Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ
Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Ðà ra ni giáo là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên
tôn về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y
ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, lìa được sanh tử, chứng được nhập thân vô ngại Phật
quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc
bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.
Nay
Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu
được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Ðược lìa sanh
tử, thành tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược.
Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh,
thân an. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: "Mật chú của chư Phật là phép bí
mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các vị Thánh không thể thông đạt.
Chỉ tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: "Thần chú là
Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thông hiểu.”
Hiền Thủ Bát nhã sớ nói rằng: "Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ
hiểu của nhơn vị”. Chỉ tụng trì không cần phải gượng giải thích. Còn Viễn Công
Niết Bàn Sớ nói rằng: "Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc.
Phiên dịch lại không hiểu, vì vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai Chỉ
Quán nói rằng: " Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm
nhơn chỉ tuyên truyền Hiển giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ
xưa đều nói: "Ðà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà
thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu phước đức.”
Hỏi:
Vì sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu?
Ðáp:
Thần chú là viên mãn giải là phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên không
giải thích cho người khác rõ được, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ.
Trong Pháp Hoa Sao nói rằng: "Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được,
cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhã kinh nói: "Tổng trì như thuốc thần, cũng như
cam lồ của trời trị lành các bịnh sai lầm, uống thì thường an vui.
Lại
trong Lý Thú kinh, đức Như Lai có nói năm tạng:
1)Kinh Tạng: Như sữa bò.
2)Luật Tạng: Như sữa đặc.
3)Luận Tạng: Như sữa tươi.
4)Bát Nhã Tạng: Như sữa chín.
5) Ðà Ra Ni Tạng:
Như đề hồ.
(Ðề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các
món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu tình thân tâm an vui. Ở Tây
Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các bịnh.)
Ðà
Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các
chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, An-Lạc pháp thân. Lý Thú kinh
sớ nói rằng: "Tánh Ðức Lực Ðại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải
thoát thì mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ cho Hoa Nghiêm kinh là Viên,
các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Ðà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái
với Hiền Thủ cùng các đại sư khác sao?
-Ðáp: Viên tông có hai:
1)Hiển viên.
2)Mật viên.
Hiền
Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên. Nay có Thần Biến sớ
sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là
Viên tông. Hiển Mật đã khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện cũng
chia làm hai:
1)Trì tụng nghi quỹ.
2)Nghiệm thành hành tướng.
Trước
hết nói về Trì Tụng Nghi Quỹ: Chơn
Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp trì tụng, trước hết phải ngồi Kim Cang chính
tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc tùy ý ngồi sao cũng được.) Tay
kiết Ðại Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa
ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới
rún, ấn này hay diệt tất cả cuồng loạn, vọng niệm, tư duy tạp nhiễm.) Thân tam
lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một
chữ Phạn LAM (Trong sách có ghi ra Phạn
tự, song không thể đánh máy bằng vi tính được. Nếu hành giả nào muốn thực hành,
xin tìm sách để nghiên cứu thêm)
Chữ
này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt trăng rằm tròn
sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón
tay cái để trong lòng bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm
chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công
đức.) Tay mặt cầm chuỗi ký số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108
biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn trì Lam hay là Lãm
Tịnh
pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến tam nghiệp đều được
thanh tịnh; tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc
thù thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh khiến thành tịnh y.
Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là
Chơn tịnh. Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là bình thanh
tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ròng. Chơn ngôn một
chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ
rằng:
Ra
tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ
không để trang nghiêm nó, Phạn tự RA điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM
tự.
Như
Minh châu trên nhục kế, an trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng pháp giới; vô lượng
chúng tội trừ. Tất cả xúc uế, nên gia trì chữ này. Nếu thật ngoại duyên không
đầy đủ, không nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho
sạch. Nếu người có ngoại duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y mới thanh
tịnh, lại dùng LAM tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các chơn
ngôn Nghi quỹ nói.)
Rồi
tiếp tục tụng chú: Hộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ
LÂM. Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ nghịch, thập ác, tất cả tội nghiệp. Có công
năng trừ tất cả bịnh, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỷ thần và các việc bất
tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên
mãn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu người chuyên tâm tụng một biến hay bảo hộ
được chính mình. Tụng hai biến hay bảo hộ được đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo
hộ mọi người trong nhà. Tụng bốn biến bảo hộ mọi người trong một thành. Cho đến
bảy biến hay bảo hộ người trong tứ thiên hạ.
Rộng
như Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói.
Kế
đến tụng 108 biến Lục Tự Ðại Minh Chơn ngôn: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT
MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG.
Nếu tụng chú này ngay chỗ có
vô lượng chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ nhóm hội, đầy đủ vô lượng tam muội
pháp môn. Ai tụng trì, thì bảy đời dòng họ đều được giải thoát; các trùng ở
trong bụng sẽ được Bồ Tát vị. Người đó hằng ngày được đầy đủ công
đức
sáu pháp Ba la mật. Ðược vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng
chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc xa lìa các sân độc, sẽ được Bồ Tát
vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó
có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều
bình đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài Quan Thế Âm Bồ
Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Ðại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn
bốn ngàn Pháp Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu tạo
tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức việt một trong sáu chữ này.
Nếu người nào đã đắc sáu chữ Ðại Minh này, thì họ không còn bị nhiễm trước tham,
sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì
tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài hữu tình mà chân, tay người đó chạm đến,
mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không còn thọ các khổ sanh tử nữa.
Khi nói xong Lục Tự Ðại Minh này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất
hiện và đồng thanh nói "CHUẨN ÐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Ðại Minh cùng Chuẩn
Ðề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
kinh nói.) Nhiên hậu kiết ấn Chuẩn Ðề tại Tim.
Chuẩn Ðề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến
xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Ðại Luân Chú, chỉ trì Chuẩn
Ðề Chơn ngôn cũng được.)
*
CHUẨN
ÐỀ PHÁP ẤN
Lấy
ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong lòng
bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào
lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa ngón
tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn Ðề và Ðại Luân Nhứt Tự,
nếu muốn triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấn, tụng
chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của
tượng Chuẩn Ðề Bồ Tát, hoặc quán tâm ký số, hoặc mười niệm ký số. Hoặc kiết ấn
tụng được một nghìn tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc chỉ
tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi trì số cũng được, nếu
sợ lộn, chỉ tán trì cũng có kết quả.
Thất Cu
Chi Phật Mẫu Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni Chơn ngôn: Nam Mô Tát Ða Nẫm,
Tam Miệu Tam Bồ Ðề Cu Chi Nẫm, Ðát Ðiệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà
Ha. Bộ Lâm.
Phật
dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướng.
Thành tựu tất cả bách công đức. Trì chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa
kẻ tịnh người uế; chỉ chí tâm trì tụng hay khiến chúng sanh đời sống ngắn ngủi,
sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các
bịnh khác; nếu không tiêu diệt là không có lý. Nếu có ai tụng mãn bốn mươi chín
ngày, Chuẩn Ðề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm
niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô
phước trúng tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách; thường
tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị
quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Ðăng Lục có trí dẫn người xưa) :
"Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ
được đại trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và
toại ý, giống như ngọc Như ý; tất cả tùy tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chug này
thường khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh lòng kính yêu,
thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không
thể đốt. Ðộc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị
đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm
La, Thiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm
trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với
Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Ðại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh
hoa quả, huống chi là người năng y pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được
đại Thần túc, sanh về cõi trời Ðâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dược,
chỉ y pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát
trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Ðược sống lâu
ngang bằng nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng mãn một trăm vạn biến,
liền được đi mười phương Tịnh Ðộ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng
được quả Bồ đề.
Nếu
muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn khác, cần phải rộng tu
cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhão để thoa khắp nơi đạo
tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để
trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Ðông, ngồi
trước Kính đàn tùy sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức
hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn
108 biến Chuẩn Ðề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy
thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặt, kiết ấn tụng
chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính
trì tụng cũng được.
Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong
Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các Ðàn pháp. Nếu không có
Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh chư ác thú,
cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Ðàn pháp, trì tụng là hơn hết.
Hoặc không tưởng được Ðàn pháp chỉ nên chuyên tâm trì chú. Các ngày thập trai:
1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Ðề này các Phật và Bồ Tát đều
đồng nói. Ðộc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn Ðàn Pháp, Chuẩn Ðề Phạn
bổn Văn thuyết có mười vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán
rằng:
"Chuẩn Ðề Công Ðức tụ;
Vắng
lặng tâm thường tụng.
Tất
cả các đại nạn,
Không thể xâm phạm người.
