Bấy giờ, trong pháp-hội có
một vị Đại-bồ-tát tên là THƯỜNG-TINH-TIẾN nhờ uy-thần của Phật, liền từ
tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay cung-kính
bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói nơi A-lan-nhã là Bồ-đề
đạo-tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ-đề, không nên lìa bỏ nơi
A-lan-nhã ấy. Trong nơi A-lan-nhã ấy có nhiều chúng-sinh như: hổ, báo,
sài-lang, trùng-độc, thú-dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến
Như-Lai, không nghe chính-pháp, lại không kính Tăng, các chúng-sinh ấy
không tu lại thiện-căn, xa lìa sự giải-thoát, thế mà, làm sao Như-Lai
lại khiến người tu-học ở nơi A-lan-nhã ấy để chóng được thành Phật? Kính
xin Thế-Tôn vì các chúng-sinh phân-biệt, giải-thuyết, giải-quyết cho sự
ngờ vực ấy, làm cho chúng-sinh được vui-vẻ phát tâm Bồ-đề, khiến họ
không bị thoái-chuyển!”
Đức Phật bảo Bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông đem
lòng đại-từ hỏi Như-Lai về sự thanh-tịnh giải-thoát, lợi-ích cho những
người tu-hành mai sau, công-đức ấy vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ
nghĩ khéo! Nay Tôi vì ông phân-biệt diễn nói về các công-đức của nơi
A-lan-nhã!” Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Con nguyện
muốn được nghe!”
Đức Phật bảo Bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Như ông nói nơi A-lan-nhã được thành bậc Thánh nhưng,
trong rừng núi nhiều chúng-sinh bởi nhân-duyên gì, không được thành
Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở-dĩ thế là sao? – Các chúng-sinh kia không
biết Tam-bảo, không biết chán, đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng
núi tuy có nhiều trân-bảo của thế-gian, mà họ vẫn không biết được chỗ
ẩn-náu của nó. Đại-bồ-tát không như thế, Thiện-nam-tử! Bồ-tát biết Phật,
Pháp, Tăng-bảo là của báu xuất-thế-gian, bảy ngọc báu ẩn-náu là của báu
thế-gian, các vị đều phân-biệt được mọi sắc-tướng của nó, biết chỗ ở của
nó nhưng, không tham-cầu, cũng không thích thấy, huống là còn nhặt lấy?
Bồ-tát xuất-gia phát tâm kiên-cố không tiếc
thân-mệnh, lìa bỏ cha mẹ, lục-thân quyến-thuộc, thích ở nơi rừng núi,
thường nghĩ: “Giả-sử khi hết kiếp, cõi tam-thiên đại-thiên này bảy mặt
trời mọc ra, hỏa-tai bừng cháy, thiêu-đốt muôn vật, mặt trời, trăng,
sao, núi Tu-di, bảy núi Kim-sơn, núi Thiết-vi…, lúc thời đến đều bị
tiêu-tan; ngay đến cõi cao nhất ba cõi là cõi trời Phi-phi-tưởng, khi
hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cõi đất; Chuyển-luân Thánh-vương có
nghìn con vây quanh, thất-bảo quyến-thuộc và bốn châu đều phục, mà khi
quả-báo của thọ-mệnh hết cũng không dừng được chốc lát. Nay ta cũng thế,
giả-sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đầy-đủ, hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc
nhưng, sứ-giả Diễm-ma đến là không khỏi được vô-thường. Thấy thế nên
suy-nghĩ rằng: “Nay ta không gì bằng thay thế cha mẹ ta cùng các
chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại
trong ba cõi độ cho cha mẹ”. Phát-nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhã vì các
chúng-sinh phát ra những thệ-nguyện rộng lớn.
[1]
Bồ-tát thượng-căn
phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ở nơi đất
trống, luôn luôn ngồi không nằm”. Bồ-tát trung-căn phát-nguyện: “Nguyện,
con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp,
không nằm”. Bồ-tát hạ-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật
trở lại, thường ngồi trong nhà đá, không nằm”.
