× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Cao Đài » Thi văn

Khác


Thiên Thai Kiến Diện

Lời nhà xuất bản

 

Thiên Thai Kiến Diện do ngòi bút tuyệt tác của Ðức Hộ Pháp diễn tả theo thể Ðường luật ý nghĩa rất uyên thâm.

Sau khi ấn hành lần thứ nhứt, chúng tôi hân hạnh được xem bổn chánh bằng chữ viết tay tại Hộ Pháp Ðường, nhờ đó chúng tôi mới biết rõ Ðức Ngài viết xong vào năm Ðinh Mão ( 1927 ) và chúng tôi đã sửa chữa rất tỉ mỉ đúng nguyên văn.

Nên mặc dầu đây là tài liệu sưu tầm, quí ngài cũng có thể tin chắc mà cất giữ hầu truyền lại cho đời sau.

Chúng tôi xin trân trọng biết ơn chư vị đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt để hoàn thành quyển sách nầy.

Thánh Ðịa, ngày 30 tháng 8 Giáp Thìn
( Dl, ngày 6-10-1964 )

Kính đề,
G.Ð Nhà sách Minh Tâm

 

 

Thiên Thai Kiến Diện

 

1.

Ngoài áng Ðào Nguyên sấn bước vào,
Thiên Thai Tiên đảnh trước cao cao.
Mây lành phủ động ra khuôn cửa,
Tòng rậm bao cung giống mặt rào.
Hạc Ðạo đón đưa bay xạo xự,
Nai Tăng tiếp rước chạy lao xao.
Lừng Trời lửng đững ngàn muôn kẻ,
Cười nói mừng vui đến miệng chào.

 

2.

Miệng chào lại nhủ mặc Tiên Y,
Mời đến Rừng Tre hội cuộc kỳ.
Bảy Lão nhắc tình già dẹo cẳng,
Ba Bà hỏi việc mụ ham thi.
Ðài trăng chị Nguyệt đem cho Ngọc,
Cửa gió chàng Liêm dạy khải Tỳ.
Cúc, Trước, Mai, Lan hầu thiết đãi,
Tiêu thiều nhạc trổi khách nâng ly.

 

3.

Nâng ly vừa cạn hạc reo vang,
Rằng chiếu đòi ông đến điện vàng.
Buổi họp chưa cùng lời ấm lạnh,
Cơn lìa khó nín lụy hòa chan.
Ðưa chơn còn để câu căn dặn,
Nương tục đường quen mắt ngó ngàng.
Kìa túi Càn Khôn vừa hé miệng,
Làu làu tứ hướng hóa giang san.

 

4.

Giang san in vẻ đẹp như thêu,
Ngảnh lại trung ương thấy chẳng đều.
U ám mịt mờ màu thảm đạm,
Thúi hôi nhơ nhớp cảnh đìu hiu.
Một làn ác khí bao ràng rịt,
Muôn xác tinh ma nhảy dập dìu.
Nghĩ sợ hỏi đon còn ngợ giọng,
Nơi nầy phép Phật gọi danh kêu.

 

5.

Danh kêu là Tục cuộc Tuần hườn*, (*Tuần hoàn?)
Ác khí làm giềng buộc trái oan.
Ma thịt quỉ hồn chôn* xác chết, ( * ăn?)
Tà thần tinh quái nuốt xương tan.
Bờ sông chín ngọn còn in bước,
Cửa ngục mười đình khó đặt an.
Chờ bóng Thái Dương lên chính giữa,
Soi vào địa nghiệt mới tiêu tàn.

 

6.

Tiêu tàn tận thế ắt đời rồi,
Nghe sợ hãi hùng phải nín hơi.
Mờ mệt nữa say rồi nữa tỉnh,
Ngẩn ngơ hòa đứng lại hòa ngồi.
Thương người nghĩ bạn lòng chua xót,
Tưởng vợ vì con dạ ngậm ngùi.
Nài nỉ xin đình ngày tận diệt,
Hầu lo độ rỗi phỉ tình tôi.

 

7.

Tình tôi lai láng lụy tuôn dầm,
Vừa ngoái lại nhìn cảnh tối tăm.
Một kẻ Tiểu đồng phò Phất chủ,
Ðôi nàng Tiên nữ quạt hương trầm.
Xe mây bốn chỗ vừa người dựa,
Ngựa tuyết năm con thiếu kẻ cầm.
Ðỗ tiếng chuông khua muôn tiếng biểu,
Lên lằn không khí lướt xăm xăm.

 

Tam Thập Lục Thiên Ký Bút

8.

