× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Cao Đài » Thi văn

Phương Tu Đại Đạo


Phận làm cha

Cha mẹ rủi sanh con hung bạo,
Tội dưỡng nhi bất giáo đã đành.
Với hình hài mình đã sanh thành,
Thì chữ đạo chữ tình cân đúng giá.
Cơ chuyển thế nơi tay đả quả,
Thay mặt cho Tạo Hóa dựng đời.
Vật tối linh thiên hạ là người,
Cha mẹ vốn là Trời phần xác thịt.
Phận nuôi dưỡng tuy vân cần ích,
Phải dạy răn kẻo nghịch lòng Trời.
Đã lập đời ắt phải dạy đời,
Đừng dưỡng ác hại người mang nghiệp chướng.
Khá nhớ đạo nhơn luân là trượng,
Phép gia đình có ảnh hưởng đến nhơn quần.
Hễ biết mình trọng trách thần dân,
Thì phải biết ân cần bề giáo dục.
Đời ví gọi phương nhà hạnh phúc,
Là con nhà nêu đặng chút danh thơm.
Đừng sanh con đời thấy bắt nhờm,
Tránh nòi dữ bằng hơn tránh rắn.
May đạo đức nghiệp nhà có sẵn,
Phương tề gia khá gắng giữ gìn.
Hằng bữa trau tánh đức minh minh,
Lúc chồng vợ giao tình tua để dạ.
Luyện trí thức thông minh hòa nhã,
Tứ đổ tường chẳng khá nên gần.
Hễ thân mình thiểu khí loạn thần,
Thọ khí bẩm nhâm thần con dại dột.
Cữ hoa nguyệt bớt đi thì tốt,
Tinh khí đầy hài cốt trẻ tráng cường.
Khi giao hoan có độ có lường,
Vợ bịnh yếu chớ thường lân cận.
Đừng nhè lúc vợ chồng đương giận,
Mới vừa vui vầy trận tam bành.
Cũng đừng quen theo phép dỗ dành,
Ép buộc vợ thỏa tình hoa nguyệt.
Khi thấy dạng nhụy hoa đã kết,
Thì phải toan dứt tuyệt đường ong.
Nghén ba trăng phải gắng gia công,
Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ.
Phải tiếp dưỡng vợ thường mạnh khỏe,
Kiếm phương làm vui vẻ hằng ngày.
Lựa chuyện xưa tích cũ cho hay,
Điều mở trí thường hay luận biện.
Coi chừng lựa sách, thơ, tuồng, truyện,
Những phong tình đừng khiến cho coi.
Sự uống ăn xem sóc hẳn hòi,
Trong đi đứng chơi bời cho phải cách.
Thân thể dạy giữ gìn tinh sạch,
Thường thuốc men cho huyết mạch điều hòa.
Tập quen vui nhắm nguyệt xem hoa,
Ghẹo tính toán cho ra cách trí.
Chọc cho có dịp suy, dịp nghĩ,
Đừng cho gần mấy chị đàn bà.
Hay bày điều nói quỷ nói ma,
Dùng những tiếng rủa gà mắng vịt.
Phép dạy trẻ dạy điều cần ích,
