Kinh Bồ Tát Thiện Giới
Phẩm thứ mười bảy…Cúng dường tam bảo - Tứ Vô Lượng Tâm

Thế nào gọi là Bồ Tát cúng dường Như Lai?

-Cúng dường Như Lai đại loại có mười cách:

Một là. Cúng dường sắc thân.

Hai là. Cúng dường tháp.

Ba là. Hiện gặp cúng dường.

Bốn là. Chẳng hiện gặp cúng dường.

Năm là. Tự mình cúng dường.

Sáu là. Người khác cúng dường.

Bảy là. Cúng dường lợi ích.

Tám là. Cúng dường tối thắng.

Chín là. Cúng dường thanh tịnh.

Mười là. Thọ trì cúng dường.

1.Cúng dường sắc thân: Đại Bồ Tát hiện tiền thấy sắc thân Phật, vì sắc thân mà cúng dường. Gọi là cúng dường sắc thân.

2.Cúng dường tháp: Đại Bồ Tát vì Như Lai mà tạo lập tháp miếu, hang, khám, hình tượng, sửa sang tháp miếu đã bị hư mục. Nếu gặp tháp mới, dùng hương hoa cúng dường, gọi là Cúng dường tháp.

3.Hiện gặp cúng dường: Đại Bồ Tát lúc hiện tiền gặp gỡ hình bóng Như Lai, gặp đức Phật đây không khác gặp các đức Phật trong khắp mười phương. Đây mệnh danh là Hiện gặp cúng dường.

4.Chẳng hiện gặp cúng dường: Đại Bồ Tát hoặc cúng dường chư Phật hiện tại hay tháp miếu Phật, được tâm tin hiểu: “Nay tôi hiện gặp và làm việc cúng dường, cũng được cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai” Tại sao vậy? -Tất cả Như Lai đồng một pháp tánh, vì thế tất được cúng dường chư Phật quá khứ vị lai. Nếu tôi cúng dường tháp Phật hiện tại cũng là được cúng tháp Phật quá khứ vị lai. Vì sao? -Vì các miếu ấy đồng một pháp tánh. Nếu cúng dường một đức Phật, tức đã cúng dường chư Phật mười phương. Cúng một tháp Phật, tức đã cúng dường tháp Phật trong khắp mười phương.

Tạo lập hang khám, bồi bổ sửa sang tháp cũ, khi cúng dường tháp lại cũng như vậy. Đây gọi là Chẳng hiện gặp cúng dường.

Lại nữa, chẳng hiện gặp cúng dường là:

Hoặc chẳng gặp Phật, chẳng gặp tháp Phật mà tâm tưởng rằng: “Đây là Như Lai, đây là tháp Phật” Tất cả Phật, tất cả tháp, tất cả hang, tất cả tượng lại cũng tưởng như vậy. Đây gọi là Chẳng hiện gặp cúng dường.

Lại có một điều chẳng hiện gặp cúng dường là: hoặc sau khi Như Lai Niết Bàn, Bồ Tát vì Phật mà lập tháp miếu. Tùy sức tạo dựng hoặc là một tháp, hoặc là hai tháp đến vô lượng tháp. Đây gọi là chẳng hiện gặp cúng dường. Việc làm trên đây quả phước vô lượng, nhiếp lấy quả phước vô lượng Phạm thiên. Do nhân duyên này trong vô lượng kiếp Đại Bồ Tát không đọa vào đường ác, cũng do nhân này có thể trang nghiêm đạo quả Bồ Đề.

Đại Bồ Tát chẳng hiện gặp Tam bảo mà vẫn thi thiết về vụ cúng dường, còn hơn việc cúng hiện tại gặp gỡ, không thể tính lường, không thể so sánh, được những quả báo không thể tuyên nói. Với người si mê sau khi hiện gặp mới bày cúng dường, còn bực trí nhơn tuy không gặp gỡ nhưng hay cúng dường. Đây gọi là chẳng hiện gặp cúng dường.