Xăm xăm năm ngựa gió mây đưa,
Ba bực vừa lên có kẻ ngừa.
Con gậy tay cầm, râu tóc bạc,
Cái nhà lá lợp, cửa song thưa.
Cờ vàng quấn mũ mang y đạo,
Nai trắng nương lưng gót võ lừa.
Rằng chiếu Ngọc Hư sai mở ngõ,
Ðịa thần hầu chực tiếp người xưa.

 

9.

Người xưa quen thuộc đến vầy vầy,
Phong cảnh như mình có ở đây.
Muôn xóm trông ra lòi nóc lũy,
Ngàn dâu đứng dựa rõ hình cây.
Thú cầm mập mạp bầy thong thả,
Non nước trong veo trái dẫy đầy.
Người có vợ chồng con cháu đủ,
Rần rần rộ rộ góc trời Tây.

 

10.

Trời Tây mãn nhãn ngó qua Ðông,
Nhà ít người thưa bỏ rộng đồng.
Gái lịch, trai thanh, nên đạo cốt,
Mụ thơ, lão trẻ, rất tiên phong.
Thanh thao nhạc phụng trên dương liễu,
Chát chúa kèn nai dưới bá tòng.
Vật thực đủ mùi không khí hứng,
Có ăn có mặc rất thong dong.

 

11.

Thong dong trở mặt ngó qua Nam,
Người chẳng phải Tiên ắt chẳng phàm.
Muốn đắc lộc Trời lời chẳng thốt,
Toan thâu của Ðất sức không làm.
Một câu khẩn nguyện duyên đều đủ,
Trăm họ an nhàn lợi hết tham.
Núp phướng tiêu diêu làm chủ quỉ,
Chiếm quyền bốn hướng một mình cam.

 

12.

Cam day hướng Bắc xét cho cùng,
Thấy lửa lẫy lừng trận khói ung.
Cảnh vật bể khua hơi lốp cốp,
Thành đài hư nổ tiếng đùng đùng.
Trên hầu chúa quỉ người ba mặt,
Dưới quở âm hồn tướng bốn lưng.
Cây, cỏ, thú, người đều trở ngược,
Gươm đâm, tên bắn chết trùng trùng.

 

13.
 
 
 
 
 
 
    Hộ Pháp

Trùng trùng oan quỉ chạy lao xao,
Thấy khổ lòng ta bắt nghẹn ngào.
Cõi tục can qua dầu phải rứa,
Xứ thần tai ách có vầy sao?
Dòm quanh buồn kiếm ông già xọm,
Ngó trái mừng nghe tiếng má đào.
Ngước mặt nhìn tường người chẳng lạ,
Hỏi rằng: bạn đến trước hồi nao?

 

14.
Bạch Y Tiên Nữ:
 
 
 
 
 
 

Hồi nao chàng hỏi chị bên kia,
Sảng sốt day qua, ủa lạ kìa!
Thật quả tri âm cười chúm chím,
Vội nhìn cố hữu hỏi lia lia.
Rằng nơi trần thế chàng không đoái,
Noi bước non Tiên thiếp chẳng lìa.
Ba lượt Thiên Thai cầu mở lối,
Từ đây thảm sớt với buồn chia.

 

15.

Buồn chia thảm sớt chẳng nên hồi,
Vinh hiển nay mình đã đặng ngôi.
Bỏ lúc nhớ thương quên nhắc đến,
Gặp khi hội hiệp vội khuyên ngồi.
Mây bay rửa mặt mưa tuôn đổ,
Ngựa chạy vùng mình nước cuộn trôi.
Áo lạnh trầm hương hơ ấm áp,
Thân dầm phất chủ quạt khô rồi.

 

16.
 
Hộ Pháp:
 
Bạch Y Tiên Nữ:
 
 
 

Khô rồi xe thoát đến Trời vàng,
Bên mặt nghiêng mình mới hỏi han.
Phong cảnh hỏi qua xin khá tõ,
Căn do hiểu thấu nói cho tàng.
Rằng ngôi địa chủ lo sanh hoạt,
Ấy phẩm Thần Hoàng định loạn an.
Lành dữ thưởng răn coi quả báo,
Rồi đây ta rõ máy hành tàng.

 

17.

Hành tàng ví biết lẽ cao sâu,
Ðến phẩm Nhơn Thần cũng chẳng lâu.
Ba hiệp trời vừa qua tối sáng,
Bốn phương mây lại biến thành lầu.
Trước thềm có lão ưa nương gậy,
Bên cạnh thêm người đứng vuốt râu.
Mở tượng âm dương đưa dũ xuống,
Rỡ ràng cảnh vật khắp đâu đâu.

 

18.

Ðâu đâu Thiên Ðịa cũng đồng khai,
Rảo bước xuống xe đến Dịch đài.
Dài vắn tư bề ngăn đủ chín,
Thấp cao ba bực nóc chia hai.
Ðưa lên một phép thâu Ðài thấp,
Thấy trước nhiều ông bận áo dài.
Binh khí quanh mình khua rổn rổn,
Mỗi viên hầu hạ một vài trai.

