Kinh Bồ Tát Thiện Giới
Phẩm thứ ba…Phát tâm Bồ đề

Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm, lập chánh nguyện lớn, nói lời như sau:

"Khi tôi chứng được Vô thượng Bồ Đề, sẽ làm cho tất cả chúng sanh được lợi ích lớn”.

Phải nên đặt để tất cả chúng sanh nơi Đại Niết Bàn. Lại phải giáo hóa tất cả chúng sanh, làm cho tất cả đều được trí tuệ rộng lớn. Đây chính là tự lợi, lợi tha. Vì vậy khi mới phát tâm Bồ Đề, được gọi là nhân duyên Bồ Đề, nhân duyên chúng sanh, nhân duyên nghĩa chánh, nhân duyên ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhiếp lấy tất cả pháp lành căn bản. Bởi thế Bồ Tát được gọi là Thiện, Đại Thiện, là Thật, Chơn thật, cũng gọi là rễ lành của tất cả chúng sanh, có thể phá ba nghiệp ác nơi thân, miệng, ý.

Trong thế gian, tất cả những người có thệ nguyện thế hoặc xuất thế, không ai có thể hơn Vô thượng Bồ Đề. Sự thệ nguyện của Bồ Tát cũng vậy, là vô thắng, vô thượng.

Đại Bồ Tát mới phát ba tâm Bồ Đề (1) gồm có năm sự: Một là Tánh. Hai là Hạnh. Ba là Cảnh giới. Bốn là Công đức. Năm là Tăng thêm.

Nếu Bồ Tát luôn luôn phát tâm Bồ Đề, được mệnh danh là Đại Bồ Tát tu hạnh Đại thừa, chắc chắn được Vô thượng Bồ Đề. Thế nên mới Phát tâm Bồ Đề là có thể nhiếp lấy tất cả pháp lành.

Đại Bồ Tát phát tâm Bồ đề, tùy công hạnh mà lần lượt được Vô thượng Bồ Đề, nếu chẳng phát tâm, rốt cuộc chẳng thể nào được. Vì vậy sự phát tâm là căn bản của Vô thượng Bồ Đề.

Đại Bồ Tát thấy chúng sanh đau khổ, sanh tâm thương xót, vì vậy Bồ Tát nhơn lòng Từ Bi mà phát tâm Bồ Đề, do tâm Bồ Đề tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, do tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo được Vô thượng Bồ Đề, bởi thế sự phát tâm gọi là CHI. Phát tâm Bồ Đề cho nên thực hành giới Bồ Tát, vì vậy sự phát tâm là CHI của giới Bồ Tát. Sự phát tâm là gốc, là nhân, là nhiếp, là quả, cũng gọi là giống.

Bồ Tát phát tâm có hai hạng: Một là rốt ráo. Hai là chẳng rốt ráo.

Rốt ráo là không hề thoái thất, mãi cho đến lúc chứng quả Vô thượng Bồ Đề.

Chẳng rốt ráo là có sự thoái thất. Thoái thất lại có hai: 1. Rốt ráo thoái. 2. Rốt ráo chẳng thoái.

Rốt ráo thoái là: Kết cuộc chẳng phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chẳng thể suy tầm tu tập pháp này. Chẳng rốt ráo thoái là: Mong cầu tâm Bồ Đề và tu tập pháp này.

Tâm Bồ Đề đây có bốn thứ nhân. Thế nào là bốn?

1. Kẻ thiện nam, người thiện nữ được thấy hoặc nghe các đức Phật và các Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ liền sanh tâm kính trọng, tin tưởng, nghĩ như thế này: "Việc của chư Phật, Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn. Nếu sự việc chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ Tát là có thể được, tôi cũng nên phát tâm Vô thượng Bồ Đề”. Do tư duy như vậy cho nên dốc lòng nghĩ về Bồ Đề và phát tâm Bồ Đề.

2. Có kẻ chẳng thấy sự việc không thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ Tát, mà chỉ nghe nói đến tạng pháp bí yếu của Phật, Bồ Tát. Nghe rồi tâm sanh kính trọng, tin tưởng. Được tín tâm nên làm nhân cho Vô thượng Bồ Đề, làm nhân cho Đại trí, cho nên phát tâm Bồ Đề.

3. Lại có người không thấy sự việc chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát, cũng chẳng được nghe pháp, nhưng gặp hồi chánh pháp hoại diệt, bèn tự nghĩ như vầy: "Phật pháp cao sâu vô thượng có thể diệt trừ vô lượng nỗi khổ của chúng sanh, làm lợi ích rất lớn, chỉ có chư Bồ Tát mới có thể làm cho giáo pháp của Phật trụ lâu nơi đời, chẳng bị hoại diệt, nay tôi cũng nên phát tâm Bồ Đề, làm cho chúng sanh xa lìa phiền não, lìa những khổ lớn”. Đây do ủng hộ Phật pháp trụ lâu nơi đời mà phát tâm Bồ Đề.

