Sau thời kỳ Phật Thức Khí, có
Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Xá Phù Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật, Thế Tôn. Trừ Cái Chướng! Tôi ở thời ấy làm Nhẫn Nhục Tiên Nhơn nơi thâm
sơn. Chỗ ấy núi cao hiểm trở sỏi đá khô cằn, không người lai vãng ở lâu trong
đó. Bấy giờ, tôi ở chỗ đức Như Lai kia, nghe công đức oai thần của Ngài Quán Tự
Tại đại Bồ Tát, Ngài Quán Tự Tại hiện thân vào nơi kim vị, vì Phú Diện hữu tình
mà nói diệu pháp, chỉ bày Bát Chánh Ðạo, đều khiến chứng được địa vị Niết Bàn.
Ra khỏi kim địa này lại vào ngân địa. Chỗ ấy hữu tình đều là bốn chân. Ngài Quán
Tự Tại đại Bồ Tát vì loài hữu tình kia mà nói pháp: "Ngươi nên lắng nghe! Chánh
pháp như vậy, cần phải phát tâm suy xét chín chắn, ta nay chỉ bày tư lương Niết
Bàn cho ngươi.” Các hữu tình ấy đứng trước Ngài Quán Tự Tại bạch Bồ Tát rằng:
"Hữu tình không mắt, cứu làm sáng tỏ, khiến được thấy đường. Không nơi nương
nhờ, lại làm cha mẹ, khiến được nhờ nương. Trong đường tăm tối làm đèn đuốc
sáng, khai mở chánh đạo là nguồn giải thoát. Nếu có hữu tình niệm danh hiệu Bồ
Tát thì được an vui. Chúng tôi thường chịu khổ nạn như vậy.” Khi ấy tất cả những
hữu tình nghe kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, được nghe kinh rồi, liền
được an vui, chứng bậc Bất thối.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại đại Bồ
Tát ra khỏi nơi ấy lại vào thiết địa mà nơi ấy là chỗ cấm của vua Ðại Lực A Tô
La. Bồ Tát khi vào trong đó hiện thân như Phật. Bây giờ vu đại Lực A Tô La, từ
xa đến nghinh đón Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát vào trong vương cung A Tô La, có
vô số quyến thuộc, phần nhiều trong ấy đều là lưng gù xấu xí, quyến thuộc như
vậy đều đế, thân gần lễ bái nơi chân Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát mà nói bài kệ
rằng:
Con đời nay đắc quả, chỗ nguyện
thảy viên mãn.
Mong cầu được như ý, đấy là
chánh kiến con.
Ðã
được thấy Bồ Tát, con và các quyến thuộc đều được an vui, lại lấy bảo tòa báu
dâng hiến Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, chấp tay cung kính bạch rằng: Bọn quyến thuộc
chúng con từ xưa đến nay ham ưa việc tà dâm, thường ôm lòng sân hận, ưa giết hại
sanh mạng, tạo tội nghiệp âý, tâm con rất lo buồn, sợ hãi già chết luân hồi,
chịu nhiều điều khổ não, không nơi nương, không chỗ tựa. Cúi mong Ngài thương
tình cứu độ, vì con chỉ bày đường đạo giải thoát.
Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát dạy rằng: Thiện nam tử! Ðức
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thường làm hạnh khất thực, nếu ai bố thí đồ
ăn sẽ được phước đức nói không kể hết. Thiện nam tử! Chẳng những thân tôi tại
hang A Tô La này nói không thể hết, mà cho đến như mười hai Căng già hà sa
số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều ở một
chỗ, cũng không thể nói hết phước đức số lượng như thế. Thiện nam tử! Vi trần đã
có, tôi có thể đếm số lượng của nó được. Thiện nam tử! Cúng thí cơm cho đức Như
Lai được phước đức đó, tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như
nước biển lớn, tôi có thể đếm mỗi một giọt nước kia được. Thiện nam tử! Cúng thí
đồ ăn cho đức Như Lai thì được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện
nam tử! Lại như bốn đại châu, đã có người nam, kẻ nữ, con trai, con gái, thảy
đều gieo ruộng, đầy khắp bốn đại châu, không trồng giống khác, chỉ gieo hạt cải.