 

19.

Vài trai đến gọi nói chi chi,
Vội rước ai ai đến tức thì.
Biết mặt tánh danh chưa nhớ chắc,
Tưởng mình quen thuộc cũng e khi.
Mấy người nhắm dạng đều oanh liệt,
Bốn đứa đi xe xúm rốn quì.
Mau miệng khuyên rằng đừng quá lễ,
Hễ cao phẩm vị giữ cao nghi.

 

20.

Cao nghi đình bước trước hòa sau,
Như các quan viên buổi tựu trào.
Ðài thượng đồng xem qua Bắc Ðẩu,
Ngôi sao sáng chói thấu Nam Tào.
Hàng hàng binh ngóng tờ Thiên Chiếu,
Ngũ ngũ quân hầu tướng một đao.
Rộn rực tới lui xem lố xố,
Da vàng sắc nước giống người Tàu.

 

21.

Người Tàu lại có lộn người Tây,
Một việc xuôi mưu đến bốn thầy.
Liệng giáo buông khiêng binh đỗ dữ,
Sa cơ thất trận tướng ra ngây.
Ðói cơm, khát nước, hơi than dậy,
Kiếm vợ, tìm con, máu đổ đầy.
Có trẻ nhỏ trai răng trắng đến,
Nơi nơi lặng lẽ hết đua tài.

 

22.

Ðua tài bay liệng giữa thinh không,
Nam hướng xôn xao lướt mấy rồng.
Phụng sáng hào quang mây trổ trắng,
Chiếu vàng diệu thể đất nên hồng.
Lộng tàng vui rước người ba miệng,
Nghi trượng hoan nghinh Mắt một tròng.
Vùn vụt câu tiên quơ mỗi hướng,
Nhơn sanh khâm phục khắp Tây Ðông.

 

23.

Tây Ðông đến học chữ thanh nhàn,
Nắm đặng oai quyền chiếm một phang.
Ðạp đất thành vàng làm của báu,
Thổi tro cất lũy sửa nhà an.
Thảnh thơi biển rộng ngư mừng nước,
Thanh tịnh rừng sâu thú lập làng.
Người hưởng thái bình cơm cứng miệng,
Nam mô xúm tụng tiếng nghe vang.

 

24.

Nghe vang tiếng sấm nổ phương Tây,
Dị điểu bay lên liệng cả bầy.
Mỏ ngậm lửa hồng, lôi điển nhoáng,
Ðuôi lừa thủy quái, võ phong gây.
Chờn vờn xé đất yêu gài rọ,
Lẩn bẩn ngăn sông quỉ đống chài.
Túng tiếu lại cầu người chẳng tiếp,
Giao long chín miệng cắn nhai thây.

 

25.

Nhai thây còn sót cũng nhiều người,
Bị trận Mê hồn chết ngộp hơi.
Lễnh nghễnh thây phơi nằm chật đất,
Loi nhoi hồn chạy khóc lộng* Trời. (* long?)
Có người đầu khỉ mang đai sắt,
Hóa phép Thiên lung chiếu bóng ngời.
Che bới nạn tai người sống rốn,
Ðem vào Nam gởi để an nơi.

 

26

An nơi Tây lại trở xem Ðông,
Cửa nát nhà tan đã chập chồng.
Biển loạn bốn phương thành nhốt cá,
Nước tràn khắp hướng núi đoanh rồng.
Thuyền trôi lố xố người trần lổ,
Tuyết bủa giăng giăng thú lạnh lùng.
Sấm nổ động trời xoi đất lủng,
Tiêu tàn cảnh vật ngó không không.

 

27.

Không không Nam hiện tướng cầm cung,
Ðẹp đẽ như gương chiếu khí hùng.
Vổ cảnh cõi Ðông qua thoát thoát,
Ðưa tay tướng mạnh đến trùng trùng.
Lắp tên bắn biển loài người phục,
Trổi tiếng kêu non cảnh vật tùng.
Cầm ấn Tử vi đưa chói rạng,
Ðem giao quyền phép một người Lùn.

 

28.

Người Lùn vừa thọ, tướng vừa tiêu,
Cảnh vật u thâm giống cảnh chiều.
Ngao ngát trầm hương bay phưởng phất,
Lạnh lùng gió tuyết thổi liu hiu.
Bồi hồi ngước mặt trông người hỏi,
Dịu ngọt khuyên mình có tiếng kêu.
Bốn mặt quen nhìn còn đủ bốn,
Bao nhiêu khách lạ mất đều đều.

 

29.

