từ tâm tam muội.
Trừ Cái Chướng! Nơi trong lỗ
chân lông kia xuất hiện các Bồ Tát như vậy. Lại có những lỗ chân lông gọi là Kim
Cang Diệu. Trong đó có vô số trăm ngàn vạn chúng Khẩn Na La, nơi thân trang
nghiêm các tràng hoa, các chuỗi ngọc anh
lạc, dùng các dầu thơm vi diệu thoa thân, người thấy vui mừng, hằng thường niệm
Phật Pháp Tăng. Ðược lòng tin bất hoại mà an trụ nơi pháp nhẫn từ, suy nghĩ đạo
tịch diệt Niết Bàn để xa lìa luân hồi. Như vậy! Như vậy! Ðó, thiện nam tử! Chúng
Khẩn Na La kia tâm sanh ưa mến. Trong lỗ chân lông ấy có vô số núi, nơi trong
núi đó có hang Kim Cang báu, hang bằng
vàng báu, hang bằng bạc báu, hang pha lê ca báu, hang sắc hoa sen báu, hang sắc
màu xanh báu, có đầy đủ hang bảy báu như thế. Thiện nam tử! Nơi trong lỗ chân
lông kia còn có nhiều sự biến hiện ấy. Trong đó có vô số cây Kiếp Thọ, vô số cây
Chiên Ðàn lớn, các cây ấy tỏa ra hương thơm vi diệu, vô số ao tắm, trăm ngàn vạn
bảo điện cung trời, pha đê ca trang nghiêm đẹp đẽ, những cung trời bảo điện
trang nghiêm rất ưa thích xuất hiện ra như thế, chúng Khẩn Na La đều an nghỉ
trong cung điện ấy. Ðã an nghỉ rồi lại nói pháp vi diệu gọi là Pháp Bố thí Ba la
mật đa và pháp Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền Ðịnh, Trí huệ Ba la mật đa.
Nói sáu pháp Ba la mật đa rồi mỗi mỗi đều đi kinh hành, các đường đi kinh hành
nơi đó làm bằng vàng ròng, làm bằng bạc trắng, chung quanh ở đó có cây Kiếp Thọ,
thân bằng vàng ròng thì lá bằng bạc trắng. Trên đó có các thứ Áo trời, mão báu,
vòng tai ngọc quý, linh báu khua rung, chuỗi ngọc anh lạc, những chỗ kinh hành
kia trang nghiêm như thế. Lại có lầu các, Khẩn Na La nơi ấy kinh hành để suy
tưởng các khổ trầm luân; sanh khổ, già khổ, bịnh khổ, lão khổ, chết khổ, nghèo
cùng khốn khổ, khổ thương nhau phải xa lìa, khổ ghét nhau gặp gỡ, khổ cầu mong
không được. Hoặc đọa địa ngục Kim Châm, địa ngục Hắc Thằng, đại địa ngục Hắc Ê,
đại địa ngục Cực Nhiệt, địa ngục hầm lửa, hoặc đọa vào các Ngã quỷ thú, những
hữu tình như thế thọ đại khổ não. Các Khẩn Na La kia khởi lên lòng suy nghĩ. Như
vậy, thiện nam tử! Khẩn Na La kia ưa suy nghĩ pháp thâm sâu, viên tịch chơn như
cảnh giới. Lại nơi ấy thường niệm danh hiệu Quán Tự Tại đại Bồ Tát, bở do xưng
niệm đó mà liền khi bấy giờ đều được các món cần dùng đầy đủ như ý.
Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại
đại Bồ Tát, cho đến danh hiệu cũng khó được gặp gỡ. Vì sao vậy? Bởi Ngài ban cho
tất cả hữu tình như bậc đại cha mẹ, tất cả sợ sệt của hữu tình Ngài ban cho Thí
vô úy. Làm đại thiện hữu khai đạo cho tất cả hữu tình. Như vậy, thiện nam tử!
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni rất khó gặp được. Nếu
có người nào hay xưng niệm danh hiệu sẽ được sanh trong lỗ chân lông kia thì
không còn bị trầm luân, khi ra khỏi một lỗ chân lông rồi lại nhập vào một lỗ
chân lông khác, ở đó an trụ cho đến khi chứng địa vị Viên tịch (Niết Bàn).