4. Lại có người chẳng gặp lúc Phật pháp bị hoại diệt, chỉ thấy chúng sanh trong đời ác trược đủ tất cả phiền não sâu nặng như tham, giận, si mê, không hổ, không thẹn, bỏn sẻn, ganh tỵ, lo rầu, khổ sở, bất tín, biếng lười v.v… Thấy những điều ấy rồi bèn tự nghĩ: "Thời buổi cực ác, chúng sanh đại ác, chẳng siêng tu tạo điều lành, thời đại ác trược thế này, chúng sanh còn chẳng thể phát tâm nhị thừa, huống gì phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Nay tôi nên phát tâm Bồ Đề, phát tâm này rồi sẽ dạy dỗ chúng sanh khiến họ cũng phát tâm Vô thượng Bồ Đề”. Thế nên Bồ Tát ở thời đại ác, chúng sanh tệ ác mà phát tâm Bồ Đề.

Lại nữa, có bốn nhân phát tâm Bồ Đề. Những gì là bốn?

Một là: Tánh đầy đủ.

Hai là: Bạn lành đầy đủ.

Ba là: Lòng Từ đầy đủ.

Bốn là: Xem khổ sống chết, Thánh hạnh đầy đủ, chẳng sợ những hạnh khổ khó làm.

1. Tánh đầy đủ: Tánh Bồ Tát vốn tự đầy đủ.

2. Bạn lành đầy đủ: Gồm có bốn điều:

- Sáu căn đầy đủ, đủ trí huệ lớn, có thể chỉ bày đường lành, nẻo dữ, chẳng thực hành đạo tà.

- Tâm không buông lung, hay phá bỏ tánh tình buông lung, có thể đóng cửa ác đạo.

- Tự mình đầy đủ giới cấm Bồ Tát và xoay vần theo giáo hóa người.

- Chẳng đem đường lối thấp thỏi xoay chuyển đường lối cao vời của người, chẳng đem tiểu thừa xoay chuyển người tu Đại thừa, chẳng dùng lối tu phước lay chuyển người đang tu huệ. Đây gọi là bạn lành đầy đủ.

3. Lòng Từ đầy đủ: có bốn:

- Thế giới nào có những nơi khổ não, hoặc thế giới không khổ não và nơi khổ não. Bồ Tát phát nguyện sanh qua nơi đó. Hoặc thấy người chịu khổ hay tự mình chịu khổ, vì phá khổ ấy mà phát sanh lòng Từ.

- Sanh vào địa ngục, chứng kiến những cảnh chúng sanh chịu khổ, vì phá khổ ấy mà phát sanh lòng Từ.

- Sanh vào ngạ quỷ, thấy cảnh chúng sanh chịu khổ hay tự mình chịu khổ, vì muốn phá khổ ấy mà phát sanh lòng Từ.

- Sanh vào loài súc sinh, thấy chúng sanh chịu khổ hay tự mình chịu khổ cũng sanh lòng Từ để phá khổ ấy.

- Lòng Từ đầy đủ lại có ba bực: Thượng, Trung, Hạ.

Bực thượng có bốn điều:

- Quán khổ sống chết.

- Tu tâm Từ Bi không có trước sau.

- Tâm tánh dõng kiện.

- Được tâm sáng suốt

Bực trung có bốn điều:

- Chẳng buông lung.

- Đầy đủ giới.

- Hay nhẫn nhục.

- Dốc lòng nhớ nghĩ về Vô thượng Bồ Tát.

Bực hạ lại có bốn điều:

- Xem chúng sanh như con một.

- Không khởi phân biệt với kẻ oán người thân.

- Được tâm tin tưởng chắc chắn.

- Tu hành hạnh Thánh.

Tu tập lòng Từ có bốn năng lực:

- Năng lực bên trong.

- Năng lực bên ngoài.

- Năng lực sở nhân.

- Năng lực trang nghiêm.

Đại Bồ Tát dốc lòng nhớ nghĩ về đạo Vô thượng Bồ Đề, gọi là năng lực bên trong.

Vì muốn hóa độ chúng sanh mà phát tâm Vô thượng Bồ Đề. Gọi là năng lượng bên ngoài.

Có thể ở trong Vô lượng A tăng kỳ kiếp tu tập khổ hạnh, vâng thờ chư Phật, Bồ Tát, gọi là năng lực sở nhân.

Đại Bồ Tát ưa gần gũi thiện trí thức nghe nhận chánh pháp, tư duy nghĩa lý, đúng theo giáo pháp tu tập, gọi là năng lực trang nghiêm.

Nếu Đại Bồ Tát dùng năng lực bên trong và năng lực sở nhân mà phát tâm Vô thượng Bồ Đề, đây gọi là chánh tâm, là tâm không động, là tâm không lui, tâm không thay đổi.