Ba căn trong Bồ-tát xuất-gia như thế, ngồi
trong ba tòa
[2]
vừa nói, đều nghĩ: “Bồ-tát thuở
quá-khứ ngồi trên tòa này, chứng được Đà-ra-ni-môn công-đức tự-tại; các
Bồ-tát trong đời đã qua, hiện nay và mai sau, đều ở trên tòa này được
Đà-ra-ni tu chứng tự-tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ
thành-tựu Đà-ra-ni, được tự-tại. Nếu chưa thành-tựu và được tự-tại, ta
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã!”
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn tâm
vô-lượng (từ, bi, hỷ, xả) quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có
Bồ-tát chưa viên-mãn được năm sức thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết
không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được
phương-tiện thiện-sảo, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát
chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn nhiếp-pháp,
[3]
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được pháp lục-niệm
[4]
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được “trí-tuệ, đa-văn”, quyết không lìa bỏ
nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được sức tin bền-vững,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt trừ được sáu
mươi hai kiến,
[5]
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được tám chính-đạo,
[6]
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa dứt hẳn được tập-khí của phiền-não-chướng,
sở-tri-chướng, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không
lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được tâm Đại-bồ-đề,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã, Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được
hằng-sa Tam-muội, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
thành-tựu được vô-lượng thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát dùng sức thần-thông nơi đại-định (định-thông-lực) thấy
mười tám “không”
[7]
mà tâm không kinh, đại-sự như thế nếu
chưa thành-tựu, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được Nhất-thiết-trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có
Bồ-tát chưa viên-mãn được Nhất thiết-chủng-trí, quyết không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được ba mươi bảy Bồ-đề phận-pháp,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được muôn
hạnh trong Thập-địa,
[8]
quyết không lìa-bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát ở trong trăm kiếp chưa tu-hành được về nghiệp-quả của
tướng tốt, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được bốn trí của Như-Lai, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sự chứng Đại-niết-bàn, quyết không lìa
bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ngồi tòa Kim-cương mà chưa chứng được
vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Thế là
Bồ-tát thực-hành hạnh A-lan-nhã.
Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
phát tâm Bồ-đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba tòa vừa nói, mài luyện
thân tâm, trải bao đại-kiếp, tu muôn hạnh, chứng được vô-thượng
chính-đẳng Bồ-đề.
Lúc đó, đức Thế-Tôn nói lại
nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Thời xưa nhân-địa các
Như-Lai,
Ở A-lan-nhã, lìa trần-tục;
Đoạn, dẹp phiền-não,
sở-tri-chướng,
Vượt qua ba cõi chứng Bồ-đề.
Bồ-tát quá-khứ tu
hành-nguyện,
Lấy A-lan-nhã làm nhà cửa;
Trong vô-số kiếp tu phúc-trí,
Cứu-cánh Thập-địa chứng tam
thân.
Bồ-tát vị-lai cầu Phật-quả,
Vào trong núi sâu tu
diệu-hạnh;
Dứt trừ hai chướng, nhân
sinh-tử,
Sẽ chứng tam-không chân
giải-thoát.
Mười phương hiện-tại các
Bồ-tát,
Tu-trì muôn hạnh ở
“không-nhàn”;
Không tiếc thân-mệnh cầu
Bồ-đề,
Niệm niệm chứng được
vô-sinh-trí.
Nếu muốn chóng chứng Tam-muội
sâu,
Nhân tu diệu-định,
siêu-thần-thông;
Nơi A-lan-nhã tâm không rộn,
Biến được đại-địa thành
thất-bảo.
Nếu muốn dạo chơi khắp mười
phương,
Đi lại tự-tại vận thần-thông;
Cúng-dàng chư Phật lợi
quần-sinh,
Ở nơi Lan-nhã không sợ-hãi.
Muốn chứng trí như-huyễn hữu, vô,
[9]
Hiểu thấu các pháp
bản-lai-không;
Ở A-lan-nhã, Bồ-đề-tràng,
Khiến chúng, cũng vào chân-giải-thoát.
[10]
Nếu muốn chóng được
như-như-trí,
Chứng-hội các pháp
như-như-tính;
Hết đại-kiếp-hải lợi
quần-sinh
Thường ở Lan-nhã nơi
không-tịch.
Nếu người muốn được
nan-tư-trí,
Tu-di thu vào trong hạt cải;
Tu-di, hạt cải tướng
bất-hoại,
Vào nhà thần-thông trong Lan-nhã.