Long rồng thuận thời, thường được mưa xuống, hạt cải chắc tốt, nơi trong một
châu lấy làm sân chứa, giậm đạp xong rồi gom thành đống lớn. Thiện nam tử! Như
vậy tôi có thể đếm hết số mỗi một hạt cải. Thiện nam tử! Cúng thí đồ ăn cho đức
Như Lai được phước đức tôi không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như núi
Diệu Cao Sơn Vương vào nước tám vạn bốn ngàn Du thiện na, ra nước tám vạn bốn
ngàn Du thiện na. Thiện nam tử! Như vậy núi Vương kia lấy làm giấy, lấy nước
biển lớn chứa đầy trong đó, đều làm nước mực. Ðem bốn đại châu gồm có tất cả kẻ
nam, người nữ, con trai, con gái, thảy đều chép viết lượng núi Diệu Cao đã chứa
giấy ấy, chép hết không sót, như vậy tôi có thể đếm số mỗi một chữ kia. Thiện
nam tử! Cúng thí món ăn cho đức Như Lai được phước đức mà tôi không thể nói số
lượng. Thiện nam tử! Như vậy tất cả người chép viết ấy, đều đắc Thập Ðịa Bồ Tát
vị. Như vậy Bồ Tát đã có phước đức, cùng
với cúng thí cho đức Như Lai một bữa ăn, lượng phước đức kia bằng nhau không
khác. Thiện nam tử! Như Căng già sa hà sa số biển lớn, trong đó có số cát, tôi
có thể đếm mỗi một hột các kia. Thiện nam tử! Cúng dường bữa ăn cho đức Như Lai
được phước đức mà tôi không thể nói hết số lượng. Lúc bấy giờ vua Ðại Lực A Tô
La nghe nói việc đó buồn khóc thảm thiết, lệ chảy tuôn tràn, ôm lòng buồn khổ
nghẹn ngào than thở. Bạch Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Con từ xa xưa làm việc
bố thí, nhưng chỗ thí ấy tối tăm phi pháp, do việc thí ấy cho nên con nay và các
quyến thuộc ngược lại phải chịu nghiệp báo ràng buộc ở trong ác thú, nay đây làm
thế nào đem ít phần thực, phụng dâng Như Lai biến thành cam lồ. Con từ xưa đến
nay ngu si vô trí, tập hành ngoại đạo pháp Bà la môn. Thời ấy có một người thân
hình hèn xấu, đến nơi chỗ con cầu xin cần thiết. Con đem bày đủ các thứ mão báu
đẹp đẽ, vàng bạc vòng tai, y phục thượng diệu, đủ báu trang nghiêm, đồ đựng ứ già … Lại có trăm ngàn voi ngựa xe báu,
chơn châu anh lạc, lưới báu trang nghiêm, treo các chuỗi ngọc xen nhau trong
sức, có các thức tàn báu, lưới báu, màng trướng, trên treo các linh báu tiếng
khua lung linh mầu nhiệm. Lại có một ngàn con trâu màu vàng lông sắc tuyệt đẹp,
móng bạc trang nghiêm, sừng vàng phục sức. Lại dùng các báu xen nhau trang điểm.
Còn có một ngàn đồng nữ hình thể đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiệm, dường như thiên
nữ, đầu đội mão trời, vàng báu đeo tai, thân mặc diệu y, lưng đeo dây báu, vòng
quý đeo tay, chuỗi ngọc anh lạc, khua rung êm diệu, tràng hoa mầu nhiệm, các thứ
như vậy thân đều trang sức. Lại có các thứ tòa báu vô số trăm ngàn. Còn có các
thứ vàng bạc châu báu chứa để vô số. Có các trâu dê số trăm ngàn vạn, và người
chăn thả cũng nhiều như thế. Các thứ đồ ăn mỹ vị thơm tho như ở cõi trời. Còn có
vô số linh báu, vô số tòa sư tử bằng vàng bạc, vô số phất trần vàng báu đẹp đẽ.
Vô số đồ bảy báu trang nghiêm tàn lọng. Khi bày đủ các thứ như vậy làm đại bố
thí, thì có trăm ngàn Tiểu vương đều đến nhóm hội. Có vô số trăm ngàn muôn chúng
Sát Ðế Lợi cũng đến nhóm hội.
Khi con thấy rồi lòng sanh nghi hoặc. Ðương thời ấy con là tối
tôn, đủ thế lực mạnh thống lãnh đại địa. Con y phép Bà la môn, chuyên làm
sám hối túc thế ác nghiệp, muốn giết các Sát đế lợi và vợ con quyến thuộc của
họ, lấy cắt tim gan để cúng tế trời, mong trời diệt tôi. Khi ấy con đem trói hết
tay chân và nhốt hết vào trong hang cấm bằng đồng trăm ngàn người biên địa, cũng
đều bỏ vào trong hang cấm, lấy dây sắt trói vào cột sắt, trói cột tay chân tất
cả người ấy. Bây giờ con tạo dựng cửa hang, lấy cây thường làm lớp cửa thứ nhứt,
lấy cây khư nhĩ làm lớp cửa thứ hai, dùng sắt làm lớp cửa thứ ba, lấy thục đồng
làm lớp cửa thứ tư, lấy sanh đồng làm lớp cửa thứ năm, lấy bạch ngân làm lớp cửa
thứ sáu, lấy
huỳnh kim làm lớp cửa thứ bảy, trên bảy lớp cửa như vậy. Mỗi cái dùng
năm trăm dây xiềng đóng chắc chắn, lại nơi mỗi cửa đè lên một hòn núi. Khi ấy có
trời Na La Diên thoạt nơi một ngày hiện thân làm con ruồi bay đến dò xem. Lại
một ngày nữa hiện hình con ong. Lại một ngày nữa hiện hình con thân heo. Một
ngày nọ hiện tướng phi nhơn. Cứ thế ngày ngày thân tướng thay đổi dò xem. Con
bây giờ trong tâm suy nghĩ làm làm phép Bà la môn, trời Na La Diên thấy con làm
phép đó, đến nơi hang đồng mà phá hoại dẹp bỏ bảy lớp cửa, đem mỗi hòn núi ném
qua nơi khác và lớn tiếng kêu những người bị trói rằng: Vô Thắng Thiên Tử! Các
ngươi thân chịu đại khổ não, thân mạng các ngươi còn sống hay đã chết. Những
người này nghe tiếng kêu hỏi, lên tiếng trả lời: "Mạng tôi nay còn đây.” Trời Na
La Diên Tôn sai Ðại Lực Tinh Tấn cứu khổ nạn tới, trời kia liền pháp hoại hang
đồng cùng bảy lớp cửa, khi ấy các tiểu vương ở tại hang đồng, liền được thoát
nạn trói buộc mà thấy trời Na La Diên.
