ĐOẠN VI
SINH-TỬ NỐI-LUÔN
Hỏi:
- Do
đâu có chúng hữu-tình sinh-tử nối luôn?
Đáp:
(bài tụng)
- Bởi
các nghiệp tập-khí, hai thủ tập-khí chung, dị-thục trước đã hết sinh
dị-thục khác.
Giải-thích:
Các nghiệp là phúc, phi phúc và bất-động1, là tu nghiệp
thiện và bất-thiện thuộc về hữu-lậu. Quyến-thuộc2 của nghiệp
cũng gọi là nghiệp, vì cũng đồng chiêu-cảm dẫn và mãn quả dị-thục3.
Nghiệp tập-khí4 do huân-tập mà thành. Chỉ nghiệp trước và
hiện-tại, gọi là tập-khí.
Tập-khí phát-triển mãi, nối tiếp phát-triển, đến khi trưởng-thành
cảm-chiêu quả dị-thục.
Hai thủ tập-khí: Hai thủ là năng-thủ và sở-thủ. Như tướng phần,
kiến-phần, danh, sắc5, hay tâm, tâm-sở.
Chung: Nghiệp-chủng và chủng-tử của 2 thủ chung nhau, làm duyên gần
và xa, ảnh-hưởng lẫn nhau. Nghiệp chiêu-cảm sinh-tử.
Tiền dị-thục: Nghiệp các đời trước sinh ra thân đời này.
Dị-thục sau: Nghiệp đời này sinh ra các thân đời sau.
Bài kệ này ý nói: Bởi nghiệp và hai thủ sinh-tử luân-hồi, đều chẳng
dời thức. Vì tâm và tâm-sở làm chủng tính.
(1)
Phúc: lành. Phi-phúc: ác. Bất động: tu định, vào 4 thiền 4 định.
(2) Đồng với nhau. Những cái gì liên quan
tớí nghiệp.
(3) Đầu thai, nhập thai.
(4) Nghiệp tập-khí: thói quen.
(5) Danh: 4 uẩn sau. Cùng sắc là 5 uẩn.
ĐOẠN VII
TẬP-KHÍ
Sinh-tử tương-tục bởi các tập-khí.
Tóm tắt có ba thứ:
1)
DANH-NGÔN TẬP-KHÍ: Danh-ngôn là người ta đặt tên cho sự-vật, như cái bàn,
cái cây. Ý-thức chấp vào các danh-ngôn đó. Mỗi pháp hữu-vi đều có chủng-tử
của nó. Chia làm 2 loại:
a)
BIỂU-NGHĨA DANH-NGÔN: Những thứ có tên chung, mọi người đều công nhận. Như
cái núi, cái sông v.v...
b)
HIỆN-CẢNH DANH-NGÔN: Chỉ rõ cảnh. Trong tâm mình biết, mình mình hiểu.
Hai thứ danh-ngôn huân-tập thành chủng-tử.
2)
NGÃ-CHẤP TẬP-KHÍ: Chúng-tử chấp-ngã và ngã-sở, (những cái của ta). Ngã
chấp có hai thứ:
a)
Cu-sinh ngã-chấp.
b)
Phân-biệt ngã-chấp.
Hai thứ ngã-chấp huân-tập thành chủng-tử, khiến cho chúng hữu-tình thấy có
mình và người khác nhau.
3)
HỮU-CHI TẬP-KHÍ: Thân phần của mình, lại có giống nghiệp về sau.
Nghiệp-chủng-tử chiêu-cảm dị-thục ba cõi. Có hai loại:
a)
HỮU-LẬU THIỆN: Nghiệp có thể chiêu-cảm quả khả-ái.
b) BẤT
THIỆN-NGHIỆP: Nghiệp có thể chiêu-cảm quả đáng ghét, ai cũng ghét.
Hai thứ hữu-chi huân-tập thành chủng-tử, khiến cho dị-thục quả khác nhau
về thiện hay ác thú.
Ngã-chấp và hữu-chí tập-khí là duyên tăng-thượng của quả khác nhau.
Trong bài tụng trên nói: các nghiệp tập-khí: nên biết là hữu-chi
tập-khí.
Hai thủ tập-khí: đó là ngã-chấp và danh-ngôn; hai tập-khí. Vì lấy
ngã và ngã-sở, cùng là danh-ngôn mà huân-tập thành. Đều gọi là lấy
(thủ).
ĐOẠN VIII
TỊNH-PHÁP NỐI-LUÔN.
Từ vô-thủy đến nay, các chủng tử vô-lậu nương dựa ở bản thức. Bởi các
chuyển-thức v.v...thường thường huân-tập, chúng nảy-nở và phát-triển, cho
đến lúc hoàn toàn thành Phật.
Xoay và bỏ các hạt giống xấu đã có từ lâu. Vun sới các hạt giống
thanh-tịnh. Trau-dồi mãi, bởi nguyện lớn làm mãi trong tương-lai, càng
ngày càng thanh-tịnh, cho đến hoàn-toàn. Ví như trồng rau. Chăm vun sới,
tưới bón, rau ngày càng lớn. Lúc đầu chỉ là những hạt rất nhỏ. Chăm làm
cỏ, nhổ những cỏ xấu tranh sống với rau. Một ngày kia, rau lớn, trùm cả
vườn. Cỏ có mọc cũng bị át đi.