Từ khi còn con nít tới nên người.
Chừng coi mòi đã đến gần nơi,
Thường chọc vợ vui cười hằng bữa.
Sắp đặt trước đừng lòng dụ dựa,
Lo sẵn sàng bếp lửa nồi xông.
Khi sản sanh phải có mặt chồng,
Cơn đau đớn giải lòng người đẻ chửa.
Bút Bần Đạo ngưng khoan viết nữa,
Đặng phân tường có chửa dạy con.
Đừng ngờ con trong bụng còn non,
Hiểu chi đặng phòng toan dường ấy.
Tưởng dạy vợ họa may phải vậy,
Nói dạy con lẽ quấy khó tin lời.
Bần Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.
Những trí thức tinh thần có lẽ,
Nhiễm vào tâm chửa đẻ trọn tinh thần.
Có tinh thần mới có xác thân,
Biến thân đủ tinh thần quán chúng.
Trí cao thượng nhiễm từ trong bụng,
Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh.
Tỷ khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
Đầu mới tượng óc còn thiếu chất,
Phân thông minh lật đật bỏ vào.
Cây hưởng phân quý sẽ dường bao,
Thì óc trẻ lại nào có khác.
Tính cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi.
Thần mẹ thêm cách vật trí tri,
Con ắt đặng quảng tri thế sự.
Dầu vợ dốt hay là hay chữ,
Nghe điều hay cư xử gia đình.
Phép truyền thần dầu chẳng đặng linh,
Việc dạy dỗ vợ mình còn chế sửa.
Để ý thấy trẻ thơ nhiều đứa,
Tánh thông minh từ thuở mới lên ba.
Ấy là nhờ tánh chất mẹ cha,
Gặp phải phép hiệp hòa sanh đặng vậy.
Một điều nữa đời hằng khó thấy,
Trai gái nhau đẻ quấy giống như khuôn.
Vì nhiều thương ít gặp nên buồn,
Khi gặp mặt khó buông nhau đặng.
Khi chửa nghén tình thương đeo đắn,
Nhớ hình đi tướng đứng bộ ngồi.
Trông dạng hình lòng nhớ không nguôi,
Hình dường rọi vào nơi tử phủ.
Hễ trẻ mới tượng hình vừa đủ,
Thì mẹ đà bảo phủ ngoài khuôn.
Sanh đẻ con ưa thảm ưa buồn,
Ít có đứa ra tuồng vui vẻ.
Lại cũng thấy người ta mà đẻ,
Đứa con đầu giống nghé giống bò.
Tại mẹ thường hay sợ hay lo,
Gặp trâu chém bò xô, nên đẻ giống.
Vợ thầy pháp quỷ ma thường lộng,
Đẻ ra hình như giống ếch bà.
Bởi vẽ hình tướng tá cùng nhà,
Vợ ghê sợ đẻ ra in dạng.
Nếu để ý xét suy cho cạn,
Cả sự thương, sự sợ, giảm tinh thần.
Tinh thần hay liên tiếp nhâm thần,
Trí hóa nhập vào thân đứa chửa.

Xin tiếp:

Món ăn uống nên coi chọn lựa,
Cho hiền lành có sữa cho nhiều.
Vợ dầu buồn cũng rán theo chiều,
Con tắm rửa nôi niêu cho sạch sẽ.
Thường bồng đặng thăm con nặng nhẹ,
Muốn cho con khỏi ghẻ rán chăm nom.
Đừng để dơ cứt đái thúi òm,
Quần áo trẻ thăm lom coi giặt.
Giữ đừng để quàu mày, quàu mặt,
Mấy móng tay phải cắt mới bồng con.
Tắm và lau thì dụng bông gòn,
Trẻ mới đẻ da non đừng động mạnh.
Phải nhớ thử khí trời nóng lạnh,
Muốn nuôi con khỏe mạnh khá thăm chừng.
Phải phủ che cho ấm tay chơn,
Nơi mỏ ác tốt hơn thường đắp ấm.
Từ sáu tháng khá thường bồng ẵm,
Mơi bưng tưng, chiều xẩm mặt trời.
Ngoài đồng không đặng thở tốt hơn,
Mơi thì hứng mặt trời cho khỏe.
Mỗi tháng nhớ cân con nặng nhẹ,
Đặng thăm chừng con trẻ lớn bao nhiêu.
Những áo quần rán sắm nhiều nhiều,
Giữ tinh sạch mơi chiều thay đổi.
Mùng màn phải quạt giăng buổi tối,
Đừng bỏ quên để muỗi chung vào.
Nọc muỗi hành con trẻ phải đau,
Nhiều cơn hại hư hao huyết mạch.
Khi vừa mới biết bò biết mách,
Đừng cho người chọc cách dữ dằn.
Phải dặn chừng con vú đứa chăn,
Chơi vui vẻ nói năng đằm thắm.
Chừng đến lúc biết đi lẫm đẫm,
Có tập đi đừng nắm mạnh tay chơn.
Đừng để con quen thói giận hờn,
Vừa ré khóc khuyên lơn bồng dỗ.
Nghe đỏng đảnh lời con nói ngộ,
Đừng cầu vui giả bộ nói chơi.
Dạy cho con nói rõ từ lời,
Khi chơi giỡn vui cười cho phải lẽ.
Hễ dạy dỗ dùng lời nhỏ nhẹ,
Tập nói năng nhậm lẹ khôn ngoan.
Mỗi tiếng nào con nói ngang tàng,
Thì để ý vội vàng cải sửa.
Dạy con trẻ mọi điều chọn lựa,
Đừng phú con cho đứa ở ăn.
Buông những câu tục tĩu cộc cằn,
Con bắt chước khó răn khi lớn tuổi.
Chừng nên sáu dạy con phải buổi,
Tập lần con lòn cúi biết vâng lời.
Ở với con như trẻ đồng thời,
Thường với trẻ vui chơi đặng dạy.
Chẳng nên phạt bắt con quì lạy,
Sự giả hờn là máy răn trừng.
Hễ giỏi thời lại trọng lại cưng,
Dở lại bớt nâng niu hun hít.
Dạy đi đứng nghiêm trang bộ tịch,
Dạy nói năng cho lịch cho ngoan.
Dạy biết điều luận luận bàn bàn,
Dạy cho cạn suy suy xét xét.
Tập cho biết buồn vui có nết,
Điều dở hay cho biết ngọn ngành.
Muôn vật cho biết tánh biết danh,
Giá mua bán cho rành cho rõ.
Mới sáu tuổi tuy rằng còn nhỏ,
Mình cũng nên mở khó lần lần.
Muốn dạy con học đặng chữ vần,
Có một thế nên cần mượn cách.
Trước sân quét một nơi cho sạch,
Cát trắng dùng làm sách dạy con.
Bóng mặt trời vừa khuất đầu non,
Coi ánh sáng chiều còn tỏ rõ.
Nháy vợ biểu bồng con hứng gió,
Ra trước sân làm bộ đi chơi.
Mượn lời khen đứa nhỏ gần nơi,
Rằng đọc sách in hơi thầy giáo.
Rồi lựa thứ vật chơi con hảo,
Giã như tuồng khuyên bảo đem cho.
Thưởng tên Xoài đáng mặt học trò,
Học thông thái dám so người lớn.
Giả buồn bực đương khi chơi giỡn,
Con dầu theo mơn trớn cũng đừng vui.
Làm như người trong dạ ngậm ngùi,
Rầu con dốt lo nuôi uổng gạo.
Tánh con nít thì hay láo táo,
Hễ nghe cha chế nhạo nổi hành hung.

Ủa!