[11]
Nếu người muốn được
vô-ngại-trí,
Một tiếng diệu-âm dùng
thuyết-pháp;
Tùy loại chúng-sinh đều được
thoát,
Nên ở Lan-nhã tu diệu-quán.
Nếu muốn không sinh và không
diệt,
Ứng-hiện quốc-độ khắp mười
phương;
Phóng quang thuyết-pháp lợi
quần-sinh,
Chớ lìa Lan-nhã nhà
không-tịch.
Nếu lấy ngón chân ấn đại-địa,
Khiến cõi mười phương đều
chấn-động;
Thấy tướng, phát tâm trừ
tà-kiến,
Nên ở Lan-nhã quán tự-tâm.
[12]
Nếu muốn trong khi Phật
xuất-hiện,
Tối-sơ kính dâng
vi-diệu-cúng;
Thí-ba-la-mật đều viên-mãn,
Ở A-lan-nhã tu diệu-hạnh.
Nếu người, khi Phật nhập
Niết-bàn,
Tối-hậu cúng-dàng thành nghĩa
“Thí”;
Dứt hẳn nghèo-cùng và tám
nạn,
Thệ-nguyện ở trong A-lan-nhã.
Nếu muốn phúc-trí đều
viên-mãn,
Chư Phật mai sau sắp
Niết-bàn;
Nhận nguyện rộng lớn, Phật
giao cho,
Ở A-lan-nhã tu lục niệm.
Sau khi chư Phật nhập
Niết-bàn,
Kết tập di-pháp độ
chúnh-sinh;
Trợ-tán chân-thừa của chư
Phật,
Ở nhà “không-tịch” trong
Lan-nhã.
Đại-sư Nhân, Thiên: Đấng
Thế-Tôn,
Khó thấy, khó gặp hơn Ưu đàm;
Nếu muốn yết-kiến, sửa
cúng-dàng,
Nên ở Lan-nhã, bi-nguyện
rộng.
Mọi báu tuy tôn, PHÁP
tôn hơn,
Thành Phật, hóa lợi do đây
cả;
Như người muốn được thường
nghe pháp,
Ở A-lan-nhã tu phạm-hạnh.
Đầu, từ thân này đến thân
Phật,
Thường nguyện phát tâm hoằng
chính-giáo;
Cho đến khi chưa được Bồ-đề,
Niệm niệm không bỏ A-lan-nhã.
Nếu người muốn báo ơn cha mẹ,
Thay thế cha mẹ phát
thệ-nguyện;
Vào Bồ-đề-tràng trong
Lan-nhã,
Ngày đêm thường tu về
diệu-đạo.
Nếu muốn đời nay thêm
phúc-trí,
Mai sau không đọa trong tám
nạn;
Như thế, chúng-sinh phát
thiện tâm,
Ở A-lan-nhã tu bi-nguyện.
Bồ-tát ba đời cầu chân-giác,
Được đạo Niết-bàn trong
Lan-nhã;
Thế nên gọi là đại-đạo-tràng,
Thánh-chúng Tam-thừa đồng ở
đó.
Bồ-tát chán khổ vào rừng núi,
Vì độ quần-sinh cầu
Thánh-đạo;
Tự chưa thành Phật độ người
trước,
Sáu đạo, bốn loài đều
thương-xót.
Bồ-tát thượng-căn ở đất
trống,
Bồ-tát trung-căn trong bóng
lá;
Bồ-tát hạ-căn ở nhà đá,
Chưa thành Phật-đạo thường
không nằm.
Bồ-tát ba đời ở Lan-nhã,
Được sức tự-tại Đà-ra-ni;
Nay ta thề cùng tâm Bồ-đề,
Chửa được Tổng-trì, ở đây
mãi.
Được Đại-bồ-đề ở Lan-nhã,
Vào đại-viên-tịch do đây
được;
Bồ-tát khởi phát trí
kim-cương,
Đoạn hoặc, chứng chân
[13]
thành Diệu-giác.
Hóa rộng chúng-sinh qua làng
xóm,
Vì cầu tịch-diệt ưa rừng núi;
Nhân muôn hạnh đầy, quả cũng
trọn,
Hết thời vị-lai độ mọi loài.