5.Tự mình cúng dường: Khi Đại Bồ Tát hoặc cúng dường Phật, hoặc cúng dường tháp, tự tay sắp sửa chẳng sai người khác. Như vậy gọi là Tự mình cúng dường.

6.Người khác cúng dường: Hoặc Phật hoặc tháp, khi muốn cúng dường chẳng riêng mình làm mà nhóm nhiều người hòa hợp cùng làm. Nhiều người như là cha mẹ, vợ con, tôn thân quyết thuộc, tôi trai tớ gái, hoặc vua hoặc quan, đạo sĩ, trưởng giả, những người láng giềng, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui, bực thầy hòa thượng, bạn lữ đồng hành, đồng thầy, đồng pháp, cùng ở, cùng nước, cùng tên.v.v...cho đến những kẻ tà kiến, hạng chiên đà la. Đây mệnh danh người khác cúng dường.

-Lại nữa, người khác cúng dường là: Hoặc Đại Bồ Tát giàu có của cải và được tự do, vì lòng Từ bi Bố thí chúng sanh. Ngay lúc đem thí lập nguyện như vầy: “Chúng sanh nghèo khổ phước đức sút kém. Nay nhận thí rồi tôi sẽ khuyên họ cúng dường Tam bảo, bởi do nhân duyên cúng dường Tam bảo mà phá quả báo khốn khổ nghèo nàn, được nhiều phước đức”. Lập nguyện này rồi ban cho chúng sanh, bố thí chúng sanh rồi, khiến họ cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo. Đây gọi là người khác cúng dường.

7.Cúng dường lợi ích: Đối với đức Phật hoặc tháp miếu Phật, Bồ Tát dâng cúng y phục, thức ăn, thức uống, mềm nệm, thuốc men, phòng nhà.v.v. cung kính lễ lạy, lại dùng các thứ hoa tạp, hương se, hương bột, hương đốt, âm nhạc, phang lọng, đèn sáng.v.v. dùng đó cúng dường. Hoặc khen công đức vô lượng của Phật, năm vóc sát đất, đi nhiễu ba vòng đến vô lượng vòng, thêm nữa là đem dâng hiến vàng bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, vòng chuỗi nơi thân, những đồ chuông khánh, cho đến đồng tiền hay một sợi chỉ hoặc một hạt lúa….Đây gọi là cúng dường lợi ích.

8.Cúng dường tối thắng: Bồ Tát đối với đức Phật, có bao nhiêu sự bày biện cúng dường, cúng dường lợi ích, cúng dường thường hằng, cúng dường vật tốt, hiện gặp cúng dường, chẳng hiện gặp cúng dường, tự mình cúng dường, người khác cúng dường, hết lòng nhẫn nại ưa thích cúng dường, dốc lòng cúng dường, vui lòng cúng dường Tam bảo.v.v… Bao nhiêu sự việc cúng dường như vậy, đều dùng hồi hướng Vô thượng Bồ Đề. Đây mệnh danh cúng dường Tối thắng.

9.Cúng dường thanh tịnh: Bồ Tát đối với Phật và tháp Phật, hoặc tự tay cúng dường với tâm trân trọng, chẳng phải bởi tâm kiêu mạn khi dễ, khiến kẻ giúp việc không lộ phóng túng. Siêng lòng tinh tấn, dốc lòng tinh tấn, chẳng vì vua chúa sanh kính tin mình, chẳng phải để được vua quan, trưởng giả, cư sĩ cúng dường mình, chẳng phải để tự nêu công đức mình mà cúng dường Phật hay tháp của Phật. Chẳng dùng những chất kê-tử, la-sai, a-giao, dầu, sữa, trộn lộn với đất để tạo tượng Phật, chẳng xông a-giao để cúng dường Phật, hoa Phả Ca cũng không đem dâng cúng. Tóm lại những hoa có mùi hôi hám, dầu có vẻ đẹp cũng chẳng cúng dường. Lìa những uế tạp như trên gọi là cúng dường thanh tịnh.

10.Thọ trì cúng dường: Bồ Tát đối với Phật hoặc tháp Phật, tự xuất tiền của hoặc xin nơi người, tạo lập hình tượng hoặc tạo lập tháp, một tháp, hai tháp, cho đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng bảo tháp, nơi mỗi mỗi tượng trong mỗi mỗi tháp lễ lạy cung kính, dùng hương hoa quý, kỹ nhạc đèn sáng, chuỗi hạt, tràng phang, bảo cái cúng dường tượng tháp.v.v.

Mặc dầu như thế nhưng cũng không đem nhân duyên sự cúng dường này mà cầu Vô thượng Bồ đề.

Tại sao vậy?

-Vì Đại Bồ Tát đã trụ vào bực không còn thoái chuyển. Đại Bồ Tát trụ Bất thoái địa rồi, đối với quốc độ của các đức Phật, Đại Bồ Tát này thọ thân vô ngại.

Đại Bồ Tát chẳng tự xuất của cải, chẳng tìm của cải ở nơi người khác, mà lập nguyện rằng: “Nếu các chúng sanh trên cõi Diêm Phù có thể cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo, hoặc các chúng sanh bốn châu thiên hạ, cho đến toàn cõi Đại thiên thế giới, rộng ra cho đến chúng sanh mười phương vô lượng vô biên thế giới…Tất cả số ấy dùng sự cúng dường bực hạ, bực trung hay cúng bực thượng mà cúng dường Tam bảo, tôi sẽ hết lòng tùy hỷ công đức theo sự hoan hỷ phát tâm như thế”.

Bồ Tát lại nguyện: “Xin đem nhân duyên sự tùy hỷ này khiến cho chúng sanh đều được thành tựu Vô thượng Bồ Đề”.

Đây mệnh danh Bồ Tát trang nghiêm Vô thượng Bồ Đề, còn gọi là Như Pháp cúng dường.

Đại Bồ Tát tu tập lòng Từ một cách nhanh chóng, nhanh như thời gian con trâu kêu rống. Tu tập tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả lại cũng như vậy.

Bồ Tát quán sát tất cả các pháp hữu vi vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Quán sát sâu xa công đức vi diệu của Đại Niết Bàn, nghĩ về đức Phật, nghĩ Pháp, nghĩ Tăng, nghĩ về bố thí, Trì giới và các Thiền định, cho đến sâu vào pháp giới tánh, chẳng thấy một phần tướng vi tế nào có thể tuyên nói, dốc lòng hướng đến thực hành sáu độ (sáu ba la mật) dùng bốn nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh, gọi là Như pháp cúng dường.

Nếu tỳ kheo nào luôn luôn hoan hỷ cúng dường cung kính tháp miếu vàng, bạc, tượng Phật bằng vàng, tượng Phật bằng bạc hay tháp tượng bằng pha lê, chơn châu, xa cừ mã não, bích ngọc san hô, còn đối với các tháp Phật, tượng Phật bằng đất, bằng gỗ mà chẳng cúng dường cung kính, hoặc gặp mà chẳng vui mừng ưa thích nên biết người đó chẳng được gọi Như pháp cúng dường. Nếu đúng như pháp làm việc cúng dường. Đó gọi là sự cúng dường vô thượng, cúng dường vô thắng, cúng dường tối thượng. Cúng dường như vậy trên hết tất cả mọi sự cúng dường, có thể đạt được quả báo vô lượng, quả báo không gì hơn.

Đại Bồ Tát vì sáu điều mà cúng dường Tam Bảo. Những gì là sáu?

-Vì làm ruộng phước không gì hơn.

-Vì biết ơn, báo ơn.

-Vì hơn tất cả chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân.

-Vì khó được gặp như hoa Ưu đàm.

-Vì không thầy Hòa thượng, tự nhiên mà được Vô thượng chánh giác.

-Vì luôn luôn làm cho chúng sanh được cái nhân của sự vui thế, xuất thế gian.

Sáu điều như trên là đối với Phật bảo, đối với Pháp bảo, Tăng bảo cũng vậy.

Khi Bồ Tát muốn thọ giới Bồ Tát, nên quan sát bực thầy Hòa thượng, nếu người có đủ tám điều sau đây mới theo thọ giới.