Ðều giăng tay dắt xuống thang lầu,
Ðồng bước lên xe mới ngó nhau.
Cuồn cuộn mây vầng bay thoát thoát,
Lia lia gió ngựa nhảy mau mau.
Ðạm màu xe tuyết dường sơn đỏ,
Ngó mặt Tiên nương ửng má đào.
Vui miệng mới rằng Thần phẩm ấy,
Quyền hành chuyển thế mới ra sao?

 

30.
 
Thanh Y Tiên Nữ:
 
Hộ Pháp:
 
 
 

Ra sao chẳng kẻ thốt nên lời,
Nàng bận áo xanh trước dỉ hơi.
Danh liếng* đã thừa cùng mặt đất, (* tiếng?)
Nghề trây muốn trải nữa lừng trời.
Thưa rằng: quen thói e hư nết,
Dọa bợm làm nghiêm sợ chán đời.
Nghĩ cõi Bồng Lai xưa mấy mặt,
Còn tôi bao nả dám làm hơi.

 

31.

Làm hơi hại mấy mặt hồng nhan,
Ghẹo kẻ riêng thương đặng phụ phàng.
Dưới bóng trăng thanh dầu lánh tội,
Trước gương " Minh cảnh"  có liên can.
Sông Mê tính rửa bao hàng lệ,
Biển Ái bỏ trôi mấy đoạn tràng.
Thánh chất ví không trên đỡ vững,
Bên mình đeo đuổi mấy hồn oan.

 

32.

Hồn oan mấy chị trước ra sao?
Hai thiếp nay đây có khác nào.
Nhẫng ước giao lê nhè đổi kệ,
Mong nguyền đổi phụng lại ngôi lao*. (* ngồi lao?)
Nhớ ơn giải cấu trao gươm huệ,
Chặt mối oan khiên ở động đào.
Tuy biết phàm duyên là tục trái,
Nay nhìn tạng mặt nghĩ càng đau.

 

33.  Bạch Y Tiên Nữ:
 
 
 
 
 
 
 

Càng đau chị lại nói ra chi,
Nông nổi em đây mới gọi kỳ.
Cõi thọ tuy vinh câu phước hạnh,
Non thề xưa lần* chuổi ai bi. (* Non thề lần hạt?)
Màu hồng chàng nhuộm cho nên trắng,
Ngọc quí người quăng đến phải tì.
Dệt gấm Hồi văn chưa, đã mấy (?)
Hơn ngồi trươu nuốt tấm tình si.

 

34.  Hộ Pháp:
 
 
 
 
 
 
 

Tình si hai chị đổi bao sầu,
Trở trách anh chừa thói bọc dâu,
Mộng điệp tầm phương xây túy giấc,
Cầu Lam đổi nghiệp sửa Ngân cầu.
Sông Tương đổ ngọc làm Cam lộ,
Ðảnh giáp trao châu cất Phụng lầu.
Chia miếng muối dưa chưa đủ Ðạo,
Thà dâng thế giái đứng chung bầu.

 

35.
 
 
 
Thanh Y Tiên Nữ:
 
 
 

Chung bầu nay mới đặng chung xe,
Ðừng nói chi chi phép nấu chè.
Hỏi phẩm Nhơn Thần dầu chẳng nói,
Chác nghề thổ táo quyết không nghe.
Rằng quyền thay đổi căn nhân sự,
Gia đạo hưng suy nghĩa bạn bè.
Nghiệp đế, cơ vương gầy đảng phái,
Văn tài, trí sĩ lập nên phe.

 

36.

Nên phe thần tướng kéo đi đâu,
Hễ đến ngang xe cúi gật đầu.
Khí võ hùng hào mang mảo giáp,
Oai phong lẫm liệt xách qua mâu.
Linh oai chiếu diệu mình pha ngọc,
Pháp lực cao cường gót phúng châu.
Quân lịnh nghiêm trang hàng ngũ chỉnh,
Ngựa voi rần rộ trót giờ lâu.

 

37.
 
 
 
Khương Thượng:
 
 
 

Giờ lâu mới thấy dạng lầu đài,
Phép tắc " Ông Già " gẫm thiệt hay.
Ðứng trước tháp cao ngờ dạng vắng,
Thấy xe vừa cận trổi cười dài.
Rằng râu tóc bạc tuy ra lão,
Nghĩ sức anh hùng cũng sánh trai.
Lập bảng Phong Thần ta chủ khảo,
Càn Khôn biết mặt gậy cùng nai.

 

38.
Hộ Pháp:
 
 
 
 
 
 

Nai vừa vụt nhảy giữa thanh không,
Bát Quái Ðồ xây đủ chín vòng.
Tứ hướng trung ương hầu Ngũ nhạc,
Thiên binh thần tướng đến ngàn trùng.
Sáng lòa sấm nổ hào quang chiếu,
Luân chuyển khí dồi trận gió giông.
Bát Quái Ðài xây đầy bữu pháp,
Ðứng trên điều khiển có Lôi Công.

