× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Cao Đài » Thi văn

Khác


Nữ Trung Tùng Phận - 2

801.
Bởi nhan sắc không khoe không mặn,
Bởi hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.

805.
Bởi hoa chạ bên đường dễ hái,
Bởi buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn hay vặn lắm trục lờn,
Đổi hơi cầm sắt ra trường ca xang.

809.
Bởi vào trướng ra màn hết vị,
Bởi ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.

813.
Bởi mến cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.
Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn chong buồn bực lập lòa rèm thu.

817.
Bởi quen mặt đào châu bớt đẹp,
Bởi nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê vành xuân hết bịu mai.
Kiếm đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.

821.
Bởi cửa tía bóng trời nồng nực,
Bởi hiên thu gió chật đường ong.
Cánh hồng quen với cuồng phong,
Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

825.
Bởi cung Quảng bóng Hằng nhấp nhóa,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.

829.
Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca hay quên hẳn giọng đờn,
Một đêm túy mộng sánh hơn gặp vàng.

833.
Nơi tửu điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

837.
Thiếp biết phận cánh buồm dưới gió,
Đã khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.

841.
Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.

845.
Mảng gượng vui cùng đàn cháu dại,
Chỉ lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc xanh là bạn mày nhăn,
Nên ba dạy cháu biết bằng năm mươi.

849.
Khóc của mụ pha cười của trẻ,
Chậm của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.

853.
Nương con gậy ra vào lụm cụm,
Lưng gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.

857.
Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.

861.
Khi tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá chi một mảnh xương tàn,
Đày cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.

865.
Một thân góa tang y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu sương chất trắng khối tình,
Bao nhiêu ân ái trong mình tử thi.

869.
Ngó vạn vật cũng kỳ lẽ chết,
Nghe non sông như hết khí sinh.
Hỏi ta có sống thật tình,
Hay là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.

873.
Xem cây cỏ như màu thảm đạm,
Ngó thú cầm dường cảm đau thương.
Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình chàng như gắn nẻo đường vô ra.

877.
Kìa đào lý tàn già đã cỗi,
Nhắc tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào là trời lặn bóng tà,
Đêm khuya chờ lụng canh gà thăm em.

881.
Kìa cụm liễu gió đêm xao xác,
Đám chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
ƒy là nơi thiếp trao lời,
Trăm năm khi hứa nửa đời buổi nay.

885.
Kìa đầu rừng chòm mai đua nở,
Trước xem màu hớn hở như nay,
Cớ sao như ủ như vày,
Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.

889.
Kìa lũ én dật dờ cánh liệng,
Dựa chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng ta thân mất hình chôn cớ nào?

893.
Bầy hồng nhạn lao xao vịnh liễu,
Đám cò ngà bận bịu gành khơi.
Là nơi lúc đứng khi ngồi,
Trông trăng hẹn biển, ngó trời thề non.

897.
Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,
Đám thú nhà dụ dự bước chiều.
ƒy là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.

901.
Kìa bến nước dập dồn sóng dợn,
Chỗ đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà sao buổi ấy bây giờ khác nhau?

905.
Kìa nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông chòm cây, Tây có triền bưng.
ƒy nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà nay như nhắc mấy từng tương tư.

909.
Kìa chùa cũ nóc hư muốn sập,
Nơi đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ sao cảnh tịnh úa xào,
Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.

913.
Bóng hải đường ta ngồi buổi nọ,
Bồng con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

917.
Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.
ƒy là nơi thiếp đến thường,
Thăm chàng đang học nơi trường sân ngô.

921.
Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò đâu phút nổi thình lình,
Nào dè chàng cũng đến giành một nơi.

925.
Để thân thiếp mình ngồi hiu quạnh,
Còn thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.

929.
Tiếng oan ương bên tai dan díu,
Gió đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ nghe lời vật thế nào,
Mà ra như tiếng chàng chào buổi xưa.

933.
Nhành dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội tà dương như hết reo chiều.
Hương tàn gió tối hiu hiu,
Dở chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?

937.
Ai sau gót giây lâu như nói,
Xin người thương tha lỗi khi xưa.
Giận đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách mình nào có đổ thừa phụ duyên.

941.
Phải buổi trước đừng phiền đừng oán,
Để nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm chi rẽ nợ ba sinh,
Mà nay phải chịu một mình riêng thương.

945.
Tội chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm thương.

949.
Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.