Bấy
giờ những người lòng toan suy nghĩ, Ðại Lực A Tô La Vương kia đã chết rồi
ư? Hay lại ở đâu hay chết phương nào?
Những Sát đế lợi lại nói lên rằng: Tôi thà cùng họ đối địch giết nhau chết mà
còn có đất, chứ không chịu trói cột thế này đến phải chết, tôi nay sẽ y
pháp Sát đế lợi cùng họ chiến đấu giết
nhau, giả như có chết tại nơi đất ấy cũng được sanh Thiên. Giờ các Tiểu vương
nơi tại nhà mình bày biện xe giá, yên cương dây ngựa, tay cầm dùi gậy muốn đại
chiến đấu.
Bấy
giờ, trời Na La Diên hiện Bà la môn thân hình lùn xấu, mặc áo giáp da, quấn
quanh nơi vai, trong tay nắm cầm chĩa ba cây nhọn, làm vật tùy thân, qua đến cửa
con. Khi ấy kẻ giữ cửa bảo người kia rằng: Không nên vào cửa này, người ông hèn
xấu, chớ có vào trong. Bà la môn nói: Tôi nay từ xa mà qua đến đây. Kẻ giữ cửa
hỏi Bà la môn rằng: Ông từ đâu đến? Bà la môn đáp: Tôi là Ðại Tiên Nhơn làm Quốc
vương xứ Nguyệt Thị, từ đó mà đến đây. Bây giờ kẻ giữ cửa đến chỗ Ðại Lực A Tô
La Vương nói: Người ấy nay đến đây để làm gì? Người giữ cửa nói: Tôi nay không
biết họ đến làm gì? Ðại Lực A Tô La Vương bảo rằng: Ngươi đi kêu Bà la môn đến.
Người giữ cửa vâng lệnh gọi Bà la môn vào trong. Ðaị Lực A Tô La vương thấy rồi
liền mời ngồi tòa báu. Kim Tinh là thầy đã được A Tô La Vương hầu hạ phụng sự ở
trong đó, bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Nay Bà la môn này là người đại ác, lại
đến đây quyết định phá hoại thầy ông. Nay sao biết ư? Bảo rằng: Tôi nay biết đó. Sao biết thân ta
đã hiện ấy là trời Na La Diên? Ðã nghe thấy rồi tâm liền suy nghĩ. Con làm huệ
thí thì không phản phúc, nay đến chướng nạn phá hoại nơi con. Ðại Lực A Tô La
nói: Con miệng biện tài cần gì hỏi Bà la môn: Ông đến chỗ tôi là có ý gì? Bà la
môn đáp: Tôi đến xin vua hai dặm đất. A tô La bảo Bà la môn rằng: khanh cần xin
hai dặm đất, tôi sẽ cho khanh đất kia ba dặm. Trước lấy bình vàng trao nước tịnh
thủy, bảo rằng cần đất khanh sẽ thọ lấy. Bà la môn thọ rồi mà chúc nguyện an vui
trường thọ.
Bấy giờ Bà la môn
biến mất thân hìn xấu xí. Lúc ấy Kim tinh bảo A Tô La Vương rằng: Ông nay sẽ
chịu ác nghiệp quả báo. Bây giờ trời Na La Diên thoạt nhiên hiện thân, trên vai
gánh hai vầng nhật nguyệt tay cầm gươm bén, tay bưng luân báu cung tên cây gậy.
Khi ấy Ðại Lực A Tô La Vương bỗng nhiên thấy rồi giựt mình run sợ, thân người té
xỉu mê man dưới đất, giây lâu mới tỉnh, nay phải sao đây! Ta thà tự vẫn thuốc
độc mà chết ư? Khi ấy trời Na La Diên
đang đo số đất chỉ còn hai dặm chứ không có nữa, chẳng đủ ba dặm trái lời hứa
trước, tôi nay làm? Na La Diên nói với vua rằng: Nay phải nên theo lời tôi chỉ
bảo. Lúc đó, Ðại Lực A Tô La Vương thưa rằng: Tôi xin vâng lời chỉ giáo. Trời Na
La Diên nói: Ngươi thật ấy ư? Ðại Lực A
Tô La Vương thưa: Tôi như thật vậy. Ðây là lời thành thật tôi không hối tiếc.
Thời
ấy con y Bà la môn giáo, làm chỗ tác pháp đều bị phá hoại những của cải đã có,
vàng bạc trân báu, đồng nữ trang nghiêm, y phục linh báu, tàn lọng, phất mầu,
bảo tòa sư tử, trâu vàng nghiêm báu, cùng các quý khác trang nghiêm đầy đủ. Bấy
giờ tiểu vương cùng thảy các chúng đều thọ nhận lấy, tức thời ra khỏi nơi chỗ
tác pháp Ðại Lực A Tô La vơng.
Vua
Ðại Lực A Tô La bạch Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Con nay tâm hằng suy
nghĩ, vì khi xưa kia y pháp Bà la môn, làm đại hội bố thí, việc bố thí của con
thật mê muội sai lầm. Con nay và các quyến thuộc, vì thế bị cầm giữ trong hang
sắt này, chịu đại khổ não. Ngài Quán Tự Tại! Con nay xin quy y, mong Ngài thương
xót, cứu thoát chúng con khỏi khổ nạn. Rồi làm lời khen rằng:
Quy
mạng Ðại Bi Liên Hoa Thủ,
Ðại
Liên Hoa Vương đại Cát Tường.
Các
thứ trang nghiêm diệu sắc thân,
Ðầu
đội mão trời trang nghiêm các báu.
Ðảnh
đội Di Ðà nhất thiết trí,
Cứu
độ hữu tình hằng vô số.
Người thì bịnh khổ cầu an vui,
Bồ
Tát hiện thân làm thầy thuốc.
Mắt
sáng mặt trời nơi đại địa,
Tối
thượng thanh tịnh mắt mầu nhiệm.
Chiếu soi hữu tình được giải thoát,
Ðược
giải thoát rồi diệu tương ưng.
Cũng
như như ý ma ni bảo,
Hay
hộ chơn thật diệu Pháp Tạng.
Thường hằng nói sáu Ba la Mật,
Xương dương pháp ấy đủ đại trí.
Con
nay khẩn thiết đến quy y,
Khen
ngợi Ðại Bi Quán Tự Tại.
Hữu
tình nhớ niệm danh Bồ Tát,
Lìa
khổ giải thoát được an vui.
Tạo
gây ác nghiệp đọa Hắc Thằng,
Và
đại A Tỳ địa ngục đạo.
Có
các ngã quỷ nơi khổ thú,
Sợ
sệt xưng danh đều giải thoát.
Như
vậy ác đạo các hữu tình,
Thảy
đều lìa khổ được an vui.
Nếu
người hằng niệm Ðại Sĩ danh,
Sẽ
được vãng sanh cõi Cực Lạc.
Thấy
Phật Như Lai Vô Lượng Thọ.
Ðược
nghe diệu pháp chứng Vô Sanh.
Lúc ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát thọ ký cho Ðại Lực A Tô La Vương:
Ông đời vị lai sẽ được thành Phật, hiệu rằng Cát Tường Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ông ở thời ấy sẽ chứng sáu chữ Ðại Minh của
môn Tổng Trì. Nay đây tất cả các A Tô La Vương, ở đời sau ông đều cứu độ. Tất cả
hữu tình ở cõi Phật như vậy,
không còn có tiếng tham sâm si. Bây giờ Ðại Lực A Tô La Vương đã được
thọ ký rồi, liền lấy trân châu anh lạc giá trị trăm ngàn cùng các thứ diệu báu
mầu nhiệm trang nghiêm, trăm ngàn muôn số mão trời vàng ngọc vòng tai, dâng lên
nguyện mong thọ nhận.
Lúc
bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta nay vì
ông nói pháp, ông hãy lắng nghe mà suy nghĩ, đời người là vô thường giả tạm,
mạng căn khó bền lâu, trong tâm các ông thường suy nghĩ tham đắm đầy đủ đại
phước đức, lòng thì thường mến nhân dân tôi tớ, cho đến lúa nếp kho lẫm và kho
tàng của báu. Tâm thường luyến cha mẹ, vợ con, cho đến các quyến thuộc, những
thứ như vậy tuy hằng thương yêu nhưng chỉ như chiêm bao đã thấy, khi mạng chết
rồi không thể thay nhau cứu được. Mong được sống lâu ở Nam Thiệm bộ này, do điên
đảo đó nên sau khi mạng chung, thấy sông Nại Hà máu huyết tràn đầy, lại thấy cây
lớn lửa hừng cháy mạnh. Thấy việc ấy rồi tâm sanh khiếp sợ, khi ấy Diêm Ma ngục
tốt lấy dây cột trói, vội vã dắt đi trên đường lớn đầy chông dao bén nhọn. Mỗi
cất bước đi là chẻ cắt đứt thương, có vô số chim la la, chim thứu hung tợn và
những chó dại gầm rú ăn thịt. Ở tại địa ngục chịu cảnh cực khổ kia, trong đường
đi lớn đầy dao nhọn bén, lại còn có những cây gai nhọn dài đến mười sáu ngón
tay, mỗi bước có năm trăm mũi dao nhọn đâm vào bàn chân, đau đớn khóc than kêu
gào thảm thiết mà nói rằng: Những hữu tình chúng tôi đều ưa tạo tội nghiệp, nay
phải chịu đại khổ, tôi nay biết làm thế nào? Khi ấy Diêm Ma ngục tốt bảo rằng:
Ngươi từ xưa đến nay chưa từng đem cơm cúng dường cho các bậc Sa Môn, cũng chưa
từng nghe những tiếng pháp âm thâm diệu hòa nhã, chưa từng đi nhiễu tháp tượng
Phật. Khi ấy các tội nhơn bảo Diêm Ma ngục tốt rằng: Tôi là tội chướng đối với
Phật, Pháp, Tăng, không cung kính tín hiểu mà thường xa lìa. Ngục tốt bảo rằng:
Chính ngươi đã tự tạo các ác nghiệp, nay phải chịu khổ báo, ngục tốt đem các tội
nhơn ấy đến chỗ vua Diêm Ma, đến rồi đứng trước mặt. Khi ấy vua Diêm Ma nói
rằng: Ngươi đi đến ở nơi chỗ nghiệp báo. Khi ấy Diêm Ma ngục tốt lãnh dắt tội
nhân bỏ vào đại địa ngục Hắc Thằng, đến rồi các tội nhơn ấy bị ném bỏ vào trong
địa ngục, đã ném vào rồi, mỗi một tội nhơn đều bị trăm vết thương, thân thể vị
dùi cắt mạng đều không chết. Lại bị hai trăm vết thương lớn, thân thể đều bị dùi
cắt mạng cũng không chết. Lại có ba trăm vết thương lớn, đồng thời dùi cắt thân
mạng kia cũng không chết, mạng vẫn còn sống. Khi ấy đem ném vào hầm lửa lớn mạng
cũng không chết. Lúc ấy lại lấy cục sắt nóng nhét vào trong miệng tội nhơn bắt
phải nhai nuốt, môi răng lưỡi nứu, cổ và yết hầu đều bị cháy nát, cả tim gan
ruột bụng cũng đều bị nướng, khắp thân cháy hoại như rang khô. Quán Tự Tại dạy
Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Khi chịu những cái khổ đó không một ai thay nhau cứu
được, ngươi nên biết vậy. Ta nay vì ngươi nói pháp đó, các ngươi phải đem thân
tự mình làm phước. Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại bảo Ðại Lực A Tô La Vương rằng: Ta
nay muốn đến rừng cây Kỳ Ðà, ngày nay ở tại đó đại chúng đang nhóm hội.
Khi
ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát phóng vô số sắc hào quang sáng: Hào quang sắc xanh,
hào quang sắc vàng, hào quang màu hồng, hào quang màu trắng, hào quang màu pha
lê, hào quang màu sắc sáng màu vàng kim … Những hào quang đó chiếu đến trước đức
Tỳ Xá Phù Như Lai. Bấy giờ trời, rồng, dược xoa, la sát bà, Khẩn Na La, Ma Hộ La
nga và các người cùng thảy đều nhóm hội. Lại có vô số đại Bồ Tát cũng đến nhóm
hội. Trong chúng ấy có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy
sửa y áo trịch vai bên hữu, gối hữu sát đất, chấp tay cung kính hướng về đức Thế
Tôn mà bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Hào quang sáng này là từ đâu đến? Phật dạy:
thiện nam tử! Hào quang sáng ấy là của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát ở trong cung Ðại
Lực A Tô La Vương phóng ra đến đây. Bấy giờ Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch đức
Thế Tôn rằng: con nay làm cách nào để có thể thấy Ngài Quán Tự Tại kia? Phật
bảo: Thiện nam tử! Bồ Tát kia Ngài sẽ đến đây.
Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát khi ra khỏi vương cung Ðại Lực A Tô La, vườn cây Kỳ Ðà bỗng
nhiên hiện cây Thiên Diệu Hoa, cây Thiên Kiếp Ba, lại có vô số chư Thiên đẹp đẽ
sắc tướng trang nghiêm, trên cây treo trăm thứ chơn châu chuỗi ngọc anh lạc, các
thứ Kiều Thi Ca y rất đẹp và các thứ y phục khác. Cây nhánh đều là sắc thẫm
hồng, vàng bạc thì làm lá. Lại có vô số cây hương thơm vi diệu và những cây hoa
nhiệm mầu, vô số ao báu trong ao báu ấy có trăm ngàn muôn sắc diệu hoa xen nhau
tỏa khắp mùi hương. Khi cảnh xuất hiện ra những điều như vậy, Ngài Hư Không Tạng
bồ tát bạch đức Thế Tôn rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nay ở đâu mà chưa thấy
đến?
Phật
dạy: Thiện nam tử! Ngài Quán Tự Tại từ vương cung Ðại Lực A Tô La ra rồi, lại có
một chỗ gọi là Hắc Ám, không người năng đến. Thiện nam tử! Chỗ Hắc Ám kia ánh
sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu thấu, có như ý bảo gọi là tùy nguyện, ở
trong đó thường khi pháp ra ánh sáng chiếu soi, nơi ấy có vô số trăm ngàn Dược
Xoa an trú. Khi thấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát đi vào, lòng chúng quá vui mừng
nhảy nhót hớn hở, đến chiêm ngưỡng nghinh đón Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, đầu mặt
lễ sát chân mà thưa hỏi rằng: Bồ Tát nay vào đây không mệt nhọc ư? Lâu nay không thấy đến chỗ Hắc Ám này? Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Ta vì cứu độ các hữu tình nên đến đây. Bây giờ chúng
Dược Xoa, La Sát đem tòa sư tử Thiên Kim Bảo mà thỉnh Ngài an tọa. Bồ Tát liền
vì Dược Xoa, La Sát mà thuyết pháp: Các ngươi nên lắng nghe! Có kinh Ðại Thừa
tên Trang Nghiêm Bảo Vương. Nếu có người được nghe một bài kệ bốn câu mà hay thọ
trì đọc tụng, giải nói nghĩa lý, tâm thường suy nghĩ sẽ được phước đức không có
hạn lượng. Thiện nam tử! Vi trần đã có, ta có thể đếm số lượng được. Thiện nam
tử! Nếu có người đối với kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này có thể thọ trì
một bài kệ bốn câu thì phước đức kia ta không thể đếm số lượng. Như nước biển
lớn, ta có thể đếm từng giọt một. Ðối với kinh này mà thọ trì một bài kệ bốn
câu, phước đức ấy ta không thể tính số lượng được. Giả sử mười hai Căng già ha
sa số Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, trải
qua mười kiếp đều ở một chỗ, thường lấy y phục, ngọa cụ, thuốc thang, đồ ăn uống
và các món cần dùng khác dâng cúng chư Phật, cũng không thể nói hết số lượng
phước đức kia được. Chẳng những chỉ mình ta ở chỗ Hắc Ám mà nói không thể hết.
Thiện nam tử! Lại nữa, người trong bốn châu lớn mỗi ngươì tự mình xây dựng nhà
cửa, tạo lập tịnh xá, trong đó lấy toàn vàng báu cõi trời tạo dựng ngàn tháp
nhiều tầng (Suất Ðổ Ba), trong một ngày hết thảy thành tựu các công đức cúng
dường, không bằng đối với kinh này mà thọ trì đọc tụng một bài kệ bốn câu. Thiện
nam tử! Như năm sông lớn dẫn nước về đại hải, những dòng nước như thể không có
cùng tận. Nếu có người hay thọ trì kinh Ðại Thừa này bốn câu kệ thì phước đức
thu được cũng bất tận vậy.
Bấy
giờ Dược Xoa, La sát bạch Ngài Quán Tự Tại rằng: Nếu có hữu tình mà hay biên
chép kinh Ðại Thừa này thì phước đức kia thế nào? Thiện nam tử! Phước đức ấy vô
cùng vô tận. Nếu có người hay biên chép kinh này, cùng với người biên chép tám
vạn bốn ngàn pháp tạng phước đức ấy bằng nhau. Người đó sẽ được địa vị Chuyển
luân Thánh vương, thống lãnh bốn đại châu oai đức tự tại, diện mạo đoan nghiêm,
ngàn thiên nữ vây quanh hầu hạ, tất cả kẻ địch tự nhiên thần phục. Nếu có người
chỉ thường niệm danh hiệu kinh này, ngươì đó mau được giải thoát khổ báo luân
hồi, xa lìa già chết, ưu bi khổ não. Người đó sau khi sanh nơi nào cũng nhớ được
túc mạng đời trước, thân thường có mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, trong miệng
thường tỏa ra mùi thơm hoa sen xanh, thân tướng viên mãn, đầy đủ đại thế
lực.
Khi
thuyết pháp rồi, các Dược xoa, La sát có kẻ chứng được Thánh quả Dự lưu. Trong
đó hoặc có kẻ đắc quả Nhất lai mà nói lên lời như thế này: Cầu xin Bồ Tát ở lại
chỗ này chớ đi nơi khác. Con nay ở chỗ Hắc Ám này, lấy vàng báu tạo chỗ kinh
hành. Khi ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát dạy rằng: Ta vì cứu độ vô số hữu tình
khiến được đạo Bồ đề cho nên muốn đi nơi khác. Lúc ấy các Dược xoa, La sát đều
cúi đầu, lấy tay chống má bồi hồi, lòng càng lưu luyến mà nghĩ như thế này: Nay
Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bỏ đây mà đi, sau này ai vì chúng ta nói pháp vi
diệu.
Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát ở đây ra đi, các Dược xoa, La sát đều đi theo mà đưa
tiễn. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát bảo rằng: Các ngươi đưa đi xa rồi nên trở về
chỗ. Các Dược xoa, La sát đầu mặt sát đất đảnh lễ bên chân Ngài Quán Tự Tại rồi
mới trở về chỗ cũ.
Khi
ấy Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát cũng như ánh lửa xẹt lên hư không, đến thẳng cung
trời, đến cung trời Ngài hiện thân là Bà la môn. Trong các thiên chúng kia, có
một vị Thiên tử gọi là Diệu Nghiêm, mà lại thường chịu khổ báo nghèo cùng.
Bấy
giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát hiện thân Bà la môn đến chỗ Thiên tử đó, đến rồi bảo
rằng: Tôi bịnh hoạn đói khát và lại mệt
nhọc. Lúc ấy Thiên tử khóc than mà bảo Bà la môn rằng: Tôi nay nghèo thiếu không
có vật chi để dâng. Bà la môn nói tôi rất cần xin đem biếu tôi chút ít phần.
Thiên tử lúc ấy gắng gượng vào cung tìm tòi
coi có vật chi, thoạt tiên thấy các đồ đựng báu lớn, lại có các thứ quý
báu khác đựng đầy trong đó. Lại có đồ quý trong ấy đựng đầy thức ăn uống thượng
vị. Lại có thượng diệu y phục để trang nghiêm nơi thân đầy khắp trong cung. Lúc
đó Thiên tử lòng toan suy nghĩ: Bà la môn ngoài cửa phải là người không thể nghĩ bàn, khiến tôi được phước thù thắng
phi thường, phải mời vị đại Bà la môn kia vào trong cung điện. Vua đem những đồ
quý báu và các thức ăn uống cao lương mỹ vị cúng dường. Thọ lãnh đồ cúng dường
rồi vị Bà la môn chúc vua an vui trường thọ.
Bấy
giờ Thiên tử bạch Bà la môn rằng: Hiền giả từ phương nào đến đây? Bà la môn nói:
Tôi từ trong đại tịnh xá rừng cây Kỳ Ðà mà đến đây. Thiên tử hỏi rằng: Chỗ đó
thế nào? Bà la môn bảo: Tịnh xá ở trong rừng cây Kỳ Ðà, nơi ấy thanh tịnh, xuất
hiện ma ni báu trời và cây Kiếp Thọ trang nghiêm. Lại hiện ra các thứ ma ni quý
báu khác lòng rất ưa thích. Còn hiện ra các thứ ao báu. Lại có vô số các vị đại
chúng giới đức oai nghiêm đầy đủ đại trí tuệ, cùng xuất hiện trong đó. Ở đó có
Ðức Phật hiệu Tỳ Xá Phù Như Lai. Nơi ấy là chỗ Thánh Thiên an trụ, có việc biến
hóa xuất hiện như thế. Bấy giờ Thiên tử bạch hiền giả rằng: Thế nào Ngài đại Bà
la môn nên nói thật Ngài là trời hay là người? Hiền giả! Làm sao lại xuất hiện
các việc ấy? Bà la môn nói: Tôi chẳng phải trời chẳng phải ngươì. Tôi là Bồ Tát
vì muốn cứu độ tất cả hữu tình, thấy được đại Bồ Tát đạo. Thiên tử nghe rồi liền
lấy Thiên diệu mão báu, vòng tay ngọc quý trang nghiêm đem dâng cúng dường, nói
kệ khen rằng:
Con
gặp được công đức, xa lìa các tội lỗi,
Như
nay trồng ruộng tốt, hiện chắc được quả báo.
Khi
Thiên tử nói kệ rồi, vị Bà la môn kia việc hóa độ đã xong mà liền ra khỏi Thiên
cung. Liền khi ấy qua nước Sư Tử. Ðến nơi đứng trước mặt các nữ La sát, hiện
thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm lạ kỳ. Các La sát nữ thấy vẻ đẹp ấy khởi lên dục
tâm, đem lòng hâm mộ, bước đến gần mà bảo rằng: Ông có thể làm chồng tôi, tôi là
gái trẻ đẹp, chưa từng sính đôi, mong được làm chồng tôi, nay đã đến đây chớ đi
nơi khác, như người vô chủ mà lại được chủ, nhà nhà tối gặp đèn sáng, tôi này
giàu có kho lẫm chứa đầy đồ ăn, thức uống, y phục và có vườn đầy trái ngon ngọt,
có ao tắm trong mát vừa lòng. Vị Bà la môn bảo bọn nữ La sát rằng: Các ngươi nên
lắng nghe ta nói. La sát nữ thưa: Xin nghe lời chỉ dạy. Bà la môn bảo: Ta nay vì
các ngươi nói pháp Bát Thánh Ðạo và nói pháp Tứ Thánh Ðế … Bây giờ bọn nữ La sát
nghe pháp rồi, đều được chứng Thánh quả, có người được quả Dự lưu, có người được
quả Nhất lai, không còn khổ tham sân si, không khởi ác tâm, không ý giết hại
sinh mạng, lòng mến chánh pháp , vui trọn nơi giới. Bọn La sát nói: Chúng tôi từ
nay trở đi không dám giết hại, như người Nam Thiệm Bộ châu giữ gìn giới luật,
sống đời trong sạch, ăn uống thanh tịnh. Chúng tôi từ nay nguyện sống cuộc đời
như vậy. Thế là bọn nữ La sát không còn tạo nghiệp ác nữa và giữ giới thanh
tịnh.
Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát ra khỏi nước Sư Tử, lại qua đại thành Ba La Nại. Chỗ ấy
xấu xa nhơ nhớp, có vô số trăm ngàn vạn loại sâu giòi chen sống nơi ấy. Ngài
Quán Tự Tại Bồ Tát vì muốn cứu độ các hữu tình kia nên hiện ra con ong bay đến
miệng phát ra tiếng: "NẴNG MỒ MỘT ÐÀ DÔ (Nam Mô Phật Ðà Da), các loài trùng
nghe tiếng ấy, cùng nhau lên tiếng như thế. Do sức oai lực ấy, loài sâu trùng
kia, thân kiến tuy chấp như núi cao và đầy các tùy hoặc phiền não, trí Kim Cang
xử đều phá hoại tất cả, liền được vãng sanh về Cực Lạc thế giới, đều làm Bồ Tát
đồng danh Diệu Hương Khẩu.
Ở đó
Ngài cứu độ các loài hữu tình kia rồi, Ngài Quán Tự Tại liền ra khỏi thành Ba La
Nại, qua đến nước Ma Dà Ðà. Khi ấy trong nước gặp trời nắng hạn hơn hai mươi năm. Ngài thấy dân chúng và các hữu tình
đói khát khổ não, đều ăn thịt lẫn nhau. Lúc ấy Bồ Tát Quán Tự Tại suy nghĩ: "Lấy
phương pháp gì để cứu hữu tình này?”. Bây giờ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát giáng
xuống những trận mưa, nước mưa thấm ướt khắp hết những nơi khô khan. Sau tiếp
mưa rơi đầy các thứ đồ đựng, nước trong mỗi đồ đựng biến thành những món ăn thức uống ngon ngọt,
các người kia được ăn uống no đủ.