 

39.

Lôi Công trở ngoắt ngựa xe bay,
Ðem bốn đứa tôi đến chót đài,
Rằng trước cho coi quyền giúp phước,
Rồi sau tỏ rõ phép giao tài.
Kim Quang hiền hữu tua ra sức,
Ðiền Mẫu muội nương khá trổ tài.
Phút chút Càn Khôn nên sáng suốt,
Máy linh cơ tạo thảy đều khai.

 

40.

Khai rồi Ngài múa cặp roi thần,
Chớp nhoáng hào quang chiếu sáng trâng,
Thế giái ba ngàn qua có lớp,
Ðịa hoàn bảy lẻ đến từ tuần.
Bộ châu bốn cõi người đều đủ,
Ðiện ngọc cửu nêu Thánh đứng tuần.
Xin được xem Nam cho thỏa mắt,
Rồi sau các hướng tới lần lần.

 

41.

Lần lần thế giái xẹt kim quang,
Bát Quái Ðài xây giống địa bàn.
Vừa đứng lại ham màu cảnh vật,
Thoạt trông qua mừng* vẽ giang san. (*Thoạt trông mừng thấy?)
Cảnh vui thú đẹp người hiền hậu,
Nghiệp khéo nghề hay nước lạc nhàn.
Một mối thương tâm còn buộc dạ,
Vì nhiều kẻ khó rách lang thang.

 

42.

Lang thang lưới thưới bắt đau lòng,
Kêu Ðấng Phước Thần hỡi bớ Ông!
Ông nắm quyền ban, ban chẳng khắp,
Ông cầm phép thưởng, thưởng không đồng.
Ðể qua các hướng xem ba chỗ,
Gây lộn hai ta tính một sòng.
Cười nói Phước nầy thường ghét Lộc,
Cho hay Lộc Phước chẳng đồng công.

 

43.

Ðồng công khó hiệp Ðạo cùng Ðời,
Nhơ xác tinh thần hết tốt tươi.
Ví tính cầm quyền toàn trái đất,
Ðừng lo nâng phận một phương trời.
Nghiệp nghề đợi lỗ trao cơ thể,
Lợi lộc phương Nam hưởng cấp thời.
Như tưởng lời khuyên còn hẹp bụng,
Ðạo đem đổi Lộc dễ như chơi. (Cười)

 

44.

Như chơi lời nói rất kỳ khôi,
Ðem Lộc mua Tiên thấy mấy hồi.
Vùn vụt tiếng roi quơ nhấp nhoáng,
Mờ mờ cảnh vật thụt thùi lui.
Vỗ tay tiếng biểu còn suy nghĩ,
Gây gổ trí quên hết nhớ hồi.
Thấy cảnh đẹp xinh điền đất rộng,
Trải nằm ngửa mặt giống tranh bồi.

 

45.

Tranh bồi trước cửa kẻ kỳ hình,
Bị đoạt lại rồi tính muốn xin.
Hung bạo ngoài gian lo lấy trộm,
Nhân từ trong sải cứ làm thinh.
Giữa tờ sơn thủy vừa xôm cẳng,
Sa chiếc long châu đánh nát mình.
Cõi Bắc ồ ào nghe tiếng ré,
Ghe phun tên lửa bắn tiêu binh.

 

46.

Tiêu binh cảnh vật hiện chơn hình,
Thiên hạ thái bình dứt chiến tranh*. (*chiến chinh?)
Thầy Sải ngồi ca kinh cứu khổ,
Học trò xúm tụng kệ Quỳnh đình*. (*Huỳnh đình?)
Trên đầu rực rở vô vi khí,
Trước ngực sáng ngời huệ nhãn tinh.
Tà quái sau tưng* đeo mắt vẻ, (*sau lưng?)
Ðánh thoi bổn Ðạo cũng làm thinh.

 

47.

Thinh không tiếng sấm nổ đùng đùng,
Tà quái té nhào nhảy tứ tung.
Sót một Yêu lồi nằm sấp cặp,
Thêm hai tiểu quỉ đứng bên hông.
Ðứa cầm dùi đục, thằng nghiên mực,
Cậu bận áo nâu, chú khố hồng.
Thấy mắt lưng yêu toan đến gở,
Bút linh chiếu phép hóa côn trùng.

 

48.
 
 
 
Ngũ Lôi:
 
 
 

Côn trùng còn đoạt được nhơn duyên,
Ngũ bộ Lôi công định sát liền.
Sét đánh nát thây ra đất cát,
Ðời mừng dứt giống kết oan khiên.
Xưa người chẳng sợ điều nghe bóng,
Nay Phật cho xem cuộc nhãn tiền.
Ví biết vạn căn thường quả báo,
Chưa vào Phật vị cũng Thần Tiên.

 

49.

Thần Tiên từ trước độ loài người,
Ô trược nay gần sợ hổ ngươi.
Nam Nhạc cho xem hình trị thế,
U minh hiểu phỏng luật răn đời.
Dứt lời vội giục đôi roi phép,
Hiện tượng liền sanh một cảnh trời.
Trông núi xa xa nhà lố xố,
Tòa mây Nam Nhạc ở trên khơi.

 

50.

Trên khơi nghe tiếng khóc pha cười,
Có kẻ dị hình, kẻ tốt tươi.
Quỉ giải Âm ty thì rống khóc,
Thần dìu Tiên cảnh lại reo cười.
Bọn dân Ðịa phủ hình đen nám,
Tốp khách Thiên môn xác sáng ngời.
Chồng thấy vợ thành, chồng cắn lưởi,
Vợ xem chồng hiển, vợ than trời.

 

51.

Trời cho thành đặng dễ gì đâu,
Trước xuống sông Ngân tắm sạch sầu.
Lò tạo lửa thiêu, Thần hết trược,
" Cảnh Minh " sáng chiếu khí tinh màu.
Nam Tào đến học cho nhuần lễ,
Bắc Ðẩu vào xin đặng phép mầu.
Ðắc lịnh Hư cung chầu Bạch ngọc,
Mới tường căn cội vị mình đâu.

 

52.

Mình đâu đặng dịp thấy như vầy,
Xin phép xem tường phía hướng Tây.
Xây trái Ðài Thần vừa rúng trở,
Sấp lưng ai nấy cũng đều day.
Kim Quang Ðiển Mẫu đi tuần tới,
Văn Khúc Long Vương ở giữa ngày.
Xách búa Lổ ban đương chỉ vẽ,
Xây thành cảnh đẹp rất nên hay.

 

53.

Nên hay Thần phẩm xuống cùng lên,
Dạy dỗ nhơn sanh phép Ðịa Tiên.
Hồn trí ngao du trên đảnh núi,
Xác linh dao động cúi đầu truyền.
Thâu cơ Tạo hóa chưa vừa sức,
Thủ máy Càn khôn gẫm đủ quyền.
Xứ đẹp người xinh giàu có lớn,
Buồn trông ít thấy bực người hiền.

 

54.

Người hiền trước có đức thương sanh,
Nay đến cháu con ở chẳng lành.
Vinh hiển hưởng thừa dư chút sót,
Tội tình chất để đã nên thành.
Chờ xem Thiên luật không tư kỷ,
Mới rõ Thần minh chẳng vị tình.
Vừa chỉ roi thần ra trước mắt,
Cảnh vui đổi thảm thấy mà kinh.

 

55.

Mà kinh vì thấy cửa nhà tan,
Thành lũy trở ra đống bụi tàn.
Dưới đất trồi lên thằng Quỉ chúa,
Trên Trời khóc dậy lũ hồn oan.
Ðoạt gươm Ðiển Mẫu làm binh khí,
Múa búa Lỗ ban lập chiến tràng.
Bảo cọp thành chiên đời tận diệt,
Dời non đổi biển hại nhơn gian.

 

56.

Nhơn gian đang chịu khổ đao binh,
Thấy một nàng ra nói cứu mình.
Áo kết trăm hoa thân thể đẹp,
Mão thừa muôn ngọc mặt mày xinh.
Dịu dàng tay mặt lần xâu chuổi,
Yểu điệu tay kia nắm tấm hình.
Ðưa tượng Bạch My ra hiển hiện,
Chúng sanh xúm lại gọi Chơn linh.

 

57.

Chơn linh gẫm cũng thật linh thay!
Cái sắc tà tinh phép quá tài.
Lũ quỉ đến nhìn thần trí loạn,
Loài ma xem thấy tánh tâm say.
Ðể chơn trên đất đen ra trắng,
Ngó mắt đến người gái hóa trai.
Tuồng hát giọng đờn làm kệ sám,
Phồn hoa xây lấp khắp trong ngoài.

 

58.

Trong ngoài đã mãn tới đền thờ,
Nàng cũng không từ để bước nhơ.
Ướm hỏi Thánh linh đâu vắng dạng,
Mở lời miệng ngợi nói u ơ.
Nam phương bay tới ngàn đầu cánh,
Tây thổ trương lên một lá cờ.
Chính giữa linh quang xem thấy Phật,
Việc nàng đuổi quỉ sửa thiên cơ.