Khi đức Thế-Tôn nói về hạnh A-lan-nhã của
Bồ-tát xuất-gia như thế, vô lượng Bồ-tát chứng Cực-hỷ-địa; Hằng-hà-sa vô
số Bồ-tát lìa hẳn tướng, dụng vi-tế phiền-não, chứng Bất-động-địa;
bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết Đại-bồ-tát dứt hết thảy hoặc-chướng vào
Diệu-giác-địa; vô-biên chúng-sinh phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng
chính-đẳng chính-giác; chín vạn bảy nghìn chúng-sinh xa lìa trần-cấu,
được pháp-nhãn-tịnh.
[14]
TOÁT-YẾU
V.- PHẨM A-LAN-NHÃ
Bấy giờ trong pháp-hội,
Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Phật nói nơi
A-lan-nhã là đạo-tràng Bồ-đề, ai phát tâm Bồ-đề không nên rời nơi ấy,
sao các thú dữ, trùng-độc, chim bay, thợ săn ở ngay nơi ấy lại không
nghe, biết Tam-bảo, tu lại thiện-căn, mà Phật cứ bảo người tu-học ở nơi
ấy để chóng thành Phật?”
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Ông nói thế không phải. Chính vì các chúng-sinh kia
không biết chi cả. Ngay đến những thứ quý báu ở trong rừng, họ cũng
không biết ở chỗ nào. Bồ-tát không thế. Bồ-tát biết Tam-bảo là của quý,
nên của báu của đời Bồ-tát biết rõ-ràng nhưng không tham-cầu. Bồ-tát
phát tâm kiên-cố, không tiếc thân-mệnh, bỏ tình thân-quyến, ở nơi rừng
núi, thường nghĩ: “Ba cõi này có lúc cũng sẽ tiêu-tan, dù người ở ngôi
tôn như Chuyển-luân-vương hay như thân ta sống đến trăm tuổi cũng không
tránh khỏi vô-thường. Chi bằng ta thay cha mẹ cùng chúng-sinh tu hạnh
Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại ba cõi độ cho
hết-thảy”. Do đó, Bồ-tát thượng-căn ở nơi A-lan-nhã nguyện: “Trong khi
chưa thành Phật ngồi luôn, ở nơi đất trống không nằm!” Bồ-tát trung-căn
nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi dưới gốc cây không nằm!” Bồ-tát
hạ-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi trong hang đá không nằm!”
Và, các Bồ-tát đều nghĩ: “Các Bồ-tát trong ba đời đều ngồi trên tòa này
tu chứng Đà-ra-ni tự-tại, ta đây cũng quyết thành-tựu như vậy, nếu
không, ta không lìa bỏ nơi này!”
Hoặc có các Bồ-tát nguyện
không lìa bỏ nơi A-lan-nhã nếu chưa dứt trừ được 62 kiến, chưa dứt trừ
được tập-khí của hai chướng. Hoặc có các Bồ-tát nguyện không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã nếu chưa viên-mãn được: 4 tâm vô-lượng, 5 sức thần-thông, 6
Ba-la-mật, 4 nhiếp-pháp, 8 chính-đạo, 6 niệm. Và, nếu chưa được
thiện-sảo phương-tiện, chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, chưa được
trí-tuệ đa văn, chưa được sức tin vững-chắc, chưa được trí-tuệ vi-diệu
trong việc tùy bệnh cho thuốc, chưa được đại-bồ-đề-tâm, chưa được
hằng-sa tam-muội, chưa được vô-lượng thần-thông, chưa thành-tựu
định-thông-lực, thấy 18 không, chưa được Nhất-thiết-trí,
Nhất-thiết-chủng-trí, chưa chứng được 37 bồ-đề-phận-pháp, chưa được
hạnh-môn trong Thập-địa, chưa tu được nghiệp-quả về tướng tốt, chưa được
4 trí, chưa chứng Đại-niết-bàn và chưa thành vô-thượng-giác…quyết không
lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Bồ-tát xuất-gia phát tâm
bồ-đề ở trong rừng núi, mài luyện thân tâm, tu muôn hạnh trong nhiều
đại-kiếp, để chứng vô-thượng chính-đẳng bồ-đề!
Khi đức Phật nói về hạnh
A-lan-nhã, rất nhiều Bồ-tát hoặc chứng được Cực-hỷ-địa, hoặc chứng được
Bất-động-địa, hoặc vào Diệu-giác-đạo và nhiều chúng-sinh hoặc phát tâm
vô-thượng bồ-đề, hoặc xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.