Đó là ví-dụ thô-sơ để ta có một ý-niệm về trau-dồi hạt giống tốt.
ĐOẠN IX
BA TÍNH
Hỏi:
- Tại
sao trong các kinh, Phật nói có ba tính?
Đáp:
- Nên
biết ba tính cũng chẳng dời thức.
(Bài tụng):
1) Bởi các biến-kế1
Biến-kế các vật,
Cái chấp biến-kế đó,
Tự-tính không phải có.
2) Tự-tính y-tha-khởi
Do phân-biệt các duyên2 mà sinh ra.
3) Viên-thành-thật thường xa-lìa biến kế. Cho nên viên-thành-thật
với y-tha chẳng phải khác và không khác. Ví như tính vô-thường v.v...với
các pháp chẳng phải khác và không khác.
Nếu không thấy tính viên-thành-thật thì cũng không thấy y-tha3.
(1)
Biến: khắp.Kế: so-đọ chấp-trước.
(2) Duyên: Như quyển sách nhờ giấy, bìa
v.v…
(3) Thấy viên-thành-thật rồi mới thấy
y-tha.
Giải
thích:
Có ba tính:
1) Biến-kế.
2) Y-tha.
3) Viên-thành-thật.
1)
BIẾN-KẾ: So-đo và chấp-trước các pháp. Có nhiều loại, nên đây nói các.
Câu tụng đầu chỉ rõ: thức năng biến-kế.
Câu thứ hai chỉ: cảnh bị biến kế. Các vật bị chấp làm ngã và pháp, gọi là:
biến-kế sở-chấp tự-tính. Tự-tính của chúng đều không phải có.
Hai câu sau chỉ: biến-kế sở-chấp, hoặc ngã hoặc pháp, tự-tính chẳng phải
có.
2) Y-THA:
Y-tha-khởi-tự-tính là cảnh sở-duyên, duyên cho biến kế tâm.
VIÊN-THÀNH-THẬT: Viên-thành-thật thuộc về chân. Không phải cảnh của vọng
chấp (biến-kế) .
ĐOẠN X
BIẾN-KẾ SỞ-CHẤP
Hỏi:
-
Biến-kế sở-chấp với y-tha-khởi có khác gì nhau?
Đáp:
- Tâm
và tâm-sở của chúng sinh trong ba cõi, bởi từ vô thủy đến nay hư-vọng
huân-tập, in tuồng 2 cái sinh: đó là kiên-phần và tướng-phần1,
tức là năng-thủ và sở thủ.
Như vậy hai phần, theo tình thức phân biệt thì có, mà theo chân-lý thì
không.
Đó là biến-kế sở-chấp.
Y-THA-KHỞI: Cái tính bị nương của 2 cái, nương nhờ nơi duyên mà
sinh, đó là y-tha-khởi. Bởi vì hư-vọng phân biệt duyên sinh
ra.
Sao biết vậy?
Các thánh giáo nói: - Hư vọng phân biệt là y-tha-khởi2.
Hai thủ là biết kế sở-chấp.
(1)
Thức và cảnh.
(2) Như mắt mỏi thấy hoa đốm.
- Tâm
và tâm-sở của các chúng sinh ở thế gian và xuất thế gian, bởi sức huân tập
biến ra hai phần là tướng và kiến phần, theo duyên mà sinh, cũng là
Y-THA-KHỞI.
- Biến
kế nương y-tha, hư vọng chấp quyết định thật không có, không, một khác,
cũng có cũng không v.v...
- Hai
cái năng, sở đó là BIẾN-KẾ SỞ-CHẤP.
Các duyên sinh ra tâm và tâm sở, tướng và kiên-phần, hữu lậu và vô lậu,
đều là y-tha-khởi.
Bởi vì
nương nơi các duyên kia mà khởi.
ĐOẠN XI
Y-THA-KHỞI-TÍNH.
Bài tụng trên
có nói:
-
Phân biệt các duyên sinh ra
Nghĩa là: Đó
là nói về nhiễm-phần y-tha. Tức là đứng về mặt vọng, mặt chúng
sinh.
Về tịnh
phần y-tha, cũng là viên thành thật. Vì khi chúng sinh tu vạn hạnh,
nhờ các duyên lạnh mà thành Phật. Cũng vì thế mà gọi là y-tha.
Các pháp
nhiễm tịnh, tâm và tâm sở, đều gọi là phân biêt, bởi vì có thể trợ duyên,
và phải dùng trí suy nghĩ, so sánh.
Thế là tất cả
nhiễm và tịnh y-tha đều nhiếp về phần y-tha-khởi.
ĐOẠN XII
VIÊN-THÀNH-THẬT
- Hai
cái "không” hiện ra, tức là nhân-không và pháp không, viên mãn thành tựu
thực tính các pháp: đó là viên-thành-thật.
Tức là đã chứng quả Phật, đã tới Chân lý.