 

59.
Hộ Pháp:
Ngũ Lôi:
 
 
 
 
 

Thiên cơ chưa rõ máy huyền vi,
Muốn hiểu việc sau sự tức thì.
Rằng nếu tỏ tường cơ bí mật,
Phương nào rõ thấu phép tiên tri.
Cửa quyền Tây Nhạc kia xem thử,
Mặt luật Phong Ðô nọ phải tùy.
Phú Quí Lợi Danh đời gọi phước,
Nào dè là cội của ai bi.

 

60.

Ai bi giọng thảm kể vang vầy,
Hồn kẻ bể đầu, kẻ quẹo tay.
Xúm kiện Long Vương rằng ác nghiệt,
Ðều thưa Lôi Chấn ở không ngay.
Thằng hờn đá đánh ông Quan Võ,
Ðứa giận ném quăng miếng chiến bài.
Oan quỉ không mình la hét ó,
Chữ Công hiện sáng ngó nhăn mày.

 

61.

Nhăn mày lũ khác, khóc rù rù,
Trong đó có vài lão Sải tu.
Mổ bụng độn vàng, quăng phổi ruột,
Xẻ đầu nhét sách, ốm hình thù.
Xương tàn sọ thúi gần người trí,
Thuốc độc gươm trường, cận đứa ngu.
Giành giựt trước sau tranh giỏi dở,
Chử " Danh " ngó thấy mắt đui mù.

 

62.

Ðui mù hiếm kẻ cẳng dò đường,
Mò cát kiếm vàng thấy thảm thương.
Cắt xẻ thịt người đem đổi bán,
Sớt sang máu chúng đựng cân lường.
Cần cù dấu của trong khuôn sọ,
Lẩn bẩn tô nhà với bột xương.
Nghĩ nhớ gia tài xưa khóc mãi,
Trên đầu chữ " Phú " chiếu như gương.

 

63.

Như gương nhiều kẻ đẹp xinh thay,
Cũng đội mão cao cũng áo dài.
Oan quỉ chạy theo đòi trả mạng,
Cô hồn níu lại hỏi xin thây.
Trong đài các thấy đầy xương chất,
Ngoài áo mão xem máu dẫy đầy.
Xẻ thịt quỉ ma làm tiệc lớn,
Ánh lòa chữ " Quí " dọi vào ngay.

 

64.   Hộ Pháp:
 
 
 
 
 
 
 

Ngay gian hai lẽ biết sao thông,
Hình luật Thiêng liêng mới giữ phòng.
Một khuyết, một đầy, không đổ đủ,
Một lui, một tới, khó cân đồng.
Sang nhờ có khó sang nên mặt,
Khó chịu nương sang khó bận lòng.
Ðời tỷ sợi dây đôi trẻ kéo,
Một đàng thâu đặng, một đàng buông.

 

65.

Buông là tại dở yếu cam đành,
Ðã phải tội gì: giỏi, mạnh, lanh.
Ai cũng thủ thân nơi hổn độn,
Ðời là chiến trận lúc đua tranh.
Dở hay nào để chờ thân chết,
Bươn chãi toan gìn vẹn kiếp sanh.
Ðã gọi trần hoàng là biển khổ,
Nếu không lội lặn tội trầm mình.

 

66.
T. T.Tiên Ông: (1)
 
 
 
 
 
 

Trầm mình giải lý rất buồn cười,
Nói ngược sao người chẳng hổ ngươi.
Thiên ý nếu không cho sống thác,
Ðịa hoàng há dứt lập nên đời.
" Bởi thương sanh " cậy chưa vừa sức,
" Vì ái chúng " xin chẳng thuận lời.
Nhơn mạng là Trời mình để chết,
Dễ Trời phải chết há là chơi.

 

67.

Chơi như tánh nết đứa con ranh,
Biết bánh là ngon cứ việc giành.
Chưa phải hột cơm phần sống thác,
Ấy nhờ Thánh chất lượng cao xanh.
Côn trùng giết chết còn ngăn cấm,
Nhơn loại hại hao há nỡ đành.
Tiên, Phật độ sanh là chứng quả,
Nên người trước đã mới nên mình.

 

68.

Nên mình khá chọn kế chi nên,
Cái kiếp nhơn sanh chớ tưởng bền.
Thân tục lự* gây hoàn xá lợi, (*tục lụy?)
Của phù du đổi bửu thiêng liêng.
Ðọa căn lắm kẻ chê điều hậu,
Ðắc quả ít trang gớm sự tiền.
Chưa để đeo lưng trăm mối nợ,
Mà vào cho lọt cửa Thần Tiên.