Ai anh hùng mình cũng anh hùng,
Theo dọ hỏi cách dùng chữ nghĩa.
Thừa dịp đặng treo giò chú Lía,
Láy vợ hiền người xỉa miệng vô.
Con xin cha dạy viết tập đồ,
Vần cho thuộc kết vô nên tiếng.
Hễ viết chữ là mình nói chuyện,
Chữ ráp nhau trở biến thành lời.
Hễ A B thuộc lãu tới nơi,
Làm vần ngược vần xuôi ráp lại.
Hễ thuộc đặng hăm lăm chữ cái,
Muôn điều chi cũng phải vào vòng.
Miễn là con gắng sức gia công,
Học thuộc mặt hăm lăm chữ cái.
Mẹ xúi trẻ đến cầu cha dạy,
Cha làm hơi như ngại con ngu.
Mới giao kèo đổi chữ với xu,
Thuộc thì thưởng hễ ngu trừ cấn.
Lạ chi trẻ nghe chê thì giận,
Mình mượn mưu dìu dẫn lấy con.
Sẵn tay cầm lấy cán ba ton,
Vẽ một chữ cho tròn cho lớn.
A B thuộc dỗ con lấy trớn,
Cứ mỗi ngày vui giỡn dạy lần.
Chừng coi mòi thuộc hết chữ vần,
Đọc chữ đặng dạy lần tính toán.
Dùng kiểng vật đá cây làm bảng,
Dạy đếm cho biết đặng đến mười.
Lấy ba ton vòng kiểng hai nơi,
Hai một ngã ba thời một ngã.
Hễ học cộng con nhờ có má,
Hai với ba cộng cả bao nhiêu.
Nói trúng cha mầng vội nâng niu,
Còn trật lại ra chiều buồn bực.
Bà mẹ gắng để lòng chịu cực,
Cứ theo con giúp sức tính dùm.
Con nói thông cha giả khen um,
Làm như bộ vui mừng con học giỏi.
Khoanh năm món chung nhau rồi hỏi,
Cha truất hai con nói sót bao nhiêu.
Mẹ quen nghề dạy lén nói liều,
Miễn lảu thuộc cứ chiều theo vậy.
Cộng trừ thuộc rồi mình mới dạy,
Cho cầm cây viết lấy chữ vần.
Viết thuộc làu với tấm bảng sân,
Mình mới dạy viết lần vô giấy.
Trối kệ trẻ vẽ quàu viết quấy,
Trong một năm thì thấy vừa thông.
Ấy kế hay dạy trẻ vỡ lòng,
Rồi mới dắt vào trong trường học.
Mới lạ bước trẻ thường sợ khóc,
Nhờ mẹ thương lăn lóc đi theo.
Trong đôi tuần coi đã quen vèo,
Con ham học vui theo chúng bạn.
Mới vô học ham chơi lơ lãng,
Nong chí con cho rán buổi đầu.
Con lo bài biết sợ biết rầu,
Theo dịu ngọt khuyên cầu con học hỏi.
Trong muôn việc đừng làm biếng nói,
Dạy con thông sự giỏi điều hay.
Mỗi bước đi cùng trẻ ra ngoài,
Gặp chi cũng làm bài dạy trẻ.
Phải chìu tánh trí con lanh lẹ,
Hay tối tăm giải lẽ cho vừa.
Phải chìu con lòng dạ ghét ưa,
Dầu quấy phải cũng thừa dạy dỗ.
Khi dắt trẻ đi chơi lựa chỗ,
Có văn nhơn thái độ tài tình.
Chẳng khác nào dắt trẻ chụp hình,
Nơi đẹp đẽ đặng in vào trí.
Về nhà chọc cho con luận lý,
Mở trí con xét kỹ hiểu cùng.
Tập tánh con quảng đại bao dung,
Hay thương mến thuận cùng bạn tác.
May phước đặng sanh con mẫn đạt,
Mình khởi toan phú thác việc đời.
Dầu hư nên đến sự chơi bời,
Cũng cho hưởng đủ mùi đắng ngọt.
Sự sướng cực đừng cho thiếu sót,
Miễn mọi điều đừng lọt tay mình.
Con biết phân điều trọng lẽ khinh,
Vào ngã ái đường tình cũng chẳng buộc.
Để gây hại, hại vừa đến gót,
Mình ở sau lót tót đến binh.
