Từ sau cuộc chính biến 1975
tại miền Nam Việt Nam, một làn sóng người Việt di cư đi tìm cuộc sống mới nơi
các nước tự do. Trong làn sóng di dân này, có một số người theo tín ngưỡng Cao
Ðài đã trở thành hạt nhân bùng nổ phong trào truyền giáo Cao Ðài nơi hải ngoại.
Hầu hết họ là những di dân đi tìm lẽ sống cá nhân, chỉ một số rất ít vì lý do
tín ngưỡng.
Thế nhưng sau khi định cư
xong, họ lại trở thành những nhà truyền giáo không chuyên, hòan cảnh xã hội đưa
họ đến vị thế ấy. Bởi không chuyên nghiệp, nghĩa là tài năng và đạo đức trong
lãnh vực này chịu nhiều khiếm khuyết, họ đã hoạt động một cách hăng say theo
những tác động của tư duy và tình cảm mang nhiều tính cách hòan cảnh nhất thời
và hậu quả đương nhiên nhiều điều đáng tiếc đã xảy ra, mà đáng lẽ nó không xảy
ra mới đúng. Vậy chơn pháp là đâu? cái gì dã thôi thúc người tín đồ Cao Ðài có
những bước đưa chân như thế?
Trước nhất, trở về chỗ sâu
kín trong tâm hồn con người thì nhu cầu tín ngưỡng là nhu cầu chính đáng bởi nó
biểu hiện đức háo sanh của Thượng Đế. Vũ trụ biến hình từ không ra có. Thượng Đế
tự phân mình từ Hư Vô khí đến vạn loại. Trong hình thể vạn loại có cái sống của
tánh Linh. Vì vậy khi con người sống với vật là sống với vạn loại, sống với tâm
là sống với vạn linh. Đôi từ ngữ bao hàm ý nghĩa cả về hình chất lẫn tâm hồn.
Trong cuộc sống cõi trần này, ai chẳng từng mơ ước có một ngày mai tươi sáng,
dầu đó là giàu sang danh vọng, tuổi thọ kéo dài, cháu con lưu hậu... Thế nhưng
đời là quán trọ, là cõi tục chứ nào phải cõi Thiên đàng nên cuộc sống vẫn đầy
dãy những khổ đau bất hạnh. Tâm lý con người buộc phải nghĩ đến kiếp lai sinh
tái tạo..
Ý niệm tín ngưỡng nơi một
linh hồn bất diệt đã tạo thành nếp sinh hoạt tôn giáo của nhơn loại. Vì thế, tự
cổ chí kim, tín ngưỡng vẫn tồn tại bởi nó là một phần sự sống của con người. Từ
chối hay hủy diệt nó là đưa con người lùi lại cái sống chỉ biết có hai bữa ăn mà
sống. Hình thức tín ngưỡng thay đổi theo thời gian nhưng niềm khát vọng sâu xa
hướng về chỗ vẹn toàn bất diệt. Là một tiểu linh quang của Thượng Đế, linh hồn
vẫn luôn tồn tại trong tâm trí con người, dù họ hung bạo đến đâu cũng sẽ có
nhũng giây phút cảm nhận được điều ấy. Những giây phút mà con người đối đầu với
đau khổ, chết chóc, bất hạnh, họ hi vọng ở một cái gì mong manh khó tả. Họ cố
bám vào đó để tìm một điểm tựa và nghị lực kéo dài sự sống trước những thực tại
bất toàn đang phủ vây tứ phía...
Tín ngưỡng là sự sống của
con người, sự sống của tâm hồn ẩn tàng trong hình thể vật chất của xác thân. Sự
sống là biểu hiện đức Hóa sanh của Thượng Đế. Loài người có tín ngưỡng mới tìm
đến Chí Linh. Bước nối liền ấy là sự sinh hoạt phần hồn sau cái sống của xác
phàm chỉ biết kiếm tiền rồi ăn uống, vui chơi hưởng thụ là chính. Nhu cầu tâm
lý và nhu cầu vầy đoàn đã thôi thúc đoàn người di dân có tín ngưỡng trở nên rộn
rịp với những sinh hoạt truyền giáo ở xứ người.
Thứ đến, ta phải kể đến nhu
cầu vầy đòan để tìm hơi ấm của những cánh chim bạt gió. Ðặt chân lên đất khách
quê người, tâm hồn kẻ di dân tránh sao khỏi cảm thấy lòng mình giá lạnh, lạc
lõng bơ vơ. Những cánh chim bạt gió ấy tìm lại gần nhau, để bảo tồn sự sống của
mình, tìm chút hơi ấm cho tâm hồn bớt giá lạnh. Cộng đồng người Việt đã thành
hình trên đất khách cũng vì lý do ấy. Trong cộng đồng đó, có cộng đồng tín hữu
Cao Đài. Hội tín hữu Cao Đài ra đời rải rác từng nhóm đó đây, làm sống lại sinh
hoạt thờ phượng, cúng kiến, truyền bá đức tin của đoàn người tín hữu trên khắp
các nước:Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh, Pháp, Đức...
Nếu như tín ngưỡng chỉ đơn
thuần là chuyện của tâm linh thì chưa đến nỗi phải nhọc lòng để tâm phân giải.
Đàng sau cái bóng dáng của sinh hoạt truyền giáo hải ngoại vẫn thập thò những ý
tưởng của các chính khách đã vì đời nặng mang đế nghiệp hay chút công danh phù
phiếm còn vướng đọng trong tâm đã vẽ nên cảnh Chùa chiền, Thánh thất một bức
tranh mây nổi nhuốm màu tang thương. Hễ có hợp quần tất nhiên gây sức mạnh, có
quyền bính tất phải có đua tranh. Từ đó xảo thuật của đời đã len vào cửa từ bi.
Giục lên tiếng chuông rộn rã, cảnh tỉnh lòng người đang mưu tìm hạnh phúc bằng
sự chơn thật của mình.
Ôi...tuy vân Đại Từ Phụ đã
vì đời mà mở cơ qui nguyên phục nhứt cho con cái của người gom về một mối, anh
trước em sau dìu nhau về đường Chí Thánh, mà hại thay cái bóng vẽ hình tôn giáo
và con mắt Cao Đài nơi đất khách dường như nghiêng đổ nhạt nhòa bởi tâm lý nhơn
sanh bất hóa trong việc truyền giáo.
Do đâu? Vì đâu nên nỗi?