 

69.
Hộ Pháp:
 
 
 
 
 
 

Thần Tiên đã hiểu chán đời rồi,
Có biết cho người khó vậy ôi!
Chẳng khác mắt mù đi cảnh tối,
Cũng như mũi nghẹt hữi mùi hôi.
Hơn thua lưỡi giáo chưa an đứng,
Giả thiệt đầu chông khó dể ngồi.
Ba vạn sáu ngàn ngày ví sống,
Chung qui nào tưởng "phép luân hồi".

 

70.

Luân hồi Thánh ngữ để lưu truyền,
Ðời chẳng tin mà cũng chẳng kiên.
Năm Ðạo nhiệm mầu răn thế giái,
Chín Trời yếu trọng độ nhơn duyên.
Lời lành dầu ghét, ngơ tai điếc,
Hình dữ cũng ngừa, để dạ kiên.
Duy biết thiệt, hơn, tai mắt bít,
Thà ngu hơn trí, ý không hiền.

 

71.

Hiền lương thường đặng tất tâm linh,
Quảng đại Càn Khôn hiệp tánh tình.
Lỗi mọn mình lầm, thường tưởng trọng,
Tội to kẻ lỡ, lại cho khinh.
Chở che khách tục hay tha thứ,
Yêu mến tăng đồ biết vực binh.
Cứu chuộc lắm gương Tiên Thánh để,
Liều thân độ chúng dạ khăn thìn.

 

72.

Khăn thìn nhắc thế lại cho cân,
Hòa giọt đau thương tắm khách trần.
Nẽo đọa trầm luân đo chắc thước,
Luật hình Ngọc điện sửa vừa phân.
Giấc mê thức tỉnh hồn căn cước,
Cảnh tịnh dìu an kẻ số phần.
Hễ thấy nhơn sanh còn thảm khổ,
Liều thân nào nại phận gian truân.

 

73.

Gian truân thay cho* phận làm người, ( *Gian truân cho thấy?)
Oằn oại cuộc đời gánh hết hơi !
Mình biết lấy mình tuy chẳng thẹn,
Miệng chê nhớp miệng cũng ghê lời.
Hình ma bóng quỉ trêu cay mắt,
Cổ quái tử tà bẹo xốn ngươi.
Bụm miệng máu rơi dầu nuốt giận,
Tâm tu ghét tục thoát xa vời.

 

74.

Dời qua Bắc hướng đặng xem qua,
Mới rõ Chánh kia chẳng nệ Tà.
Tà Chánh thế gian không đặc biệt,
Chánh Tà tâm nội có đâu xa.
Khử thân Chánh, Tà kiên Chánh,
Phụ Chánh cận Tà, Chánh biến Tà.
Người có chơn hồn, hồn ấy mất,
Muốn xem hí mắt, ngó sao xa?

 

75.

Xa trông cảnh vật đã xây tròn,
Bát hướng Ðài ngừng thấy nước non.
Ðộng cũ Thần Tiên còn để dấu,
Chùa xưa Phật tích nát hư mòn.
Chấp kinh Khổng sĩ nho phong giỏi,
Năm nghiệp Ðào quân mãi mại khôn.
Nẽo Thánh tuy quên tay dẩy cỏ,
Nền Văn miếu thấy khói hương còn.

 

76.

Hương còn bát ngát chốn Nam giao,
Thoạt thấy phong ba vụt thổi ào.
Ngọn tháp chín rồng hư xát rạt,
Ngoài bờ muôn quái dậy lao xao.
Ðảnh xanh lửa cháy phun muôn ngọn,
Sông Hắc nước lưng đựng một gào.
Trương cánh ba yêu ôm thế giái,
Ðều cầm mỗi đứa một chùm sao.

 

77.

Chùm sao khi tỏ lại khi mờ,
Thấy ngọn cờ hồng gió phất phơ.
Cõi ngoại reo vang quân vị quốc,
Trong thành ong óng tiếng con thơ.
Ruộng dâu, giáo đóng dầy hơn rạo,
Biển hoạn, nước xao dẫy quá bờ.
Chộn nhộn khó phân người với quỉ,
Ðền vàng người ngựa bóng u ơ...

 

(1) Thoàng Trượng Tiên Ông.
Ngoài những lỗi chánh tả thông thường, chúng tôi đã mạo muội sửa đổi. Những chữ  có dấu * kèm theo sau, theo suy nghĩ của chúng tôi có thể do sự nhầm lẫn của nhà in, hay sai sót kỹ thuật. Những chữ in nghiêng trong dấu (* xxxxx ?) chúng tôi xin đề nghị sửa đổi. Nhưng để tôn trọng nhà xuất bản chúng tôi xin giữ y nguyên văn.

Hết

 
   

Nhà sách Minh Tâm Xuất Bản và Phát Hành 1964



Xem dưới dạng văn bản thuần túy.
Lượt xem: 1256 | Tác giả: Hộ Pháp Phạm Công Tắc