Bài tụng trên nói:
-
Cứ trên các y-tha, thường xa lìa các biến kế sở chấp. Khi hai không
ngã và pháp hiện ra, đó là đạt được chân như.
-
Viên thành thật với y-tha chẳng phải khác và không khác:
Đã chứng chân
lý, không còn so đo, chấp trước.
Đứng về mặt
"chân” mà nói: chân và vọng là khác.
Đứng về mặt
"vọng” mà nói: thế giới chúng sinh có thực.
Khi Phật đã
chứng chân lý: mới thấy rõ cả hai mặt "chân vọng”.
Ví như người
mắt lành, mới biết cái lầm của người mắt mỏi, thấy hoa đốm ở hư không.
Người đó thấy
hư không thực, biết rõ mắt bệnh, và biết hoa đốm là không thực có.
Hoa đốm chỉ
có thực đối với ngưới mắt mỏi.
Cảnh chiêm
bao chỉ có thực với người đang chiêm bao.
Cảnh giới của
chúng sinh chỉ có thực với chúng sinh.
Với Phật, mới
biết cảnh của chúng sinh chỉ là giả, là không có thực, ví như hoa đốm, như
chiêm bao.
Bởi thế bài
tụng ở đọan IX nói:
- Nếu
không thấy tính viên-thành-thật, thì cũng không thấy y-tha.
Tức là: Nếu
không chứng "chân lý”, không biết rõ cảnh "vọng”.
Nếu không
thành Phật, không biết rõ sự thực của sự vật.
ĐOẠN XIII
KẾT LUẬN VỀ BA TÍNH
Ba tự tính
đều chẳng xa lìa tâm và tâm sở:
-
Y-THA-KHỞI-TÍNH: Tâm và tâm
sở với cái bị biết hiện ra, bởi các duyên sinh, như huyễn sự
v.v... chẳng phải có, in tuồng có, dối gạt kẻ ngu phu.
-
BIẾN-KẾ SỞ-CHẤP: Kẻ ngu phu
đối với cái đó, ngang ngược chấp ngã và pháp: có, không,
một, khác cũng có cũng không v.v... như hoa đốm ở hư không v.v... tính
tướng đều không.
-
VIÊN THÀNH THẬT: Trên y tha
khởi, các hư vọng chấp là ngã và pháp kia đều không. Cái "không”
ấy hiển ra chân tính của thức v.v...
Vậy ba tính chẳng dời tâm.
ĐOẠN XIV
BA KHÔNG TÍNH
Hỏi:
- Nếu
có ba tính, thế sao đức phật nói: "Các pháp đều không tự tính?”
Đáp: (bài tụng)
Cứ nương theo trước nói ba tính,
Lập sau ba không tính,
Cho nên Phật mật ý nói:
- "Tất
cả pháp vô tính”:
-
– Đầu là tướng vô tính -
– Giữa là không tự nhiên
tính -
– Sau là các pháp
thắng nghĩa1:
Bởi xa lìa các sở chấp ngã và pháp tính.
Cũng tức là Chân-như,
Bởi vì tính nó thường như2
Tức Duy-thức thật-tính.
GIẢI THÍCH:
- Cứ
nương theo trước nói ba tính, lập sau ba vô tính, đó là:
-
Tướng vô tính. -
Sinh vô tính -
Thắng nghĩa vô tính
(1)
Nghĩa hơn hết
(2) Quyền nói thôi, Phương-tiện tạm
giả-lập.
Nên phật mật ý nói: "Tất cả đều vô tự tính”. Chẳng phải tính hòan tòan
là không.
Nói chữ mật-ý1: tỏ ra rằng chẳng phải "liễu-nghĩa”.
Hai tính sau, dù thể chẳng phải không, mà có kẻ ngu-phu đối với đó
hư-vọng chấp thật có ngã và pháp tự-tính. Đó là biến kể sở chấp.
Vì trừ cái chấp ấy, nên Phật đối với có và không,
đều nói là: vô-tính.
Hỏi:
- Thế
nào nương ba tính mà lập ba không tính?
Đáp:
-
TƯỚNG-VÔ-TÍNH: Nương
biến-kế sở-chấp mà lập. Bởi vì thể-tướng nó hoàn toàn chẳng phải có.
-
SINH VÔ TÍNH: Nương y-tha
mà lập.
Đó là: như huyễn-sự nương các duyên-sinh. Không như kẻ hư-vọng chấp:
tự-nhiên tính.
Giả nói là vô-tính. Chẳng phải tính hoàn toàn không.
-
THẮNG NGHĨA VÔ TÍNH: Nương
viên thành thật lập. Tức là thắng nghĩa.
Bởi xa lìa cái biến kế sở chấp ngã và pháp trước.
Giả nói là vô tính. Chẳng phải tính hòan tòan không.
KẾT LUẬN VỀ KHÔNG TÍNH.
Trong các
khế-kinh nói vô-tính, chẳng phải là nghĩa hoàn-toàn. Các người có
trí không nên nương theo đó mà bác chung là: "Các pháp đều không
tự-tính”.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|