953.
Nếu thiếp trước biết hòa biết thuận,
Nhẫn ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp giựt giành chi duyên.

957.
Giọt lệ thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia dải đồng tâm.
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

961.
Vắng mặt chàng thiếp về kiếm kẻ,
Chia tương tư đặng để nên tình.
Vì chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ câu hải thệ sơn minh với nàng.

965.
Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh về tổ, dế reo tơ,
Đường về vắng bước như tờ canh khuya.

969.
Tiếng U Minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

973.
Rốn để bước đến gần điện Thánh,
Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao đó hiển, sao đó linh,
Phải chăng trước cũng lụy tình như ta?

977.
Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ tất cửa không.
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.

981.
Hay sợ khổ sanh ly tử biệt,
Nên tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết chăng tình ái của người,
Xin cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.

985.
Hay đã sợ thân mòn gối mỏi,
Mến ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh đinh bể khổ dật dờ,
Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

989.
Hay đã sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền tình chịu sóng không kham,
Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.

993.
Buồn tình lóng nam-mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân còn nương giữa phong trần,
Khổ kia còn đếm mấy lần mới thôi.

997.
Rón rén trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

1001.
Lui chân kiếm con đường nhà nội,
Lửa đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.

1005.
Tiếng dế giống như lời chia thảm,
Ngọn đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng căn là chết ấy đường xưa nay.

1009.
Một ngày sống là bày bước chết,
Sợ chết nên không tiếc sống thừa.
Đời không mến, thế không ưa,
Lòng thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.

1013.
Vì sợ chết mà người kiếm sống,
Trong căn oan lại mộng tầm duyên.
Già hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên đau giải thảm cổi phiền của ai?

1017.
Một vật nhỏ cũng mài cũng gọt,
Của dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá kia nào kể nên chăng,
Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.

1021.
Thấy ai thảm lòng đau ái ngại,
Nghe kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau giọt lệ, giải tai ương,
Chia cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.

1025.
Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng hình quân tử với hàng lụy chung.

1029.
Khi ghen ghét không cùng hiệp mặt,
Nay thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn chi giành én giựt anh,
Thước cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.

1033.
Xem nét thảm, nàng đau như thiếp,
Trông tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.

1037.
Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.

1041.
Tay bồng con, tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

1045.
Cặp liễn tang còn câu long ám,
Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả như chàng có chốn nầy,
Tưởng khi đổ lụy châu mày với duyên.

1049.
Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
Oán hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.

1053.
Giọt lụy đổ không chi ngăn nổi,
Thương thân nàng chung với thân mình.
Thương chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối thương khó lấy gáo tình đem đong.

1057.
Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hòa chung.
Thề nhau trọn kết dải đồng,
Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.

1061.
Chia gia nghiệp trong cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy là vẹn giống trọn dòng,
Nàng sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.

1065.
Lập gia thất làm giàu con trẻ,
Định lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng thì an phận an nơi,
Con thì đáng mặt đáng người với ai.

1069.
Khi thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

1073.
Cỏ huyên cắm kềnh kềnh đầu tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

1077.
Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ,
Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.
Tính niên rồi lại tủi thầm,
Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.

1081.
Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,
Trước mặt xem những chỗ sầu than.
Nầy là hình ảnh của chàng,
Nầy là tiếng khóc của đàn trẻ con.

1085.
Nầy là chỗ thiếp còn niên thiếu,
Nầy là nơi chàng níu thiếp trì.
Nầy là buổi hiệp hồi ly,
Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.

1089.
Nầy là chỗ lời hơn tiếng thiệt,
Nầy là nơi cách biệt sanh ly.
Nầy là chỗ thiếp chẳng vì,
Nầy nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.

1093.
Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp,
Nầy là nơi vừa kịp hòa vui.
Nầy là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.

1097.
Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,
Càng ở gần khó nhín sầu than.
Cam tâm nín nẩm gia đàng,
Vì con chưa giữ vững vàng qui mô.

1101.
Nay tuyết đóng song hồ động lãnh,
Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn.
Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,
Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

1105.
Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,
Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.

1109.
Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.

1113.
Nào là phép giựt giành quyền lợi,
Nào là phương chuộng quới cầu vinh.
Thử đem sánh khổ kiếp sanh,
Chưa ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.

1117.
Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy.
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.

1121.
Nào là lúc ăn cay uống đắng,
Nào là khen rồi mắng bao phen.
Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.

1125.
Nào chửa đẻ biết bao khổ nhọc,
Nào hơn thua theo học sách đời.
Tang thương lúc biến khi dời,
Trăm năm e cũng một đời thế thôi.