Thừa cơ mầu khuyên trẻ răn mình,
Tự nhiên trẻ kính tinh đạo hạnh.
Dầu trẻ đã phong lưu quen tánh,
Mình dừng ngăn trẻ lánh điều vui.
Trong trần ai cũng để cho vùi,
Thân ô trược mình chùi sạch lại.
Dầu con có tánh ham quỷ quái,
Đừng thèm phân phải trái răn trừng.
Mượn tay hay của đám người dưng,
Làm thiệt hại vài lần đủ tởn.
Rủi gặp phải đứa con dữ tợn,
Cậy những người quyền lớn ép đè.
Mang tội hình đừng chở đừng che,
Để chúng hiếp chúng chê cho đáng kiếp.
Mình biết Đạo hằng ngày gặp dịp,
Đặng dạy con nề nếp làm người.
Hễ làm người thì biết hổ ngươi,
Lấy gương trẻ trêu cười con xét phận.
Cha chẳng phép để lòng hờn giận,
Mà lẫy đương bỏ lẫn con hư.
Đành lòng nào lại chối lại từ,
Mình dở dạy tội qui ư trưởng.
Đạo cha mẹ phải cho độ lượng,
Hễ làm cha đừng tưởng độc quyền.
Con lớn khôn mình chớ tự chuyên,
Con đủ trí lời khuyên tua nhậm lẽ.
Dầu còn ở dưới quyền cha mẹ,
Đừng ỷ mình làm nhẹ thể con.
Một lòng thương sau trước vuông tròn,
Con khôn lớn cũng còn yêu trọng.
Gia tài định rồi đừng đá động,
Cho con riêng làm lụng lập thân.
Nên hay hư đừng kể quan dân,
Tài sản tính chia phần đều đủ.
Trai cùng gái để lời khuyến dụ,
Biết trọng thân tự chủ lấy mình.
Khuyên chung cùng hiệp sức anh em,
Mạnh thế lực đua tranh cùng chúng bạn.
Khuyên trẻ biết trí mưu quyết đoán,
Sự nên hư đừng tính toán rán đua bơi.
Khuyên bền lòng tùng thế tùy thời,
Phải quyền biến với đời gầy sự nghiệp.
Khuyên con sửa tánh hòa tâm hiệp,
Đặng ngày sau theo kịp thế tình.
Khuyên con coi nghĩa trọng tài khinh,
Lòng quảng đại mới điều đình thế sự.
Khuyên con nhớ hằng ngày tự xử,
Ấy là phương vẹn giữ nhơn luân.
Khuyên con ưa trân trọng tinh thần,
Khinh vật chất ắt thân bền giữ.
Khuyên con học cho thông mọi sự,
Dầu nghề hèn nghiệp dữ cho rành.
Nếu cầm chèo đẩy mái không lanh,
Thì cũng chịu đã đành phận dốt.
Trong trần thế phân chi xấu tốt,
Tốt xấu cùng chú dốt khó phân trần.
Làm con người mà muốn lấn phần,
Hơn địa vị phải cần hay khéo.
Dạy trẻ hiểu những mưu những mẹo,
Của người đời khôn khéo đua tranh.
Chỉ điều nào đời giựt đời giành,
Phần dở thiệt, phần lanh lấn hưởng.
Dạy căn cớ làm thân cực sướng,
Người ngồi ăn người làm mướn bởi nơi nào.
Dạy nhục vinh hai lẽ dường bao,
Người quan cả người sao dân mạt.
Dạy trẻ bỏ tánh tình biếng nhác,
Cần lập thân mới thoát phận tôi đòi.
Hiếu con dầu ví kẻ cày voi,
Không đạo hạnh đừng coi là trọng.
Dạy cho hiểu mảnh thân dầu sống,
Cũng nhờ nương dưới bóng hóa công.
Thường cho xem vẻ đẹp non sông,
Đặng con trẻ thề lòng thương tưởng.
Hay chi kiếp sướng xin vui mượn,
Mà phòng tham toan vướng nợ trần.
Hễ có thân âu biết thương thân,
Lấy trí thức định phân cho cạn.
Ba giềng với năm hằng khá đoán,