1.Đầy đủ giới Ưu bà tắc, đủ giới sa di, đủ giới Tỳ Kheo.

2.Luôn luôn rất mực cúng dường Tam bảo.

3.Khéo xét tướng mạo của kẻ trì giới hoặc kẻ hủy giới.

4.Được pháp Chỉ, pháp Quán.

5.Lòng Từ thương xót tất cả.

6.Hay xả bỏ những sở thích của mình để cấp cho người.

7.Không tâm sợ sệt.

8.Chẳng nói sai phép, chẳng nghe trái phép. Người nói trái phép thì quở trách can dụ, có thể nhẫn chịu tất cả khổ vì bị chọc pháp đánh mắng, nhiễu hại. Ở chỗ những người nhiều tham giận, se me, huỷ cấm, biếng lười mà vẫn vì họ nói pháp giáo hóa không hề mỏi mệt, giải nghĩa không lầm, nói năng không lộn, mở lời mềm mỏng không bị sơ xuất, thường nghĩ đến người, muốn sao cho họ được niềm an vui, có nghi liền thưa thỉnh, chẳng lấy làm xấu hổ, khéo biết phương tiện dạy bảo chúng sanh. Đối với mọi người luôn luôn bình đẳng không phân sang hèn. Sáu căn đầy đủ, oai nghi chững chạc, chẳng tin lời nói dèm pha của người, giữ gìn tế hạnh, chẳng tự cống cao khinh miệt người khác, chẳng vì lợi dưỡng bề ngoài hiện cách nịnh hót quanh co, bỏ tánh tham lam, đố kỵ sẻn lận, nếu tự được lợi, trước nghĩ đến người, tâm thường chuyên nhất, không hề phóng túng, thấy người lợi ích vui như chính mình, luôn luôn giữ hạnh thiểu dục, tri túc, chỉ chứa sáu vật, ngoài sáu món ra, được món gì khác liền đem bố thí. Thường khuyên nhủ người theo chỗ phạm lỗi mà nên phát lộ, chỉ cách nhớ nghĩ để biết sửa đổi, đúng pháp sám hối, hay chăm sóc người mắc bệnh khổ, không nói lỗi phải của tạng Thanh Văn hay tạng pháp Bồ Tát…

Nếu có đầy đủ những điều như thế, quả thật là bực Hòa thượng.

Khi Đại Bồ Tát đã thọ giới rồi, nếu Hòa thượng bệnh, tự mình làm kẻ sai bảo cung cấp. Nếu người không bệnh, phải theo mọi người chỉ dạy mà làm, nên sanh cung kính, tôn trọng đưa trước, ân cần lễ lạy, đứng hầu đôi bên, dâng đưa y bát, món ăn thức uống, mền gối, thuốc men và thuận theo những pháp ngữ khai thị, theo pháp thực hành không nên thay đổi. Tùy chỗ phạm tội mà thành thực tỏ bày. Nếu như nghe pháp, tâm tưởng là Phật, tưởng Pháp, tưởng tỳ kheo tăng, tưởng khó gặp gỡ, tưởng như mắt sáng, tưởng nhân Đại trí, tưởng đại sáng suốt, tưởng được quả lớn, tưởng cái nhơn Đại Niết Bàn, nhân vô thượng đạo, tưởng được Thường, Lạc, tưởng được pháp xa ma tha Tỳ bát xá na…Tưởng như vậy chơn thật tưởng pháp. Đây gọi là công đức đầy đủ của sự nghe pháp.

Lại nữa, trong khi nghe pháp nên hết lòng nghe, nên tin tưởng nghe, chẳng nên nghĩ rằng: “Nay tôi chẳng nên theo người phá giới, người này giống họ thấp thỏi kém hèn, các căn không đủ, nói không đúng giọng, cách người thô tệ.. !” Phải lìa hết những ý nghĩ như vậy mà dốc lòng nghe pháp.

Đại Bồ Tát thọ Bồ Tát giới gồm có hai hạng. Hạng Trí, Hạng ngu. Nếu khởi quan niệm và nghĩ như trên, gọi là ngu si, chẳng thêm pháp lành và chẳng được đại trí.