[1] Đoạn trên, từ chỗ “Bấy giờ” đến chỗ “rộng lớn”, Bồ-tát Tinh-Tiến ngờ hỏi về việc nơi A-lan-nhã. Đức Phật nói rõ nghiệp-duyên chúng-sinh ở nơi ấy, để phá tan sự ngờ vực. Và, Ngài còn nói rộng về các Bồ-tát thích ở rừng núi, vì quán thấy lẽ khổ trong vô-thường, nên nguyện tu-hành để báo ân.
[2] Ba tòa: Ngồi nơi đất trống, dưới cây và nhà đá.
[3] Bốn nhiếp-pháp: Bốn phương-pháp thực-hành để dắt dẫn chúng-sinh, tin theo chính-đạo: 1/ Bố-thí. 2/ Ái-ngữ. 3/ Lợi-hành. 4/ Đồng-sự.
[4] Lục-niệm: Sáu phương-pháp nhớ nghĩ: 1/ Niệm-Phật: nghĩ đến Phật đủ mười hiệu, phúc-trí viên-mãn, mong muốn bằng Phật. 2/ Niệm-Pháp: nghĩ đến Pháp là lời nói của Phật có nhiều công-đức, mong muốn chứng được. 3/ Niệm-Tăng: nghĩ đến các vị Tăng, được vô-lậu-pháp, đầy-đủ ba học, làm ruộng phúc cho đời, mong tu hạnh ấy. 4/ Niệm-giới: nghĩ đến giới-hạnh có nhiều thế-lực ngăn trừ ác-pháp, mong gắng hộ-trì. 5/ Niệm-thí: nghĩ đến hạnh bố-thí có công-đức lớn, trừ bệnh sẻn tham, muốn đem thiện-pháp bố-thí cho chúng-sinh. 6/ Niệm-thiên: nghĩ đến các cõi trời, do tu thiện-căn, giới, thí, được sự khoái lạc tự nhiên, mong đủ công-đức ấy, sinh lên những nơi ấy.
[5]
62 Kiến: Sáu
mươi hai thứ tà-kiến (tư-tưởng sai lầm) này, kinh, luận giải-thích
không đồng, nay y vào phẩm Phật-mẫu trong kinh Bát-nhã phân-tích sự
thiên chấp về: sắc, thụ, tưởng, hành, thức và thân, thần như sau:
A.- Chấp 5 uẩn thuộc
quá-khứ : 1/ Sắc là thường. 2/ Sắc là vô-thường. 3/ Sắc là thường,
vô-thường. 4/ Sắc là phi thường, phi vô-thường. Thụ, Tưởng, Hành,
Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy nên thành 20 kiến.
B.- Chấp 5 uẩn thuộc
hiện-tại: 1/ Chấp sắc (không-gian) là hữu biên (có bờ cõi, nghĩa là
có chỗ cùng cực). 2/ Chấp sắc là vô-biên. 3/ Chấp sắc là hữu-biên,
vô-biên, 4/ Chấp sắc là phi-hữu-biên, phi-vô-biên. Thụ, Tưởng, Hành,
Thức 4 uẩn đều chấp 4 thứ như vậy, nên thành 20 kiến.
C.- Chấp 5 uẩn thuộc
vị-lai: 1/ Chấp sắc là như khứ: chấp sắc thân sinh lại thế-gian này
thế nào, khi chết đi, đến đời sau vẫn như thế. 2/ Chấp sắc là
bất-như-khứ: quá-khứ không có chỗ lại, thời vị-lai cũng không có chỗ
đi. 3/ Chấp sắc là như-khứ, bất-như-khứ: sắc thân, thức-thần hòa-hợp
thành người, sau khi chết thức-thần đi, sắc thân không đi. 4/ Chấp
sắc là phi như khứ, phi bất như khứ (câu này có nghĩa là đả phá câu
thứ ba). Thụ, Tưởng, Hành, Thức bốn uẩn đều chấp bốn thứ như vậy,
nên thành 20 kiến.
Chấp 5 uẩn trong 3 đời thành 60 kiến và thêm chấp về “thân”, “thần” là “nhất” (một) hay là “dị” (khác), mà thành 62 kiến.