Hư nên đừng xao lãng chí nam nhi.
Để mặc đời thị thị phi phi,
Chưa ai rõ trong chì có bạc.
Dạy con giữ tấm lòng chất phác,
Có chánh tâm không lạc bước đời.
Biết tu thân ắt cải vận thời,
Cơ giải kiết lẽ trời đã định.
Không vị kỷ nào sờn luật lịnh,
Tỉ không mua ai tính đòi tiền.
Giữ lễ nghi mọi kẻ không riêng,
Nào có chọc ai phiền phòng kết oán.
Hễ khử tối thì dùng bóng sáng,
Phải khôn ngoan mới quáng thế tình.
Mình nên người trí thức mà lành,
Ngôi Tiên Phật đã đành tay nắm.
Nẻo danh lợi vào ra ai cấm,
Mắt sáng soi cái dậm quan hà.
Đừng học đồ phách quế hồn ma,
Dầu bỏ xác không xa phường tục.
Trăm năm lẻ như thoi nhặt thúc,
Ngảnh lại đời mà nhục thầm đời.
Mảng đeo đai hai chữ vận thời,
Như bèo bọt nổi trôi giòng khổ thủy.
Coi lại thấy có chi gọi quý,
Ham đỉnh chung mà lụy tấm thân người.
Đếm thử coi mấy lúc thảnh thơi,
Thì hằng thấy trận cười đem đổi khóc.
Có chi lạ dạy con rán học,
Không lẽ đem lợi lộc đặt nên bài.
Có chi tài dạy trẻ đặng hay,
Chẳng nỡ lấy cân đai làm biểu hiệu.
Có chi khéo dạy con nên hiểu,
Há nỡ so mạnh yếu để nêu gương.
Chỉ cầu con để một dạ thương,
Thương mình vậy thương ai cũng vậy.
Lòng tình ái sao cho lừng lẫy,
Cái khí thương động dậy trời già.
Chẳng phải thương mà trọng người ta,
Dầu cầm thú cỏ hoa cũng đoái.
Thương chẳng biết biệt phân phải trái,
Dầu khôn ngoan ngu dại cũng là thương.
Phàm tình thương chẳng có độ lường,
Thương cho đến hơi sương giọt nước.
Tình thương vốn ngoài vòng tội phước,
Với kẻ thù thương được cũng là thương.
Tình thương kia ví đặng phi thường,
Hòa giọt lụy đau thương lau thế sự.
Tập trẻ đặng rộng lòng tha thứ,
Thì trẻ đà lánh dữ gần hiền.
Hễ gần hiền, lành đặng tự nhiên,
Mới hạp tánh Thiêng Liêng tạo thế.
Một câu sách nơi đây nên để,
Đặng làm phương truyền kế tông môn.
Chứa vàng nhiều để lại cho con,
Con chưa ắt giữ còn bền lộc.
Chứa sách để cho con sau học,
Chưa chắc con biết đọc cùng chăng.
Chứa đức kia bền vững không ngằn,
Con cháu hưởng lâu bằng Trời Đất.
Sợ Bần Đạo dịch ra có trật,
Cứ nguyên văn viết tất ra đây:

Tích kim vĩ di tử tôn,
Tử tôn vị tất năng thủ.
Tích thơ vĩ di tử tôn,
Tử tôn vị tất năng đọc.
Tích âm đức ư minh minh chi trung trường cửu chi kế.

Hễ đã trễ thời đành chịu trễ,
Ngưng viết chờ có thế in ra.
Mang hoằng vai một gánh đạo nhà,
Chia giờ khắc nôm na toan giúp ích.
Nên chẳng quản lời thô tiếng kịch,
Cầu đàn bà con nít đọc cho nhiều.
Cứ lần lần năm đạo nối điêu,
Ít tài đức tùy theo hành đạo.

CHUNG

PHƯƠNG TU ĐẠI ĐẠO
PHẠM CÔNG TẮC Tự ÁI DÂN trước tác
Tái bản lần thứ hai - Năm Kỷ Dậu (1969)

http://daotam.info/booksv/ptdd/ptdd.htm



Xem dưới dạng văn bản thuần túy.
Lượt xem: 906 | Tác giả: Hộ Pháp Phạm Công Tắc