× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Luận

Duy thức học



PHẦN THỨ MƯỜI BA TU-HỌC (1)

ĐOẠN I

 

TU-CHỨNG

 

Hỏi:

 

Như vậy đã thành-lập tướng và tính Duy-thức.  Ai đối với mấy vị, làm thế nào ngộ-nhập?

 

Đáp:

 

Người đủ hai chủng-tính đại-thừa, lược đối với 5 vị, lần-lữa ngộ-nhập.

 

 

ĐOẠN II

 

HAI CHỦNG TÍNH ĐẠI THỪA

 

Hỏi:

      Hai chủng-tính1 đại thừa là gì?

 

Đáp:

 

      Đó là:

 

1.      CHỦNG-TÍNH BẢN-TÍNH TRỤ2: Từ vô-thủy đến nay, nương-dựa bản-thức, vẫn sẵn có nhân vô-lậu.

 

2.      CHỦNG-TÍNH TẬP-SỞ-THÀNH3: Sau khi nghe pháp, thuận theo pháp giải thoát, pháp đại-thừa, pháp xuất-thế giới, định, tuệ, vạn-hạnh v.v... rồi huân-tập cái nghe được thành chủng.

 

Phải đủ hai chủng-tính đại-thừa ấy, mới có thể lần-lữa ngộ-nhập duy-thức.

 

 

 

(1) Chủng: đã tập thành hạt giống. Tính: Tính mãi mãi thế, giống đại-thừa cứ phát-triển.

(2) Sẵn có giống Phật.

(3) Nghe rồi mới biết, huân-tập thành giống.


 

 

ĐỌAN III

 

NGỘ NHẬP 5 VỊ DUY THỨC

 

Đây là năm vị duy-thức phải ngộ-nhập:

 

1.      VỊ TƯ-LƯƠNG: Tu đại-thừa, thuận theo phần giải-thoát. Thuận theo pháp xuất-thế, đại-thừa.

 

2.      VỊ GIA-HÀNH: Tu đại-thừa, thuận phần quyết-trạch. Lựa-chọn biết đi con đường nào, làm sao đến đích, theo ai, lựa chọn thầy, bạn, pháp.

 

3.      VỊ THÔNG-ĐẠT: Các bồ-tát sở-trụ kiến-đạo. Tức là ở phần thấy đạo: biết rõ hành trình từng chặng, lui-tới, thời-gian.

 

4.      VỊ TU-TẬP: Các bồ-tát sở-trụ tu-đạo. Tức là có lương rồi, quyết chọn, biết rõ rồi: Nay là đi đường: tu hành, tiến bước.

 

5.      VỊ CỨU CÁNH: Trụ nơi vô-thường chính-đẳng bồ-đề. Tức là tới đích: thành Phật.

 

ĐOẠN IV

 

LẦN-LỮA NGỘ-NHẬP.

 

Hỏi:

-         Thế nào là: lần-lữa ngộ-nhập duy-thức?

 

Đáp:

  1. Các bồ-tát trong VỊ TƯ-LƯƠNG: Biết duy-thức-tướng, duy-thức-tính, và tin sâu-xa.

 

  1. Ở VỊ GIA-HÀNH: Có thể lần-lữa dẹp-trừ năng-thủ và sở-thủ, dẫn phát chân-kiến, chân-trí. Sở-thủ là tướng-phần, thân, cảnh.

 

  1. Ở VỊ THÔNG-ĐẠT: Như-thật thông-đạt. Hiểu biết rõ-ràng, chắc-chắn.

 

  1. TRONG VỊ TU-TẬP: Như lý đã nhận thấy, hằng hằng tu tập, dẹp trừ các chướng.

 

  1. ĐẾN VỊ CỨU CÁNH: Thoát-ly chướng-ngại được viên-minh. Có thể cùng-tột đời vị-lai giáo-hóa chúng hữu-hình. Lại khiến họ ngộ-nhập Duy-thức-tướng và Duy-thức-tính1.

 

(1) Tướng là đứng về mặt: bề ngoài. Tính là đứng về mặt: bề sâu

ĐOẠN V

 

VỊ TƯ LƯƠNG

 

Hỏi:

Hành tướng của vị tư lương thế nào?

 

Đáp:

Cho đến nay chưa khởi thức1.

Cầu an-trụ nơi duy-thức-tính

Đối với hai thủ tùy-miên2

Còn chưa có thể dẹp dứt

 

GIẢI THÍCH:

 

Từ khi pháp bồ đề tâm thâm-cố3, cho đến chưa khởi thức, thuận theo quyết-trạch-phần.

 

Cầu an-trụ duy-thức chân-thắng-nghĩa tính4.

 

Thảy đều nhiếp về vị tư lương.

 

Bởi vì đến vô-thượng chính-đẳng5, bồ đề, nên tu tập các thẳng6 tư-lương.

 

Vì chúng hữu-tình7, nên siêng cầu giải-thoát.

 

Bởi thế, cũng gọi là thuận phần giải-thoát8

 

Bồ tát về  vị này: nương nhân9,  bạn lành10, tác ý11, tư lương,  bốn cái sức hơn.

 

Đối với duy-thức-nghĩa dù rất tín-giải12, mà chưa có thể rõ năng-thủ sở-thủ không.  Phần nhiều ở ngoài cửa tu bồ-tát-hạnh.

 

Cho nên đối với 2 thủ tùy-miên13, còn chư có cái công-lực dẹp dứt được, khiến chúng chẳng khởi hiện-hành.

 

 

(1) Từ lúc phát bồ-đề-tâm cho đến chưa chứng.

(2) Tùy: theo. Miên: ngủ. Nằm nép ở trong, chưa dẹp, dứt được.

(3) Sâu, bền chắc.