 

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Bồ Tát tu bốn vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn vô lượng tâm này, mỗi vô lượng tâm đều có ba duyên:

Một là. Chúng sanh duyên.

Hai là. Pháp duyên.

Ba là. Vô duyên.

-Chúng sanh duyên là: Đại Bồ Tát tu tập lòng Từ, xét rõ ba nhóm chúng sanh. Một là chịu vui. Hai là chịu khổ. Ba là chẳng khổ chẳng vui.

Đại Bồ Tát tu tập lòng Từ, quán sát chúng sanh hiện đang thọ vui làm cho tăng trưởng. Quán sát chúng sanh hiện đang chịu khổ, dứt khổ sanh vui. Quán sát chúng sanh chẳng khổ chẳng vui mà dứt khổ vui, làm cho đại Niết Bàn. Đây gọi là Chúng sanh duyên.

-Pháp duyên nghĩa là: Đại Bồ Tát chỉ quán pháp tướng, mà chẳng quán tướng (ba nhóm) chúng sanh “Nếu tôi tu tập lòng Từ mà không chúng sanh thì ai lìa khổ, ai được thọ vui?” Như thế gọi là Pháp duyên từ.

-Vô duyên từ: Bỏ tướng chúng sanh và tướng các pháp để tăng trưởng lòng Từ. Như vậy gọi là Vô duyên Đại từ.

Như cách quán về tâm Từ, ngoài ra ba vô lượng tâm Bi, Hỷ, Xả cũng đồng như vậy.

Đại Bồ Tát nếu nhơn chúng sanh duyên tu vô lượng tâm, nên biết tâm ấy không khác ngoại đạo, cũng là đồng một thứ tâm với bực Thanh Văn, Duyên Giác. Bốn vô lượng tâm của Đại Bồ Tát hiệp chung với nhau chính là tâm Bi, vì vậy Bồ Tát được gọi Đại Bi.

Bồ Tát quán sát chúng sanh chịu khổ, tổng quát gồm có một trăm mười thứ, vì muốn trừ diệt các thứ khổ ấy mà tu Đại Bi.

Những gì là một trăm mười thứ?

-Một là khổ: Khổ sanh ra đời.

-Hai thứ khổ: Khổ cầu không được. Cầu được rồi mất.

-Ba thứ khổ: Khổ khổ. Hoại khổ, Hành khổ.

-Bốn thứ khổ: Khổ vì ân ái chia lìa. Khổ vì oán ghét sum họp. Khổ vì sự chết. Khổ vì năm ấm chẳng diệt.

-Năm thứ khổ: Khổ vì nhân duyên tham dục. Khổ vì nhân duyên giận dối. Khổ vì nhân duyên ngủ nghĩ. Khổ vì nhân duyên bứt rứt. Khổ vì nhân duyên nghi ngờ.

-Sáu thứ khổ: Khổ vì cái nhân ác đạo. Khổ vì quả báo ác đạo. Khổ vì mong cầu nhiều thứ. Khổ vì bảo thủ giữ gìn. Khổ vì được không biết chán. Khổ vì mất mát.

-Bảy thứ khổ: Khổ bị sanh ra. Khổ vì già cả. Khổ vì bệnh hoạn. Khổ vì chết chóc. Khổ vì yêu thương chia lìa. Khổ vì oán thù gặp gỡ. Khổ vì mong cầu chẳng toại.

-Tám thứ khổ: Khổ vì lạnh lẽo. Khổ vì nóng bức. Khổ vì đói lòng. Khổ vì khát uống. Khổ vì không được Tự Do. Khổ vì mình làm (như Ni kiền Tử). Khổ vì người khác làm (như việc vua quan). Khổ vì oai nghi lâu đời.

-Chín thứ khổ: Khổ vì thân phận nghèo nàn. Khổ vì người khác nghèo nàn. Khổ vì người thân bị mất. Khổ vì của cải bị mất. Khổ vì bệnh hoạn. Khổ vì phá giới. Khổ vì nhận thức tà vạy. Khổ đời hiện tại. Khổ nơi đời khác.

