× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Chuyện tâm linh huyền bí » Á Châu huyền bí

Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi
Chương 19

Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi


Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường mình sẽ đi qua.

Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đã gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao thường lệ, người ấy nói:

- Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Chúa Trời các bạn ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mời các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.

Chúng tôi được cho biết rằng người ta phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng ấy để "Ăn hàng". Làng này cũng bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.

Các vị Chân Sư đã sở hữu ngôi đền này cho do dân làng chuyển nhượng lại để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quý vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các "Huynh đệ Thánh Thiện", đã xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siđhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siđhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đã có từ ba mươi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đã có từ bốn mươi lăm ngàn năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền là những bản chánh, vì nhiều tài liệu đã được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được giữ gìn an toàn. Còn những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đã có từ thời đại của Osiris và của châu Atlantide. Những khách viếng thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị Chân Sư đã có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.

Người khách lạ nói tiếp:

- Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là trong tư tưởng, do những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịnh đời của chúng ta đã được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công trình thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở lên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: "Làm sao được như vậy?" Chúng tôi đáp: "Các bạn hãy tự tìm ra những kết luận của mình, các bạn hãy chọn lựa cách sống riêng của mình."

Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:

- Chúng tôi ước mong được thấy và biết.

Người lạ mặt nói tiếp:

- Kể từ bây giờ, có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không biết, không hiểu ý nghĩa về mục đích cuộc sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.

Kế đóm người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:

- Các bạn đã bày tỏ ý muốn được thấy và được biết. Nhìn các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn luôn có mặt bên họ."

Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn mình trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đã từng có bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lý của đức Jesus, trong khoảng vài năm mà ngài xuất hiện ở thế gian, đã đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.

Người ta biết rằng đức Jesus đã từng thấu triệt mọi giáo lý, đã vượt qua nhiều cấp bậc Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đã đạt tới giáo lý của Osris. Những giáo lý này được chỉ dẫn cho ngài bởi một vị tư tế đã thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.

Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các vì vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đã từng được nâng lên một trình độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy trì giáo lý của Osris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đã xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đã đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đã đi xa những giáo lý của Osris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đã tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đã suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.

Sau khi đức Jesus đã chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lý Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của đức Jesus về giáo lý nhà Phật mà ngài đã thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đã giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lý. Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.

Sau khi đã nghiên cứu của giáo lý Phật giáo ở Ấn độ, đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về hình thức lễ và giáo điều do người đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế...

Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các vị siêu nhân đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc nãy lại nói tiếp:

- Không một nhân vật lịch sử nào có thể bì kịp với đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đã lầm. Đáng lý ra họ nên coi ngài như hiện thân của một lý tưởng, thay vì tôn thờ ngài như thần tượng. Thay vì khắc những hình tượng để thờ ngài, người ta nên coi ngài như một nhân vật đang sống, vì hiện nay ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đã từng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Ngài vẫn còn sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của ngài đã diễn ra trong thời gian khi ngài phục sinh. Ngày nay đức Jesus vẫn có thể dạy đạo và chữa bệnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn. Nếu các bạn tìm ngài, thì các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của ngài, mà là một người Anh cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi ngài còn sống trên cõi thế gian phàm tục, ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định. Còn dưới hình thể mà ngài khoác lấy hiện nay, ngài có thể tiếp xúc với tất cả với những người nào hướng về ngài. Phải chăng ngài đã nói rằng: "Bất cứ nơi nào có Ta, thì các người cũng có thể có mặt ở đó?" Câu này phải chăng có ý nghĩa là ngài ở một nơi rất xa, tận trên trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đã chết? Không, ngài vẫn ở tại cõi này, là nơi các bạn đang ở, ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn. Ta chỉ có thể cho ngài tự do hành động. Hãy nâng tầm mắt bạn nên cao hơn một chút, hãy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy ngài, miễn là tâm hồn và trí não bạn hướng đến ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và nói chuyện với ngài.

Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc mão gai, nay đã hoàn toàn lành hẳn. Tình Thương và niềm phúc lạc từ toàn thân ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả...

Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, chiếu khắp gian phòng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không rõ ràng. Sau khi giọng nói trở lên hoàn toàn rõ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân.

Một người trong chúng tôi hỏi:

- Ai nói đó?

Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:

- Hãy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, đức Jesus đó.

Một người trong bọn lại nói:

- Đúng rồi đức Jesus nói đấy.

Khi đó giọng nói tiếp tục:

- Khi tôi nói "Ta là Con Đường, là Chân Lý, là Sự Sống," tôi không có ý đem đến cho nhân loại cái ý nghĩ rằng chỉ có một mình tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất. Khi tôi nói: "Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra," tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đã nhìn thấy, hiểu rõ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của mìnnh. Người con ấy thấy rằng cuộc đời mình và những hành động của mình vốn phát sinh từ nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lý Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố mình là đấng Chirst, người con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đã tuyên bố. Luôn luôn giữ gìn cái lý tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của mình, và sau cùng đã đạt được cái mục đích mà người tìm kiếm.

Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi vì họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm màu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một tình bác ái vô biên khôn tả. Tôi không rút lui khỏi họ, mà chính họ đã rút lui khỏi tôi. Họ đã dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những hình tượng của tôi cùng những người thân của tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không còn biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi nữa. Người ta cầu nguyện và khẩn cầu đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đã làm hôm nay đây, thì họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đã làm. Các bạn nhìn thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!

Các người đã bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi cuối cùng phải thắng thế. Các người càng làm nhiều hình tượng bao nhiêu, thì các người lại làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, thì cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bất nhiêu. Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: "Tôi biết ông", thì chừng đó mỗi người đều có thể nhìn thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân chúng tôi, vì chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.

Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đã sống trong hình thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn còn tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không còn thay đổi.

Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: "Các người hãy đem y đi và hãy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh giá" tôi không cho rằng Phi Lát đã lầm lỗi. Y không hề biết gì về cái diễn biến lịch sử mà y đang dự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện. Y và những người chung quanh y đã đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc đã qua, đã được quên lãng và tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.

Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:

- Người anh em này đã cùng tôi đi suốt con đường Đạo. Còn người kia, y đã trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng như bằng một tình thương không kém.

Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus dạy lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: "Hỡi Phi Lát thân mến." Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ý của cả hai vị.

Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:

- Tôi đã đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đã nhẹ dạ gạ bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ vì họ muốn trốn tránh trách nhiệm của mình. Nhưng khi chúng ta đã thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi mình càng cố gắng tránh né bổn phận và tìm cách đặt gánh nặng của mình lên vai kẻ khác, thì cái gánh nặng ấy càng đè nặng trên vai mình. Tôi đã phải mất nhiều năm ray rứt đau khổmới nhìn thấy rõ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đã tỉnh ngộ!

Khi đó, khúc hợp ca vô tình trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. Sau vài điệu nhạc, đức Jesus tiến lên và nói:

- Các người có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đã tha thứ từ lâu cho những kẻ đã đóng đinh tôi trên Thánh giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy? Tại sao các người không nhìn thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những gì là trần gian tục lụy?

Khúc ca vô hình lại tiếp tục với câu hát:

"Xin ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi ngài là Con của Chúa Trời. Các người hãy nghiêng mình suy tôn ngài, nước Chúa đã được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vậy, ngài sẽ ở bên cạnh các ngài, mãi mãi... "

Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian phòng lúc ấy và chúng tôi đã nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đã bắt tay chào hỏi và đã chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đã hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đã vây quanh các vị. Sự khác biệt duy nhất giữa các vị và chúng tôi là các vị được bao phủ quanh mình bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp phòng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào thì nó giống như chất bạch ngọc (albâtre). Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chung quanh sự nhiệt thành và ấm áp của tình thương. Sau khi các vị đã ra đi, gian phòng dường như vẫn còn giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào phòng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:

- Gian phòng này thật là kỳ diệu.

Anh ta đã biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều gì nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian phòng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi phòng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người. Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống phòng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến nửa đêm.

Sau khi các vị quan khách đã ra về, chúng tôi tụ họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cảm ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:

- Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đã hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ còn thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!

Dường như bạn tôi đã thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói gì về những cảm nghĩ của mình và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về phòng riêng trong đêm đó với ý nghĩ rằng mình đã trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
Lượt xem: 1603