Khi
ấy Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát lại giáng xuống những trận mưa hạt giống như lúa, mè,
đậu, bắp cùng các thứ khác cần dùng. Những người nơi đó thọ dụng tùy ý đầy đủ.
Bây giờ tất cả nhân dân trong nước Ma Dà Ðà lấy làm kinh ngạc chưa từng có. Dân
chúng nhóm hội một chỗ, đã khi đang nhóm họp các người đồng nói lên rằng: Oai
lực của trời nay vì sao lại đến như thế? Trong đám dân chúng ấy có một cụ già
lưng khòm, tay chống gậy, người này sống lâu vô số trăm ngàn tuổi, bảo các người
rằng: Chẳng phải oai lực trời đâu! Nay đã hiện ra thế này, chắc là oai thần biến
hiện của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Các người hỏi rằng: Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát
kia làm thế nào mà xuất hiện ra điềm tốt ấy? Ông già nói: "Ngài Thánh Quán Tự
Tại dùng oai thần lực biến tối tăm thành đèn sáng, biến trời nóng bức thành bóng
che mát, nơi nào thiếu khát hiện ra dòng sông, nơi nào sợ sệt liền ban vô úy,
bịnh khổ bức bách hiện thầy thuốc hay, hữu tình thọ khổ biến làm cha mẹ, khiến
chúng sanh trong A Tỳ địa ngục thấy được đạo Niết Bàn, hay khiến tất cả hữu tình
trong thế gian đều được công đức, lợi ích an vui. Nếu có người niệm danh hiệu
Ngài Quán Tự Tại thì người đó tương lai xa lìa tất cả khổ não luân hồi. Những
ngươì nghe rồi đều nói lành thay! Nếu có người ở trước tượng Ngài Quán Tự Tại mà
kiến lập đàn vuông (Mạn noa la), thường dùng hương hoa cúng dường Bồ Tát Quán Tự
Tại, người đó sẽ được Chuyển luân Thánh vương, có bảy báu đầy đủ như: Kim luân
báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, nữ báu, chủ kho tàng báu, chủ binh báu. Ðược
bảy báu như thế. Nếu có người đem dâng một cành hoa cúng dường Ngài Quán Tự Tại
Bồ Tát thì thân ngươì đó tiết ra mùi
thơm, sanh vào nơi nào thân tướng cũng đầy đủ.
Ông
già ấy sau khi kể công đức thần lực của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rồi thì cùng với
các người khác trở về chỗ ở.
Bấy giờ, Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát bay lên hư không suy nghĩ: "Ta lâu
không thấy đức Tỳ Xá Phù Như Lai, nay trở về rừng cây Kỳ Ðà nơi trong tịnh xá để
thấy đức Thế Tôn”. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát liền trở về tịnh xá, thấy có vô số
trăm ngàn vạn trời, rồng,
Dược
xoa, Ngạn đạt phạ, A Tô la, Nghiệt lỗ noa, Khẩn Na La, Ma hộ la nga, người và
chẳng phải người. Lại có vô số trăm ngàn vạn Bồ Tát đều đang nhóm hội. Lúc ấy
Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Vị đến đây là Bồ Tát
nào? Phật dạy: Thiện nam tử! Ðó là Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát. Khi đó Ngài Hư
Không Tạng Bồ Tát ngồi lặng thinh. Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát nhiễu quanh Phật ba
vòng rồi trở về bên trái mà ngồi. Bấy giờ đức Thế Tôn an ủi mà nói rằng: Ông
không mệt nhọc ư? Thiện nam tử! Ông ở
các nơi làm việc giáo hoá thế nào? Ngài Quán Tự Tại liền kể hết những việc giáo
hoá đã qua, tôi đã cứu độ hữu tình như vậy. Như vậy! Lúc ấy Hư Không Tạng nghe
rồi tam ngạc nhiên chưa từng có: Nay tôi thấy Quán Tự Tại còn làm Bồ Tát mà có
thể cứu độ những quốc độ hữu tình như thế, những hữu tình trong những quốc độ ấy
nay đã làm Bồ Tát được thấy Như Lai như thế. Khi đó Hư Không Tạng Bồ Tát đứng
trước Ngài Quán Tự Tại mà thưa hỏi Quán Tự Tại rằng: Hóa độ như vậy không mệt
nhọc ư? Quán Tự Tại Bồ Tát nói: Tôi
không mệt nhọc, thưa hỏi rồi yên lặng mà ngồi.
Lúc
bấy giờ đức Thế Tôn gọi thiện nam tử rằng: "Các ông hãy lắng nghe, tôi nay vì
ông nói sáu pháp Ba la mật đa. Thiện nam tử! Nếu làm Bồ Tát, trướcc phải tu hạnh
bố thí Ba la mật đa, sau tu các hạnh Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền Ðịnh,
Trí tuệ Ba la mật đa, tất cả được viên mãn như vậy. Nói pháp xong đức Thế Tôn
yên lặng mà an trụ. Bấy giờ trong chúng hội ai nấy đều trở về chỗ cũ, các chúng
Bồ Tát cũng trở về nơi các cõi Phật Sát.
Nam
Mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Phật
nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương.
(HẾT QUYỂN HAI)
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|