[6] 8 chính-đạo: chính-kiến, chính-tư-duy, chính-ngữ, chính-nghiệp, chính-mệnh, chính-tinh-tiến, chính-niệm và chính-định.
[7] 18 không: “Không”: Các pháp do nhân-duyên sinh, rốt-ráo không có thực-thể, gọi là “không”. Lại là sự không-tịch của lý-thể. 18 Không: 1/ Nội không. 2/ Ngoại-không. 3/ Nội ngoại không. 4/ Không-không. 5/ Đại không. 6/ Đệ nhất nghĩa không. 7/ Hữu-vi không. 8/ Vô-vi không. 9/ Tất-cánh (rốt-ráo) không. 10/ Vô-thủy không. 11/ Tán không. 12/ Tính không. 13/ Tự-tính không. 14/ Chư pháp-không. 15/ Bất khả đắc không. 16/ Vô pháp không. 17/ Hữu pháp không. 18/ Vô pháp, hữu pháp không.
[8] Thập-địa: 1/ Hoan-hỷ-địa. 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì thâu tóm các công-đức hữu-vi và vô-vi dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương-tựa chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “Địa”.
[9] Trí như-huyễn hữu, vô: “Như-huyễn” có nghĩa là vẫn giả mà giống như thực. Như những người làm trò, xuất hiện vai này, vai khác trên sân khấu, làm cho người ta trông thấy, nghe thấy như thực, gọi đó là “huyễn”. Sự huyễn tuy thấy, nghe như thực, mà chẳng phải thực. Vì vậy, đem ví-dụ cho hết thảy pháp (sự vật) là không thực. Nơi đây nói được trí-tuệ, quán-chiếu hữu (có), vô (không) là như-huyễn, nên gọi là “trí như-huyễn hữu, vô”.
[10] Đoạn trên, từ chữ “Muốn” đến chữ “thoát”, 4 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhã chứng được trí như-huyễn hiểu rõ các vật bản-lai là không và làm cho chúng-sinh cùng hiểu, để vào được nơi giải-thoát chân-thực.
[11] Đoạn trên từ chỗ “Nếu muốn chóng được như-như-trí”, đến chỗ “trong Lan-nhã”, 8 câu kệ này nói: ở nơi Lan-nhã sẽ chứng được chính-trí trong lý-thể của pháp-tính bình-đẳng không hai, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh mãi mãi. Chứng được chính-trí ấy, đầy-đủ sức thần-diệu không thể nghĩ bàn, quán-chiếu rõ thực-tính, thực-tướng của mọi pháp, như hạt cải là vật cực nhỏ, núi Tu-di là vật rất lớn, mà thực-tướng lý-thể của chúng vẫn bình-đẳng không hai. Do bình-đẳng không hai và do trí-lực vi-diệu, sự chuyển-biến qua nhau, không chi chướng-ngại nên nói “Tu-di thu vào trong hạt cải”.
[12] Đoạn trên từ chỗ “Nếu người” đến chỗ “tự tâm”, 12 câu kệ ấy cũng nói về: ở nơi Lan-nhã sẽ được trí-tuệ vô-ngại, cất tiếng vi-diệu nói pháp, chúng-sinh nghe được đều giải-thoát. Và, tùy duyên ứng-hiện độ-sinh, dùng thần-thông, tới đâu chỉ ấn ngón chân xuống đất là khắp nơi rung-chuyển, đất nước trang-nghiêm, chúng-sinh phát tâm theo chính-đạo.
[13] Đoạn hoặc chứng chân: Dứt trừ vọng-hoặc (phiền-não) chứng-nhập chân-trí.
[14]
Đoạn trên, từ chỗ
“Bồ-tát thượng căn phát-nguyện” (thuộc chính-văn), đến chỗ “được
pháp nhãn-tịnh” này, đức Phật nói về các Bồ-tát ở nơi Lan-nhã, tùy
theo trình-độ, tự lập những lời thệ-nguyện kiên-cố, nếu không
chứng-quả không bỏ A-lan-nhã. Tiếp sang bài kệ cũng nhắc lại nghĩa
trên và nói nhiều về trí-lực và lợi-ích vi diệu. Sau cùng, nói về
chúng-hội nghe pháp được lợi.
Đến đây hết quyển thứ năm.