1129.
Nào tranh đấu thắng rồi lại thất,
Của phù du chứa chất gọi giàu.
Thân còn đã quí là bao,
Dứt hơi của cải thế nào không hay.

1133.
Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ,
Mãn căn sanh chưa mở dây oan.
Kìa là vua, nọ là quan,
Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.

1137.
Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,
Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.
Cũng như ác thú nhốt hầm,
ˆn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.

1141.
Muốn lấy đạo làm đao hại thế,
Toan dùng văn gọi kế sanh nhai.
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.

1145.
Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.
Nhẫng lo chác oán mua hờn,
Hại nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.

1149.
Thấy cảnh thế mà đau với thế,
Biết thương đời mấy kẻ vì đời.
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.

1153.
Thay đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

1157.
Đoạn tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.

1161.
Vì thấy đó phải cười lộn khóc,
Sách của ngươi chẳng học mà say.
Cửa ngươi cửa đọa cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.

1165.
Lần chuỗi hột từ bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
Nước non để bước ta-bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.

1169.
Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ khiên.
Lấy thân rửa thảm lau phiền,
Đem công chuộc khách thuyền quyên lụy tình.

1173.
Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú riêng.
Khi động Thánh, lúc non Tiên,
Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.

1177.
Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

1181.
Đến phồn hoa thân gần tục lự,
Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.
Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

1185.
Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy hơi hòa nhã dẹp lần bỉ thô.

1189.
Giúp những kẻ ôm mồ thủ hiếu,
Dỗ những trang bận bịu khối tình.
Dọn đường phước giúp mày xanh,
Đưa con thuyền hạc đến gành thiên lương.

1193.
Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.

1197.
Câu tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
Khi kinh Thánh, lúc kệ Thần,
Đoạn trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.

1201.
Lầu xanh giặm màu tu trở vẻ,
Cửa không môn mở hé chơn hồng.
Thu phòng học chước thu không,
Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.

1205.
Đưa tuổi hạc quen chiều non nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê đời.
Nâng bầu nhựt nguyệt lưng vơi,
Dành gương liệt nữ để lời trinh phu.

1209.
Nắm huệ kiếm định thâu trái chủ,
Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.
Nơi bến khổ để bước già,
Xuân xanh noi dấu xây tòa anh phong.

1213.
Cột thân ái cậy lòng đạo đức,
Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.
Nung trang trí thức nữ lưu,
Biết thân giữ mặt hảo cừu giai nhân.

1217.
Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.
Vinh thì chuộng, nhục thì từ,
Cân cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.

1221.
Nước Ma-Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi bồ đề gìn giữ hồng nhan.
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.

1225.
Để chuông mõ dựa kề son phấn,
Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

1229.
Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
Chông gai vạch bước thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ người trầm luân.

1233.
Vẹn nhơn đạo, đi lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch như rừng,
Đon đường Thánh đức, hỏi chừng Như Lai.

1237.
Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
Oan trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.

1241.
Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
Biến thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn, mở đàng Lôi Âm.

1245.
Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
Thong dong quạt gió trăng đèn,
Nhành dương làm bạn, sách hiền gọi quen.

1249.
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.

1253.
Linh linh, hiển hiển, khinh khinh khứ,
Sắc sắc, không không, sự sự tiêu.
Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,
Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.

1257.
Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế, đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.

1261.
Hiệp Tạo hóa cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui.
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.

1265.
Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn.
Ham phương cứu thế độ nhân,
Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.

1269.
Lấy bác ái làm hòa vạn vật,
Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn căn đóng chặt Âm cung,
Tòa sen chín phẩm để cùng Phật tâm.

1273.
Trăm tuổi sống chẳng lầm tuổi sống,
Một kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.
Thay thân Tạo hóa là mình,
Nâng niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.

1277.
Ngồi mà lóng tiếng đờn vô cực,
Phước siêu thăng đặng thất nơi ta.
Biết coi thế giới như nhà,
Sống nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.

1281.
Thiếp nhờ Đạo giải phiền diệt khổ,
Biết may duyên lựa chỗ gởi tâm.
Tìm đâu đặng kẻ tri âm,
Ôm thương đem gởi cảnh Thần cửa Không.

1285.
Càng ngó trái lại miền thế tục.
Lụy nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.
Ái ân, ân ái là sao?
Đày thân lắm khách má đào gian truân.