-Mười thứ khổ: Khổ có thức ăn mà không đồ đạc. Khổ vì không có xe cộ đi lại. Khổ tìm hoa hương chẳng được. Khổ vì tìm đồ trang sức chẳng được. Khổ vì tìm đèn, ánh sáng chẳng được. Khổ vì tìm người sai khiến chẳng được. Khổ vì tìm thức ăn uống chẳng được. Khổ vì tìm cầu y phục chẳng được. Khổ vì được mà không dùng. Khổ vì thấy người đến xin.

(Trên đây là năm mươi lăm thứ khổ)

Lại có chín thứ khổ nữa:

-Tất cả khổ.

-Khổ lớn lao.

-Tất cả tự khổ.

-Khổ không như pháp trụ.

-Khổ xoay chuyển.

-Khổ chẳng tự tại.

-Khổ bị làm hại.

-Khổ bị đuổi theo.

-Khổ trong tất cả hạnh.

Tất cả khổ: Do nhân thuở trước bị quả hiện tại.

Khổ lớn lao: Như các chúng sanh trong vô lượng đời chịu khổ địa ngục.

Tất cả tự khổ: Như khổ địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ. Sự khổ cõi người. Sự khổ cõi trời. (5 điều).

Khổ không như pháp trụ: Ăn ở không đúng.

Như lập mưu định kế muốn toan hại người. Sự việc chẳng thành trở lại mang họa. Tham ăn, tham uống sau đó chịu khổ. Khổ vì nghĩ đến tham dục, giận dỗi, si mê, như do tạo nghiệp ác mà thân, miệng, ý chịu khổ, như pháp giới cấm chịu sự lo khổ (8 điều).

Khổ xoay chuyển: Như hiện tại là vua, chuyển sang đời khác trở thành nô bộc. Hiện tại là cha mẹ anh em, vợ con, đời khác bèn là oán thù gặp gỡ. Hiện tại giàu to, chuyển sang đời khác chịu khổ nghèo nàn. (5 điều).

Khổ không được tự tại: Như muốn được sống lâu, muốn được đàng hoàng. Muốn được giòng họ cao cả. Muốn được giàu sang. Muốn được sức mạnh. Muốn được trí tuệ. Muốn trừ oán địch…nhưng khổ sở vì không được như ý (7điều).

Khổ bị hại: Như người trong đời cầu mong phá bỏ hoàn cảnh nghèo nàn nhưng khổ sở vì không thể phá bỏ. Những người xuất gia mong phá phiền não nhưng khổ sở vì không phá hoại nổi (2 điều).

Khổ bị đuổi theo: Như khổ vì những sự việc gian nan. Khổ vì chiến tranh phát khởi. Khổ vì đường xá xa xôi. Khổ vì tay chân bị đứt. Khổ bị giam nhốt đánh trói. Khổ bị xua đuồi khỏi nước (6 điều).

Khổ trong tất cả hành động: Khổ vì gieo nhân đau khổ. Khổ vì dứt lìa sự vui. Khổ vì chưa đoạn hết tất cả thọ. Khổ vì chẳng thể xuất gia. Khổ vì không thể vắng lặng. Khổ vì chẳng được Bồ Đề. Khổ vì sanh nhiều tư lự. Khổ vì còn là phàm phu. Khổ vì tấm thân tứ đại. Khổ vì còn trong ba cõi. Khổ vì vô minh phiền não (11 điều).

Trên đây gọi là một trăm mười nỗi khổ (1) Bồ Tát quán sát những khổ như thế mà tăng trưởng tâm Đại Bi.

Tất cả những nỗi khổ này được nuôi lớn là bởi mười tám thứ:

1.Khổ ngu si.

2.Khổ chịu quả báo.

3.Khổ vì sự chi phối không ngừng.

4.Khổ thường hằng.

5.Khổ sinh sống.

6.Khổ tự làm.

7.Khổ người khác tạo.

8.Khổ vì phá giới.

9.Khổ vì tà kiến.