Trên
trời và cõi người,
Thọ
phước ngang bằng Phật.
Gặp
chây Như Ý này,
Ðắc
định, chứng Bồ đề.
(Rộng như Chuẩn Ðề kinh và Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói: Chuẩn Ðề
cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là Phạn âm bất đồng mà thôi.)
Chú Ðại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Ðối
với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp
diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ trì Pháp
Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác
chú trong thế gian. Ðây là đảnh của các Ðức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay
ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu trì
sẽ tùy ý đắc quả, giống như ngọc Như Ý. Có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu
tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều
chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu trì tụng
các chơn
ngộn
khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng
thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm thì các
vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường
trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được.
(Rộng như Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.)
Từ
trước đến giờ lần lượt trì tụng đến Chuẩn Ðề chú; nếu không kiết được ấn chú
Chuẩn Ðề, thì lấy tay trái kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì
tụng. Hoặc không theo sau, trước tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ trì,
chỉ trì Chuẩn Ðề Thần chú, hoặc căn độn không thể thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ
chữ Án trở xuống mà trì, nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ Án v.v… là chánh
Thần chú vậy. Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang, miệng
tụng Hồng Hồng Chơn ngôn cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:
1-Ấn
trên trán.
2-Ấn
vai phía trước.
3-Ấn
vai bên mặt.
4-Ấn
tại nơi ngực.
5-Ấn
ở yết hầu.
Ấn
xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.
Hay
trừ các ma chướng, thành tựu tất cả thắng sự. Hoặc trước khi trì tụng, kiết ấn
trước năm chỗ rồi trì tụng. Lại nữa, tùy theo chỗ trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ,
kiết Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn, gia trì chú trong hương thủy
(nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch
trừ kiết giới. Lại khi chánh trì tụng, căn cứ theo Cu Chi Ðà Ra Ni kinh, Kim
Cang Ðảnh kinh, Ngũ Tự Ðà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói, theo căn
cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ.
1)Du
Dà Trì:Chỉ tưởng có chữ hiện ra
trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm mình như một mặt trăng tròn vắng
lặng, thanh tịnh, trong ngoài phân minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong tâm nguyệt
luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta
Bà Ha tự; theo trước xoay về phía
bên hữu, lần lượt hiện khắp theo một vòng tròn (đọc cao giọng xong rồi trở lại
từ đầu)
2)Xuất
nhập tức trì: Nghĩa là trong hơi
thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở ra theo chữ ra, hơi hít vào theo
chữ vào. Chữ chữ, sáng rõ như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián đoạn.
(Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong
tâm như mặt trăng tròn sáng: Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ
trong miệng mình lưu nhập vào trong miệng đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, xoay quanh bên
hữu, an bố trong tâm nguyệt luân của Chuẩn Ðề Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ
trong tâm nguyện luân của Ngài Chuẩn Ðề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tròn liền nhau,
chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ miệng của Chuẩn Ðề Bồ Tát tuôn ra,
lưu nhập vào trong miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân.
Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.)
3)Kim
Cang Trì: Môi, răng không động,
lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng.
4)Vi
Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình
tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ phân minh mà xưng niệm.
5)Cao
Thinh Trì: Khiến kẻ khác nghe được
diệt tội, lại có hai cách trì tụng:
1- Vô
số trì tụng: Nghĩa là không trì
chuỗi định số, thường trì luôn không gián đoạn.
2-
Hữu số trì tụng: Nghĩa là lần
chuỗi trì tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót.
Nếu
lần chuỗi trì tụng, chỗ thu hoạch công đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như
kinh Số Châu Công Ðức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Ðà
Ra Ni, người ấy cũng được phước vô lượng. Và trong kinh Kim Cang Niệm Châu có bài kệ rằng: "Nếu để trên đỉnh
đầu tịnh tội vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn trọng nghiệp, trì nắm tay sẽ trừ
các tội giúp cho hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Ðảnh Luân Nghi có nói:
"Nếu dùng LAM TỰ Chơn ngôn gia trì số châu bảy biến, khi hành trì một biến thành
nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu
châu). Mỗi ngày y pháp trì tụng, cần phải phân thời hạn định. Nếu như một thời,
thì buổi sớm mai. Hai thời thì thêm buổi hoàng hôn. Nếu trì ba thời thì thêm
buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần phải phân thời, lúc nào trì
tụng cũng được.)
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|