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát
bạch đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Nay sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này làm thế
nào mà được?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni này rất khó gặp được, cho đến Như Lai mà cũng không biết chỗ
sở đắc ấy thì nhơn vị Bồ Tát làm thế nào
mà hay biết được! Ngài Trừ Cái Chướng bạch đức Thế Tôn rằng: Ðà Ra Ni như vậy,
nay Phật Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì
sao mà không biết ư?
Phật dạy: Thiện nam tử! Sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni đó là bổn tâm vi diệu của Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Nếu
biết vi diệu bổn tâm ấy tức biết giải thoát. Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch
đức Thế Tôn rằng: Thưa Thế Tôn! Trong các hữu tình có ai biết được sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni đó chăng?
Phật dạy: Không có ai biết.
Thiện nam tử! Sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này vô lượng tương ưng Như Lai mà còn
khó biết huống gì là Bồ Tát làm thế nào mà biết được chổ bổn tâm vi diệu của
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát? Tôi đi trải qua các quốc độ khác cũng không biết
sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này. Nếu có người thường thọ trì sáu chữ Ðại Minh Ðà
Ra Ni thì khi trì tụng có chín mươi chín Căng già sa hà sa số chư Như Lai nhóm
hội, có vô số Bồ Tát nhiều như vi trần nhóm hội cùng các Thánh chúng Thiên tử ở
ba mươi hai cõi trời cũng đều nhóm hội. Lại có bốn Ðại Thiên Vương ở bốn phương
làm hộ vệ, có Ta Nga La Long vương, Vô Nhiệt Não Long vương, Ðắc Xoa Ca Long
vương, Phạ Tô Chỉ Long vương. Như vậy có vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố na
Long vương đến hộ vệ người thọ trì ấy. Lại ở khắp trong cõi đất hết thảy các
Dược Xoa Hư Không thần cũng đến hộ vệ.
Thiện nam tử! Trong lỗ chân lông Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát có trăm ức Như Lai
an trụ và khen ngợi người trì tụng ấy: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi
hãy được như ý ma ni bảo, bảy đời dòng họ của người đều sẽ đều được giải
thoát.
Thiện nam tử! Người trì minh kia
(kẻ trì chú) ở trong bụng có các trùng, các trùng ấy sẽ được Bất thối chuyển địa
vị Bồ Tát. Nếu lại có người lấy sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà đeo giữ nơi
thân, trên đảnh. Thiện nam tử! Nếu thấy được người đeo giữ ấy, thời cũng như
thấy thân Kim Cang, như thấy tháp Xá Lợi, như thấy đức Như Lai, như thấy một
trăm ức trí tuệ. Nếu có kẻ trai lành gái tín nào hay y pháp niệm sáu chữ Ðại
Minh Ðà Ra Ni này, thì người đó sẽ được vô tận biện tài được trí tụ tụ thanh
tịnh, được đại từ bi, như vậy người đó ngày ngày được viên mãn công đức sáu chữ
Ba la mật đa. Người đó được trời Chuyển luân Thánh vương quán đảnh, người ấy lời
nói hơi trong miệng phát ra, chạm đến thân người nào, người chạm được bất thoái
chuyển Bồ Tát, mau chóng chứng đắc Vô thượng bồ đề Chánh đẳng chánh giác. Nếu
người đeo giữ và thọ trì lấy tay chạm đến người khác, người được rờ chạm ấy mau
được Bồ Tát vị. Nếu kẻ nam người nữ, con trai con gái, cho đến dị loại hữu tình
khác, thâý được người đeo và thọ trì ấy, tất cả đều mau được Bồ Tát vị. người
như thế đó, vĩnh viễn không còn chịu khổ sanh, già, bịnh, chết, khổ thương xa
lìa, mà được sự niệm tụng tương ưng không thể nghĩ bàn. Nay như thật mà nói lên
sáu chữ đại minh Ðà Ra Ni vậy.
Phật nói kinh
Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
(HẾT QUYỂN BA)
---o0o---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|