Nếu dùng năng lực bên ngoài và năng lực trang nghiêm mà phát tâm Bồ Đề, đó gọi là tâm không chánh, tâm bị động, tâm thoát lui, tâm thay đổi.

Bồ Tát đổi tâm có bốn nhân duyên: Một là: Tánh không đầy đủ. Hai là đầy dẫy bạn ác. Ba là chẳng đủ lòng Từ bi đối với chúng sanh. Bốn là chẳng luôn luôn quán sát mối lo ngại của sự khổ sống chết.

Đại Bồ Tát mới phát tâm Bồ Đề, có hai sự không thể nghĩ bàn: Một là: Đối với chúng sanh tưởng như bà con thân thích. Hai là: không tưởng chúng sanh.

Bồ Tát thường dùng trí tuệ quán sát: Cái gì là chúng sanh? Chúng sanh thuộc về gì? Như thế gọi là hai nhân. Hai tâm này có thể làm cho Bồ Tát không thoái chuyển.

Mới phát tâm Bồ Đề có hai tâm: Một là: Vì đem lại cho chúng sanh sự an ổn. Hai là: Vì đem lại cho chúng sanh sự vui sướng. Dùng các pháp lành giáo hóa chúng sanh khiến họ loại bỏ điều ác, gọi là an ổn. Hay đem tiền của cấp giúp, khiến chúng sanh lìa sự nghèo nàn, như cấp giúp quần áo, ăn uống, phòng nhà, mền nệm thuốc men. Thế gọi là sung sướng.

Bồ Tát không thoái chuyển, có hai tâm:

Một là: Tánh trang nghiêm. Hai là: Chuyên tâm thọ trì trang nghiêm.

-Thường suy nghĩ mong cho chúng sanh an vui, gọi là tánh trang nghiêm.

-Trọn không thoái chuyển tâm Bồ Đề, do đây hết lòng đem lại an vui cho tất cả chúng sanh, gọi là Thọ trì trang nghiêm.

Bồ Tát bất thoái sanh ra phước đức nhờ hai yếu tố: Một là tâm Bồ Đề. Hai là chúng sanh chịu khổ. Hai yếu tố trên đây là chỗ chứa nhóm các pháp lành lớn.

Mới phát tâm kiên cố, Bồ Tát lại có hai điều hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác. Một là: Nhân hơn. Hai là: Quả hơn.

Đại Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, tu tập pháp lành gọi là Nhân. Do thực hành các thiện pháp, chứng được Vô thượng Bồ Đề gọi là Quả. Nhân, Quả như thế hơn tất cả Thanh văn, Duyên giác.

Bồ Tát bất thoái có hai việc lớn. Một là: Phát tâm này rồi liền vì tất cả vô lượng chúng sanh mà làm ruộng phước. Được làm cha mẹ thầy dạy, Hòa thượng v.v…Bồ Tát sanh tâm xót thương rộng lớn. Do xót thương chúng sanh, cho nên khi đi đứng, ngồi, nằm, thức, ngủ, chư thiên bảo vệ như vua chuyển luân thường được năm trăm quỷ thần mặc y phục xanh bảo vệ. Bồ Tát bất thoái cũng vậy. Vì tâm thương xót chúng sanh, cho nên nếu có thọ thêm thân nữa cũng không bệnh ngặt. Hai là: Bồ Tát phát tâm thường được chúng sanh ưa thích, gặp gỡ, nhìn ngắm, như nhìn cha mẹ. Tất cả chúng sanh đối với những gì thuộc thân, miệng, ý của Bồ Tát, đều không nhận thấy có điều xấu ác.

Đại Bồ Tát phát tâm Bồ Đề không mất chánh niệm. Đối với chúng sanh, Bồ Tát không khởi tâm làm hại, chẳng ăn thịt, chẳng khi dối, thường dùng các pháp lành giáo hóa chúng sanh. Dầu chúng sanh không nhận, Bồ Tát cũng không bỏ phế sầu lo, luôn luôn tự chế ngự mình và kẻ khác, làm cho họ tươi nhuận sự nghiệp phước đức.

Nếu vì nhân duyên khách trần phiền não, đọa ba đường ác, Bồ Tát cũng mau ra khỏi. Dầu cũng chịu khổ như chúng sanh, vẫn không khởi tâm độc địa, thấy người chịu khổ sanh tâm thương xót.

Bồ Tát sơ phát Bồ Đề tâm, thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Chú thích:

(1) Phát ba tâm Bồ Đề: Luận Khởi Tín giải thích ba tâm Bồ đề là: 1- Trực tâm, chánh niệm pháp chơn như. 2- Thâm tâm: là Tín sâu lý nhơn quá, chi ác, tác thiện. 3- Đại bi tâm: lập nguyện cứu độ tất cả chúng sanh.

« Xem chương trước « » Xem chương tiếp theo »
Về mục lục Kinh Bồ Tát Thiện Giới