1289.
Chịu mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng toan lo gìn giữ khối tình.
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu tan.

1293.
Nào những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu.
Duyên là đâu, nợ là đâu?
Chẳng qua biển khổ bắc cầu sông mê.

1297.
Khối thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp phu.
Hễ là trí, ấy là ngu,
Càng say âu yếm càng sầu nhớ thương.

1301.
Khách má phấn môi son đậm sắc,
Đặng đem mồi trêu mặt ác phong.
Đâu chữ tiết gọi là đồng,
Lời than tiếng thiết để lòng trăm năm.

1305.
Chẳng qua khách ăn nằm quán tục,
Vắn một ngày, lâu chút trọn đời.
Hỏi ai thỏa chí ai ơi?
Tra phòng hiệp cẩn, bao hồi khóc riêng.

1309.
Một câu mến gieo phiền muôn tiếng,
Đôi lời phân ngàn miệng xa xôi.
Hỏi ai trộm đứng lén ngồi,
Những cay những đắng cái mùi ra sao?

1313.
Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si tình.
Còn không để trọn lời lành,
Lại e cho gái nhẹ mình nữ trung.

1317.
Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.
Còn không lưu lại lời hiền,
Mưu chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.

1321.
Thấy trẻ gái dầm dề lụy đổ,
E cho sau chịu số như già.
Muốn khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại e để hại nước nhà khuyết dân.

1325.
Thấy nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,
Muốn binh lời làm mạnh đỡ nâng.
Lại e lỗi đạo nhơn luân,
Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

1329.
Gẫm thân gái trọn đời cực nhọc,
Tính buông câu gọi chút nghỉ ngơi.
Lại e sái thế lỡ thời,
Giúp nam nhân chẳng có người trọn tâm.

1333.
Nghĩ phận vợ ngàn trăm đau đớn,
Sanh đẻ còn nuôi dưỡng nhọc nhằn.
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.

1337.
Nên ngậm thảm đặng ngồi nuốt thảm,
Toan buông lời, chẳng dám hở môi.
Lén xem sự thế ngậm ngùi,
Nguyền trông chỉ đợi phép Trời dạy khuyên.

1341.
Tay lịch sự tự nhiên chê sự,
Lòng đa tình vẫn cứ vị tình.
Biết tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm phương hay gởi lấy mình cửa tu.

1345.
Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng vãng sanh.
Đã quen cảnh Phạm lánh mình,
Nên phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.

1349.
Nghe một sự, hiểu điều khác nghĩ,
Trong thất tình tiêu hủy không không.
Hết ham danh, chẳng mến công,
Xem hình lẩn lộ, bùi nồng thế gian.

1353.
Cây trăm thước bắc thang bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
Vui đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.

1357.
Đếm thử tuổi tám mươi đã quá,
Giấc Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.

1361.
Khổ bịnh thấy trêu người đã quá,
Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.

1365.
Muốn gặp mặt thâm tình gởi trối,
Nhưng lỡ bề vì buổi đoạn từ.
Khôn nhạn tín, khó hồng thư,
Viết quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.

1369.
Muốn nhắm mắt một bề cho khỏe,
Những tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
Khi thì khóc, lúc thì cười,
Bao nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.

1373.
Tám chục năm lâu xa cách mấy,
Trong giấc mê xem thấy ngắn thay!
Ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với tuyền đài gần nhau.

1377.
Nhớ con cháu còn lâu kiếp sống,
Dầu gặp hình như bóng sá chi.
Dở hồn phách, yếu thây thi,
Dậy ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.

1381.
Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Thi:

1385.
Giữ mình dầu vẹn tấm tình chung,
Danh tiết nữ lưu ở phụ tùng.
Mặt biển khổ dồi dào ái thủy,
Đầu non thề hủy hoại hương hồng.

1389.
Mày xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
Khí tượng anh thư gìn lẫn giá,
Giúp đoàn nhi nữ mở non sông.

1393.
Rán quá sức cẩn phong thí nhạn,
Dường say mê lơ lảng tinh thần.
Sấn tay thêm một chữ: Thân,
Để dành gỡ khổ đoạn tràng hồng nhan.

1397.
Buông ngọn viết vào làn mây trắng,
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.

1401.
Đời đời danh chói Cao Đài./.

Xem dưới dạng văn bản thuần túy.
Lượt xem: 1290 | Tác giả: Đoàn Thị Điểm