10.Khổ đời quá khứ.

11.Khổ thái quá.

12.Khổ địa ngục.

13.Khổ cõi Trời.

14.Khổ luân chuyển.

15.Khổ vì thọ nhận.

16.Khổ vì chẳng hay chẳng biết.

17.Sự khổ càng lúc càng tăng.

18.Khổ vì biếng nhát.

Bồ Tát thường lấy nhân duyên bốn điều dùng để quan sát, gọi là Đại Bi.

-Quán sát kỹ càng nhân duyên chịu khổ của khắp chúng sanh rất là sâu xa khó hiểu khó biết.

-Tu tập bi tâm vô lượng đời.

-Hết lòng tu tập.

-Bởi hết lòng tu tập, cho nên vì chúng sanh mà không tiếc thân mạng.

Do những nhân duyên của bốn điều này. Bồ Tát có thể vì khắp chúng sanh mà chịu nhọc nhằn, khiêm tốn nhún nhường, nhẫn nại chịu khổ, chịu khổ của thân, vì thế Bồ Tát được mệnh danh là Đại Bi thanh tịnh, Đại Bi thanh tịnh gọi là Như Lai địa.

Đại Bồ Tát quán sát một trăm mười điều như trên, tất cả Bồ Tát thảy đều tu tập. Vì khắp chúng sanh, Bồ Tát tăng trưởng thâm tâm Đại Bi, Bồ Tát luôn luôn quán sát chúng sanh, do tướng các pháp mà sanh tâm Đại Bi. Nếu chẳng thể quán tưởng Vô Duyên Từ để sanh khởi Đại Bi, tâm chẳng được gọi là Đại Bi.

Như Lai luôn luôn đầy đủ ba duyên: Chúng sanh Duyên Từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ cho nên gọi là Đại Bi.

Bồ Tát vì tu tập Đại Bi cho nên được thân vắng lặng, tâm vắng lặng. Bởi nhân duyên thân, tâm vắng lặng này mà có thể phá bao nhiêu phiền não của các chúng sanh, trụ bực Tịnh địa, Pháp Vương tử Địa, thương xót chúng sanh dường như con ruột. Bởi duyên Đại Bi cho nên Bồ Tát vì các chúng sanh siêng tu khổ hạnh tâm không thoái lui.

Như nói đạo quả của bực Thanh Văn, một khi chứng được bốn Chơn đế rồi là cảm nhận được niềm vui vô lậu. Bồ Tát tu tập Bi tâm chỉ vì chúng sanh, chẳng vì tự thân.

Tu nhân duyên Bi tâm, Bồ Tát chẳng tiếc của cải bên ngoài cho đến thân mạng bên trong.

Tu nhân duyên Bi tâm, Bồ Tát bỏ thân, chịu thân, trọn không hủy mất giới cấm của Như Lai, chánh định khó chứng có thể chứng được, trí tuệ khó được có thể đạt được, vì vậy trong kinh Như Lai từng nói:

“Vô thượng Bồ Đề của Đại Bồ Tát trụ tại nơi nào? -Phải nói là trụ nơi tâm Đại Bi”

Bồ Tát tu tập tâm vô lượng này được vui hiện tại, có thể làm cho chúng sanh lìa khổ, chứa nhóm vô lượng công đức cao tột và làm trang nghiêm Vô thượng Bồ Đề.

--------------------

Chú Thích:

(1) Một trăm mười nỗi khổ:

110 cái khổ này là nói tổng quát tất cả nỗi khổ được trình bày từ trước tới sau.

Từ số mục một nỗi khổ, hai nỗi khổ cho đến 10 nỗi khổ, cộng tất cả 55 sự khổ.

Từ 9 cái khổ sau, mỗi số mục lại có các sự khổ, cộng chung thành 46 nỗi khổ lại cộng chung 9 cái khổ đầu thành 55 khổ.

Trước 55 cái và sau 55 tổng quát thành 110 khổ.

« Xem chương trước « » Xem chương tiếp theo »
Về mục lục Kinh Bồ Tát Thiện Giới