(4) Thuộc chân-lý, không phải tục-nghĩa (nghĩa-lý thế-gian).

(5) Đẳng: rộng khắp cả

(6) Thắng: hơn hết

(7) Muốn độ sinh

(8) Cởi cho người  rồi cho mình

(9) Chủng-tử.

(10) Thầy, bạn, hòan cảnh

(11) Chú-ý, quyết-định.

(12) Hiểu sâu

(13) Chưa dứt, chúng ngủ, có khi dậy, khởi.


 

Đây nói hai thủ, chỉ rõ là năng-thủ và sở-thủ tính. Tập-khí hai thủ gọi là TÙY-MIÊN, theo dõi chúng-hữu-tình, nằm nép trong tạng thức. Hoặc theo luôn luôn và làm cho thêm lầm lỗi, nên gọi là tùy-miên. Tức là chủng-tử sở-tri-chướng và phiền-não-chướng.

 

ĐOẠN VI

 

VỊ GIA HÀNH

 

Hỏi:

Hành tướng của vị gia hành thế nào?

 

Đáp: (bài tụng)

Hiện-tiền lập chút ít vật1.

Gọi là duy-thức-tính.

Bởi vì có sở-đắc2.

Chẳng phải thật trụ duy-thức3.

 

GIẢI THÍCH:

 

Bồ-tát đầu-tiên đối với vô số kiếp trước4 khôn khéo sắm đủ tư lương: Phúc đức, trí tuệ, thuận theo phần giải thóat đã đầy đủ5 (viên-mãn) rồi. Vì vào kiến-đạo. Muốn trụ duy thức tính, lại phải tu gia hành, để dẹp trừ hay thủ.

 

Gia hành có 4: Noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất pháp6. Bốn pháp ấy đều gọi là thuận quyết trạch phần, bởi vì đến chân-thật quyết-trạch phần, gần thấy đạo: tức là gia-hành.

 

ĐOẠN VII

 

VỊ THÔNG ĐẠT

 

Hỏi:

Hành tướng của Vị Thông Đạt thế nào?

 

Đáp: (bài tụng)

Nếu khi đối với cảnh sở duyên

Trí đều vô sở đắc7

Khi ấy mới trụ Duy-thức

Bởi vì xa lìa hành-tướng hai-thủ.

 

 

(1) Nay lập chút ít phương-pháp: tu duy-thức-tính.

(2) Vì còn biết (tâm sở-đắc): chấp, mắc cứng trong đó.

(3) Cầu-trụ chứ chưa an-trụ duy-thức-tính.

(4) Tu 3 vô số kiếp mới thành Phật.  Đây là vô số kiếp đầu.  Đến hết hồi-hương.

(5) Phúc, trí viên-mãn, phần giải-thoát đã viên-mãn.

(6) Bốn quả vị tu-chứng.  Xem trong "bản đồ tứ-giáo” trong quyển:”Phật-giáo” cua Tuệ Quang, về mấy quả đầu Tạng giáo.

(7) Không cảnh sở-duyên và không trí: 2 không (không năng, sở) mới trụ duy-thức.

 

GIẢI THÍCH:

 

Nếu khi Bồ tát đối với cảnh sở-duyên1, vô-phân-biệt-trí đều vô-sở-đắc2, bởi ví chẳng lấy các tướng lý luận.

 

Khi đó mới gọi là thật trụ tính duy thức chân thắng nghĩa, tức là chứng Chân-như.

 

Trí với Chân như bình đẳng, bình đẳng3, đến xa lìa hành tướng năng thủ và sở thủ.

 

Hành tướng của năng thủ và sở thủ đều là phân biệt, bởi vì tâm hý luận-hữu-sở đắc hiện.

 

 

ĐOẠN VIII

 

VỊ TU TẬP.

 

Hỏi:

Hành tướng của Vị Tu Tập thế nào?

Đáp: (bài tụng)

Vô-đắc4 bất-tư-nghì,

Là trí xuất-thế-gian,

Bởi vì xa lìa hai thứ thô-trọng5,

Bên chứng được chuyển-y6.

 

GIẢI THÍCH:

 

Bồ tát trước kiến-đạo khởi rồi, vì dứt các chướng, nên chứng được chuyển-y.

 

Lại hằng tu tập trí-vô-phân-biệt7.

 

Cái trí ấy xa lìa năng thủ và sở thủ, nên nói là vô đắc bất tự nghì. Hoặc xa lìa lý-luận8, nói là vô đắc. Diện dụng khó lường, gọi là bất tư nghì.

 

Đó là trí vô phân biệt xuất-thế-gian9. Bởi vì dứt thế gian nên gọi là xuất thế gian.

 

Hai thủ tùy miên là cội gốc của thế gian, chỉ trí đó có thể dứt, mới được cái tên "xuất” hoặc "xuất thế”.

 

 

(1) Quán duy-thức.

(2) Thấy không có cảnh sở-duyên, không phân-biệt.

(3) Như gương soi vật.

(4) Không được.

(5) Phiền-não, sở-tri.

(6) Bồ-đề, niêt-bàn.

(7) Chính-trí.

(8) Danh ngôn, lý luận ở đời.

(9) Vượt cái biết trong đời.

Trí đó đủ hai nghĩa thể vô lậu và chứng chân như, riêng gọi là xuất thế.

 

Các trí khá chẳng như vậy.

 

Cứ trong thập-địa hằng tu vô-phân-biệt-trí như vậy, bỏ 2 thứ thô-trọng.

 

Chủng-tử 2 chướng đặt tên là thô-trọng.

 

Bởi vì tính không kham-nhiệm, trái với tế-khinh.

 

Khiến cho trọn dứt, nên gọi là xả.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy