× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Luận

Duy thức học



PHẦN THỨ MƯỜI THỨC THỨ BẢY

ĐOẠN I

 

TƯỚNG NĂNG-BIẾN THỨ HAI

 

Hỏi :

 - Cái tướng năng-biến thứ hai thế nào ?

 

Đáp : (bài tụng).

 

1)      "Tướng năng-biến thứ hai, cái thức ấy gọi là mạt-na.”

2)      "Nương noi thức thứ tám chuyển, và duyên nơi thức đó.”

3)      "Tư-lương làm tính-tướng.”

4)      "Thường chung vói 4 phiền-não : ngã-si, nhã-kiến, ngã-mạn, ngã-ái.

 

  Ngoài ra, thức này còn tương-ưng với các tâm-sở, như: xúc, tác-ý v.v.

 

5)      Nhiếp về hữu-phú vô-ký.

6)      Buộc theo chỗ sở-sinh1.

7)      Khi chứng A-la-hán, hay vào diệt-tận-định, hay vào đạo xuất-thế thì không còn thức này.

 

ĐOẠN II

 

MẠT-NA : TƯ-LƯƠNG

 

  Sau năng-biến thức-dị-thục, nên nói về các năng-biến tư-lương.

 

  Cái thức đó, về thánh-giáo riêng nói tên là  "MẠT-NA”, HẰNG THAM TƯ-LƯƠNG hơn các thức khác.

  Các thánh-giáo e nó lạm với đệ-lục ý-thức nên đối với thức thứ bảy chỉ đặt tên là "Ý” .

 

 

 

 

 

 

 

(1) Sinh đâu có nó đấy

 

 

*

* *

 

ĐOẠN III

 

SỞ-Y

 

  Nương nơi chuyển là : cái chỗ sở-y1 ấy, tức là cái năng-biến thức đầu (A-lại-da) .

 

  Phật nói : - Cái thức đó nương noi tạng-thức.

 

  Thức thứ bảy có chỗ nương, đó là thức thứ tám. Nếu không tạng-thức, quyết-định chẳng (khởi) chuyển.

  Như bài kệ nói :

- A-lại-da làm chỗ nương nên có mạt-na chuyển. Nương các thức thứ tám và thứ bảy, các thức khác khởi.

  A-lại-da thức đều có sở-y, cũng chỉ một thứ đó là thức thứ bảy. Nếu không thức đó quyết định chẳng chuyển.

  Tạng-thức hằng với Mạt-na chung thời chuyển2. Tạng thức hằng nương Mạt-na.

 

ĐOẠN IV

 

SỞ-DUYÊN

 

Hỏi :

  Sở-duyên của thức này thế nào ?

Đáp :

  - Thánh-giáo nói thức đó duyên nơi tạng-thức.

  Cái ý ấy chỉ duyên với kiến-phần của tạng-thức. Tạng-thức từ vô-thuỷ đến nay, một loại nối luôn, in tuồng thuần nhất, hằng làm chỗ sở-y của các pháp.

 

  Thức thứ bảy chỉ chấp-thức thứ tám làm nội ngã của mình.

 

 

 

 

 

 

 

(1)     Bị nương

(2)     Hai thức nương nhau. Sáu thức trước nương hai thức này

 

 

 

 


 

 

ĐOẠN V

 

TU-LƯƠNG LÀM TÍNH-TƯỚNG

 

  Thức thứ bảy lấy tư-lương làm tính-các riêng. Cũng lấy tư-lương1 làm hành-tướng2.

  Thẩm3 tư-lương, nên gọi là Mạt-na.

  Khi còn là chúng-sinh, chưa chứng, và chưa chuyển-y, thức này hằng-thẩm-tư-lương chấp ngã tướng. Khi đã chứng, đã chuyển-y, cùng hằng thẩm-tư-lương vô-ngã-tướng.

 

 

 

 

BÌNH-LUẬN

 

  Đoạn này quan-hệ cho sự tu-học của ta.Thức thứ bảy luôn-luôn chấp-ngã. Nó luôn-luôn xét-nét, so-sánh.

  Khi chứng quả A-la-hán, ta mới thoát khỏi bị nó chấp-ngã.

  Vậy khi ta còn là chúng-sinh đây, thức này hoành hành ghê-gớm.Ta là nô-lệ cho nó.

  Nó là thù-địch của ta.

  Bao nhiêu tính-toán nhỏ-nhen, bao phân-biệt mình người, bao mánh-lới do lòng ích-kỷ súi-dục, đều do thức này.

 

  Vậy ai bảo : - Tôi không ích-kỹ, tôi không chấp có tôi.

 

  Người đó không hiểu duy-thức, không hiểu tâm-ý mình.

 

  Vậy ta phải tìm cách giải-thoát khỏi vòng nô-lệ của thức này.

 

  Phật dạy ta đối-trị với têm-bệnh nặng của ta.

 

  Phật-pháp dạy ta giải-thoát khỏi ngã-chấp và pháp-chấp.

 

 

 

 

 

 

 

 

(1)     Suy-nghĩ, đo lường.

(2)     Trạng-thái, hành-động.

(3)     Xét-nét

 

 

 


 

 

ĐOẠN VI

 

TƯƠNG-ƯNG VỚI TÂM-SỞ

 

  Hỏi :

  Ý với mấy tâm-sở tương-ưng.

 

  Đáp :

  Thường với 4 phiền-não chung có :

  Từ vô-thủy đến vị chưa chuyển-y, tức là khi còn là chúng-sinh, cái ý này xoay-vần thường dyuyên nơi tang-thức, với 4 căn-bản1 phiền-não tương-ưng.

  Đó là :

 

1)      NGÃ-SI : Vô-minh, mê nơi ngã-tướng và lý vô ngã.

2)      NGÃ-MẠN : Kiêu-ngạo. Ỷ cái chấp-ngã. Khiến nâng cao tâm lên.

3)      NGÃ-ÁI : Tham cái ngã. Đối với cái sở-chấp-ngã, rất sinh tham-đắm, và tỏ rằng mạn-ái chung cả kiến-mạn2.

4)      NGÃ-KIẾN : Ngã-chấp3. Đối với chẳng phải ngã-pháp4, hư-vọng chấp làm ngã.

 

  Bốn thứ này thương khởi, khuấy-đục dội-tâm, khiến chuyển-thức ngoài hằng thành tạp-nhiễm. Chúng hữu-tình do đó sinh-tử luân-hồi, không thể xuất-ly, nên gọi là phiên-não.

 

*

* *

 

  Về cái vị đã chuyển-y, chỉ với 21 tâm-sở chung khởi :

 

  Đó là :

 

1)      5 biến-hành

2)      5 biệt-cảnh.

3)      11 thiện.

 

  Như đệ-bát-thức, về cái vị đã chuyển-y, chỉ chung với xả-thụ, vì bởi xoay-vần chuyển. Hằn đối với cảnh sở-duyên bình-đẳng chuyển.

 

 

 

 

(1)      Gốc sinh các thứ khác

(2)      Kiêu về học-hỏi v.v…

(3)      Nắm lấy cái đó, thấy có ta.

(4)      A-lại-da không phải ngã, lại chấp là ngã.

 

 

 

BÌNH-LUẬN

 

   Đây là phần quan-trọng mà ta cần ghi-nhớ. Khi còn là chúng-sinh, tức là chưa vượt được sinh-tử luân-hồi, thức thứ bảy từ vô-thủy đến nay vẫn chung-khởi với bốn phiền-não căn-bản, đó là ngã-si, ngã-ái, ngã-mạn, ngã-kiến.

 

  Chỉ biết có mình, chỉ yêu có ta, kiêu-ngạo vì ta đẹp, ta hay, ta hơn người, chỉ thấy có mình.

  Đó là cái tật của chúng-sinh.

  Đó là cái tật của loài người.

  Đó là cái tật của chúng ta.

  Bệnh này rất nặng, nó ăn sâu, mọc rễ trong tâm-hôn ta từ bao kiếp, thành thói quen lâu đời.

 

  Nó làm ta mờ mắt, không thể khách-quan mà xét mình, xét người.

 

  Vì thế mà ta bị luân-hồi sinh-tử.

  Vì thế mà ta đau khổ.

  Vì thế mà ta không giải-thoát được, cứ bám chặt lấy thân, lấy cảnh, như con ốc bám vỏ ốc, con rùa bám mai rùa.Vì thế mà lòng ta thường bị quấy-đục.

  Các chuyển-thức như lục-thức đều bị tạp nhiễm, không trong-sạch được.

  Biết như  thế, ta không còn mờ-tối, ta sáng-suốt nhận lấy bệnh ta. Và nay tìm phương đối-trị, tìm phương giải-thoát chứ không bám-chấp nữa.

 

  Mỗi khi ngã-si, ngã-ái, ngã-mạn, ngã-kiến khởi lên, ta nhận thấy liền, và ta sáng suốt, không a-dua theo nữa.

 

  Khi đã tu-chứng, đã chuyển được thức thứ bảy, nó chỉ chung với 21 tâm-sở là 5 biến-hành, 5 biệt-cảnh, 11 thiện. Và chỉ chung với xả-thụ.

 

*

* *

 

  Ngoài 4 phiền-não trên, thức thứ bảy khi còn là chúng-sinh, cũng tương-ưng với 5 biến hành và các tùy phiền não v.v… Nhưng không thường khởi.

 

 

 

*

* *

 


 

ĐOẠN VII

 

NHIẾP VỀ HỮU-PHÚ, VÔ-KÝ

 

Hỏi :

   - Mạt-na tâm-sở nhiếp về tính gì ?

Đáp :

   - Nhiếp về hữu-phú vô-ký.

  Hữu-phú : Ý này tương-ưng vói 4 phiền-não, là nhiễm-pháp. Che mất  tự-tâm, chướng-ngại thánh đạo.

 

  Vô-ký : Chẳng phải thiện và bất-thiện.

 

 

ĐOẠN VIII

 

BUỘC THEO CHỖ SỞ-SINH

 

Hỏi :

  - Mạt-na bị buộc vễ chỗ nào ?

Đáp :

  Nó bị buộc theo những chỗ mình sinh ra1. Nếu sinh cõi dục, các tâm-sở tương-ưng với Mạt-na hiện-hành, liên buộc trong cõi dục.

 

  Xoay-vần hằng duyên tạng-thức, nắm làm nội-ngã, ngay chỗ mình sinh.

 

 

ĐOẠN IX

 

XẢ

 

Hỏi :

  - Cái ý nhiễm-ô ấy, vô-thủy nối luôn, vị nào dứt trọn, hoặc tạm-dứt ?

 

Đáp :

  - A-lại-hán, diệt-tận-định, xuất-thế-đạo không có.  

 

  Từ A-la-hán trở lên các cảnh-giới bồ-tát, chủng-tử và hiện-hành của ý nhiễm đều hoàn-toàn đoạn-diệt, nên nói không có.

 

 Về hữu-học diệt-tận-định và xuất-thế-đạo đều tạm-thời dẹp, chưa dứt, nên nói không có.

 

 

(1) Ví dụ, mình sinh cõi người hay cõi trời, nó bị buộc chặt với cõi đó

ĐOẠN X

 

SAO BIẾT THỨC NÀY CÓ ?

 

Hỏi :

  - Sao lại biết cái thức thứ bảy ấy, xa-lìa nhãn-thức v.v… có tự-thể riêng ?

 

Đáp :

  - Bởi vì thánh-giáo, chính-lý làm định-lượng.

  Trong các kinh, Phật có nói : "Tâm, Ý, Thức”, ba thứ khác nhau.

 

1)      Tâm : tập-khởi, tức là thức thứ tám nhóm chủng-tử các pháp, khởi ra các pháp.

2)      Ý : tu-lương, thức thứ bảy duyên tạng-thức v.v… hằng-thẩm-tư-lương làm ngã.

Thức : liễu-biệt, sáu thức liễu-biệt 6 biệt-cảnh thô động, gián-đoạn, chuyển.

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy