× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Luận

A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận



Quyển 5 -4


 


[1] Cđ. Thích luận q.4,tr.184c06, 阿 毘 達 磨 藏 

[2] Nguyên văn Hán: 此 復 未 了 何 法 名 壽. Cđ.Thích luận nt...c07,  此 非 可 知 此 壽 是 何 法.

[3]Ht. nguyên văn Hán, 壽  煖 及 與 識, 三 法  捨  身 時,所 捨 身 僵  仆,如 木 無 思 覺 。Cđ. Thích luận .4 (nt)... c07, 壽  煖 及 意 識, 此 三 捨 身 時, 所 捨 身 即 眠, 如 枯 木 無 思 。 Quang ký q.5,tr.101a 27, chết ngửa gọi là cương; chết sấp gọi là phó; chết nằm nghiêng cũng gọi là cương phó.

[4] Ht. q.5,tr.26b01, 故  有  別  法  能  持  煖  識  相  續  住  因  說  名  爲  壽  Cđ. Thích luận q.4,tr.184c10, 是 故 此 法 能 持 煖 及 識 為 相 續 住 因 說 名 為 壽 .

[5] Cđ. Thích luận q.4,tr.184c13, 若 執如 此 應 立 三 法  恒 起 無 謝。Quang ký q.5,tr.101b 05, nếu không có một pháp nào diệt trước thì cả ba pháp nầy thường còn, không mất. Bảo sớ q.5,tr.546a 05, đã nói rằng, ba pháp hỗ tương duy trì thì, không (thể nói) có pháp nào diệt trước, như vậy, lẽ ra phải thường còn, không mất.

[6] Quang ký q.5,tr.101b 08, đã vậy thì, thọ nầy nên do nghiệp duy trì, theo sự dẫn dắt của nghiệp mà tương tục (thân) chuyển biến  hoặc lâu dài hoặc ngắn ngủi. Cđ. Thích Luận q.4,tr.184c14, nghĩa nầy không phải vậy; thọ nầy lấy nghiệp làm pháp duy trì, theo như sự dẫn dắt của nghiệp, tương tục (thân) tuỳ theo đó mà sanh, trú. 

[7]Bảo sớ q.5,tr.546a 12, nếu tất cả các thức (luôn luôn) chỉ là dị thục thì có thể nói do nghiệp duy trì; trong khi đó, loài hữu tình hoặc khởi lên thiện tâm, hoặc khởi nhiễm tâm và ở các địa khác nhau, hoặc ở vô lậu, các loại thức xen nhau khởi lên, như vậy làm sao nói rằng do nghiệp duy trì. Quang ký q.5,tr.101b 14, chớ nên nói rằng tất cả các thức từ đầu đến cuối luôn luôn là dị thục, vì thức trong cả ba tính đan xen nhau khởi lên. (nghiệp thời có thiện có bất thiện nhưng quả dị thục luôn luôn là vô ký; trong khi đó thức thuộc quả dị thục mà không phải luôn luôn là vô ký thì nghiệp không thể duy trì thức được).

[8]Quang ký q.5,tr.101b 18, ở hai cõi Dục và Sắc có noãn thì mới có thể nói rằng, noãn duy trì thức; ở cõi Vô sắc không có noãn thì thức lẽ ra không có pháp nào duy trì nó.

[9] Cđ. Thích luận q.4,tr.184c 19, 君 不  可 隨 意 作,或 說 煖 為 識 持 或 說 業 為 識 持;汝 前 已 許。

[10]Cđ. Thích luận q.4,tr.184c 20, chấp nhận gì, 何 所 許?

[11] Cđ. Thích luận q.4,tr.184c22, tôi cũng nói, thọ không phải là không, chỉ nói chẳng phải là một thật thể riêng biệt, 我 亦 說 此 不 無旦 非 別 實 物。

[12]Cđ.  Thích luận q.4,tr184c22, 若 爾 汝 立 壽 是 何 法 是。

[13]Ht. Năng lực, 勢 分。Skt. āvedhaḥ, thế lực, 勢力。 Engl.:  Power, determination. 眾 同 分 勢 力。 Skt: Nikāyasabhāgasyāvedhaḥ.

[14] Cđ. Thích luận q.4,tr.184c 24, 此 聚同 分 速 疾 隨 宿 業 所 作, 謂 應 住 如 時 量 是 聚 同 分;得 如 此 時 住 說 名 為 壽。 Quang ký q.5,tr.101b 29, từ “do được dẫn dắt bởi nghiệp của ba cõi..” trở xuống nhằm hiển bày năng lực của chúng đồng phần tồn tại trong thời gian dài hay ngắn. Được dẫn dắt bởi nghiệp lực của ba cõi , năng lực trong thời gian tồn tại của chúng đồng phần chuyển biến tương tục, quyết định tương ứng tuỳ thuộc với một thời gian tồn tại, (tức là) tồn tại trong một thời gian như vậy, hoặc qua mười năm hoặc trăm năm, v.v... ; chính năng lực nầy tạm thời (giả) được nói là thọ... tr.101c08, (nêu câu hỏi đối với Kinh bộ) Nếu ở nơi đồng phần, giả lập mạng căn, tại sao Chánh lý q.13 nói về nghĩa của Kinh bộ rằng, được dẫn dắt bởi nghiệp, năng lực trong thời gian tồn tại của sáu xứ và y tương tục không gián đoạn, chắc chắn tương ứng tuỳ thuộc với một thời gian tồn tại, tồn tại trong thời gian như vậy; năng lực nầy được nói là thể của thọ. Căn cứ vào văn của Luận kia thì, ở nơi sáu xứ và y giả lập mạng căn há không trái ngược nhau sao. Y là phù trần căn. Giải thích, dđồng phần vốn không có thật thể (Kinh bộ) nê đã trở lại  dựa vào sáu xứ và y để lập. Luận nầy (kinh bộ) căn cứ vào giả ,nương giả; Chánh lý căn cứ vào giả mà nương nơi thật. Do đó không trái nhau. Lại nữa, Chánh lý nạn vấn Kinh bộ rằng, nếu có chỗ (vô sắc giới) không có nội ngũ sắc xứ dị thục được dẫn dắt bởi nghiệp thì ở đó, hoặc có lúc không có đệ lục ý xứ được dẫn dắt bởi nghiệp nghĩa là trong một thời gian dài khởi lên thức nhiễm ô hoặc thiện hữu lậu thức và vô lậu thức; thế thì ở trong giai đoạn tương tục (tương tục vị trung) không có năng lực dị thục được dẫn khởi bởi nghiệp, nói cái gì là thọ.

[15]Quang ký q.5,tr.101c 04, như năng lực của hạt lúa giống, v.v... được dẫn dắt cho đến lúc chín, chính năng lực không gián đoạn nầy tạm gọi là công năng. Lại giống như  năng lực của mũi tên khi được bắn ra, kéo dài trong suốt thời gian tồn tại, chính năng lực nầy tạm gọi là hành.

[16]Ht. 行,Hành. Skt. Saṃskāra.

[17]Ht. 德 句 義,đức cú nghiã. Quang ký q.5,tr.101c 24, phái Thắng Luận cho rằng đức cú nghĩa gồm có 24 loại; hành là pháp thứ 21 trong 24 loại đó, cho nên nói là sự khác nhau của đức (đức sai biệt). Theo quan điểm đó thì các  pháp từ chỗ nầy đến chỗ kia, chuyển động nhanh, chậm, v.v...đều do lực của hành mà có....; hành nầy nương vào mũi tên,v.v... mà sanh ra. (Nhưng) chính do lực của hành mà mũi tên, v.v... chuyển biên tương tục, không gián đoạn cho đến lúc chưa rơi xuống giống như chim ngậm trái cây vậy.  Skt. Guṇa.

[18]Cđ. q.4,tr.184c 28, 若 有 人 執 有 別 德 名 速 疾, 生 在 箭上; 由 隨 此 德 故; 箭 行 乃 至 墮。

[19]Quang ký q.5, tr.102a Luận chủ Câu Xá bác bỏ lập luận của phái Thắng luận, rằng, khi mũi tên được bắn ra để bay đến một nơi khác, (vì do thể của hành là một) nên sự khác nhau của ba giai đoạn, ban đầu nhanh, khoảng giữa vừa và sau cùng là đến, lẽ ra không thể có.

[20]Quang ký q.5, tr. 102a 08, khi đến giai đoạn sau lẽ ra không thể rơi xuống vì không bị một chướng ngại nào, giống như  lúc đầu vậy....; nếu nói rằng đến giai đoạn sau phải rơi xuống vì bị sức gió cản thì, ngay giai đoạn đầu cũng có gió cản, lẽ ra phải rơi xuống từ đó; lực cản của gió trước sau vẫn không khác nhau vậy... hoặc vào giai đoạn sau, mũi tên không thể rơi xuống vì sức cản của gió cũng không khác nhau , vẫn giống lúc đầu.

[21] Cđ. Thích luận q.4, tr.185a 06, 於假 名 論 中 說,有 死 由 壽 盡,死 由 福 盡。 

[22]Cđ. Thích luận q.4, tr.18509, 若 壽 命已 盡, 福 業 盡 於 死 何 能。 於 福 業 盡 死 中, 壽 命 盡 亦 爾; 是 故 於 二 盡 死 是 名 俱 盡 死。Bảo sớ q.5, tr.546c 24, 。。。 khi nghiệp lực chiêu cảm hai loại đều hết nên phải chết, (thực sự) là do nghiệp lực chiêu cảm thọ mạng hết mà chết há lại do phước tận khiến mạng sống chấm dứt ư ? giải thích, phước tận đối với sự chết tuy không có công năng nhưng do khi chết cả hai loại đồng thời đều hết; do đó, chỉ nói câu tận cố tử. Chữ câu tận nầy không có ý nói do lực của phước tận vậy.

[23]Đoạn văn nầy của Luận Chánh lý,  若 所 依 身可 損 害 故 壽 隨 損 害,是 名 第 一 隨 相 續 轉;若 所 依 身不 可 損 害 如 起 而 住 是 名第 二 一 起 便 住。Tì bà sa nói, có Luận sư cho rằng, sắc thân gọi là tương tục; đó là (chúng sanh) sanh ở cõi Dục không ở trong hai định vô tưởng và diệt tận , thọ mạng tuỳ theo sắc thân chuyển biến tương tục. Lý do vì sao? Bởi lẽ, nếu sắc thân bình hoà, thọ sẽ không ngắn ngủi (vô yểu); nếu sắc thân bị tổn hoại, thọ mạng sẽ ngắn ngủi (trung yểu)

[24]Quang ký q.5, tr. 102c 06, Luận sư thứ  hai của Tì bà sa giải thích, thuyết đầu nói tuỳ theo sắc thân (tương tục) mà chuyển cho thấy thọ mạng có sự chướng ngại; thuyết sau nói một khi khởi lên liền theo đó mà tồn tại, cho thấy thọ mạng không bị chướng ngại. Từ đó, chắc chắc có cái chết phi thời. Bảo sớ q.5,tr.547a 07, tuỳ tương tục chuyển là có sự chướng ngại, là có cái chết phi thời vâỵ; không tuỳ theo tương tục chuyển, một khi khởi lên liền tồn tại là không bị chướng ngại, chẳng phải có cái chết  phi thời.

[25] Bảo sớ q.5,tr.547a 09, Luận: cho nên Khế kinh nói cho đến khi mang thai Luân vương. Từ đây trở xuống , nêu lên bốn loại tự thể để chứng minh ý nghĩa trước.

[26]Bảo sớ q.5, tr.547a 11, (chúng sanh) ở cõi trời hý vong niệm do vui quá độ (hỷ tăng) khiến mất niệm mà chết; cõi trời ý phẩn nhuế do phẫn nộ quá mức mà chết. cho nên Bà sa q.199, (190) trong đoạn hỏi về hai cõi trời nầy, nói, hỏi: chư thiên sống tại chỗ nào. Có thuyết nói, tại diệu cao tằng cấp; có thuyết nói, đó là cõi trời thứ 33. Rõ ràng, với các cõi nầy có hai thuyết khác nhau nhưng đều có thể cùng tương hại đối với a tu la. Căn cứ ở đây thì thấy có cả hai trường hợp bị tổn hại; như vậy do đâu mà nói chỉ có tự hại.

[27] Quang ký q.5, tr.102c 17, Trong câu thứ nhất, nên nêu lên trường hợp chư Phật tự  rút ngắn thọ mạng để nhập niết bàn (tức cũng là một trường hợp thuộc về tự hại).

[28] Bà sa Lại có một loại hoặc rồng, hoặc diệu xí hoặc quỷ và người hoặc lại có các loại khác nữa có thể bị tha hại, chẳng phải tự hại.

[29] Ba sa  đó là cầm thú, hoặc rồng hoặc diệu xí hoặc quỷ và người hoặc lại có các loài khác có thể vừa bị tự hại vừa bị tha hại.

[30] Quang ký q.5, tr. 102c 29, ở thân trung hữu cần chờ đợi các duyên để thọ sanh vì thế không thể bị tự hoặc tha hại; cõi Sắc, Vô sắc không có nghiệp sát vậy. Lại có giải thích, ở trung hữu, ở cõi Sắc thân thể đặc biệt vi diệu cho nên không thể bị (tự hoặc tha) làm hại; ở cõi Vô sắc, không có sắc thân nên cũng không thể bị tự hoặc tha làm hại. Ở địa ngục bị ràng buộc bởi nghiệp lực cho nên chẳng phải do tự hoặc tha làm hại khiến phải chết được. Bắc cu lô châu định nghiệp sống đến ngàn năm, lại không có nghiệp sát. Ở trong 15 sát na kiến đạo chắc chắn không có chết yểu nữa chừng. Xuất từ định vì ý muốn lợi lạc rất mạnh, Diệt định, vô tưởng định do định lực thắng diệu cho nên đều chẳng thể bị tư tha làm hại. Vương tiên là chuyển luân vương bỏ nhà cửa, tu đạo, có đủ năm loại thần thông nên gọi là vương tiên. Lại có giải thích, Luân vương thái tử sau khi làm lễ quán đảnh, trước hết nen6 tu tập các phạm hạnh trong phổ tịch của tiên vương; tiên vương chọn để làm người nối dõi ngôi vị chuyển luân vương cũng chẳng bị tự tha làm hại. Phật sứ là sứ giả của Phật; do nhiệm vụ sứ giả của Phật chưa xong cũng chẳng bị tự tha làm hại. Bà sa q.152, năm người, Đạt nhĩ la,v.v... đều được đức Phật đặc biệt thọ ký. Đạt nhĩ: Trung hoa dịch là hữu pháp; la dịch là thủ. Ở nơi hữu pháp thần mà khất thủ; từ vị thần đã xin mà đặt tên nên gọi là hữu pháp thủ; đó là con của vị trưởng giả. Ốt đát la: dịch là thượng thắng, cũng là con của trưởng giả. Căng kì: là tên của thần sông; la: gọi là nhiếp thọ. Cha mẹ thương con nên từ vị thần mà đặt tên con; con ta được nhiếp thọ bởi thần Căng kì, khiến quỷ và các ác thần không thể làm hại. Cựu dịch: là hằng hà, không đúng. Trưởng giả tử da xá: da xá dịch là danh xưng, theo Phật xuất gia, ban đêm vượt qua dòng sông rất sâu, tự  nhiên không bị tổn hại. Cưu ma la thời bà: cưu ma la hoa ngữ dịch là đồng tử; thời bà dịch là hoạt mạng; gọi là đồng tử hoạt mạng. Tối hậu thân bồ tát: thân mạng sanh ở cung vua; nhất định thành Phật, các việc cần làm chưa làm xong. Và Mẹ của vị bồ tát nầy khi đang mang thai bồ tát. Do phước lực của bồ tát khiến người mẹ không bị tổn hại. Tất cả các vị Luân vương; do phước nghiệp tối thắng duy trì vậy. Và Mẹ của những vị Luân vương nầy khi mang thai Luân vương.

[31] Quang ký q.5, tr.103b 11, Luận chủ dẫn Kinh vấn nạn rằng, các Luận sư tì bà sa như đã nói trong câu thứ tư, đều không thể hại; tất cả các hữu tình ở cõi Sắc và Vô sắc đều không thể bị hại; vậy vì sao trong Kinh lại chỉ nói (chúng sanh) ở cõi trời Hữu đảnh (mới đều không thể bị hại) ?

[32] Quang ký q.5, tr.103b 14 , Luận sư Tì bà sa truyền thuyết rằng, tự thể ở ba cõi vô sắc còn lại, ở bốn cõi tịnh lự có thể bị thánh đạo hai cõi Tự  (địa) và Thượng (địa) làm hại; ở cõi Hữu đảnh, thánh đạo tự địa và thượng địa cả hai loại bị hại (tự và tha) đều không có. Căn cứ vào đó (Hữu đảnh) mà nói là đều chẳng có thể làm haị (câu phi hại).

[33] Bảo sớ q.5, tr.547b 22,  Luận chủ dẫn giải thích chính, thật sự, tất cả hữu tình ở cõi Sắc và Vô sắc đều chẳng bị tự và tha làm hại; nhưng Kinh chỉ nói hữu tình ở cõi Phi tưởng phi phi tưởng tức là nêu cái sau là hiển bày cái trước (nói rõ hơn là nêu Hữu đảnh tức bao gồm cả ba cõi Vô sắc và bốn cõi tịnh lự ở trước vậy).

[34] Bảo sớ q.5, tr. 547b 25, Đệ nhất lạc sanh thiên (tức sơ thiền) có ba cõi: Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Đại phạn thiên. Phạm chúng là cõi đầu. Nêu cõi đầu tức có ý  bao gồm hai cõi sau.

[35] Bảo sớ q.5, tr 547b 27, Đệ nhị lạc sanh thiên (tức nhị thiền) có ba cõi: Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên, Cực quang thiên. Trong đó, Cực quang thiên là cõi sau cùng. Nêu cõi sau, Cực quang thiên tức có ý bao gồm hai cõi đầu.

[36] Quang ký q.5, tr. 103b25, Trong kinh Thất trú, đệ nhất thức trú tuy chẳng phải hiển bày thí dụ cũng vẫn có chữ  như; do đó biết rằng, chữ như không nhất định là phải hiển bày nghĩa thí dụ.

[37] Quang ký q.5, tr.103c04, các pháp hữu vi là chỗ mà tướng gá vào. Tướng là tiêu tướng tức là cái có khả năng biểu thị thể của các pháp hữu vi, rằng, pháp hữu vi đều có thật thể riêng biệt gọi là tánh. Tướng không thể khởi lên một mình cho nên phải dựa vào pháp...  tr.103c 09, vì bốn loại nầy là tiêu tướng của các pháp hữu vi cho nên pháp nào nếu có tướng nầy đều nhiếp thuộc pháp hữu vi. Ngược lại pháp nầy là pháp vô vi. Hữu bộ cho rằng thể của các pháp là vốn có (bổn hữu); bốn tướng đối với các pháp chỉ căn cứ vào công năng (dụng) mà nói, chẳng phải căn cứ vào thể để bàn.

[38]Quang ký q.5,tr.103c02, nhơn duyên tạo tác gọi là vi; các pháp sắc tâm,v.v... từ nhơn duyên sanh ra đều có cái vi (tạo tác) đó nên gọi là hữu vi.

[39]Quang ký q.5, tr.103c 12, Trong đó, cái đối với các pháp có khả năng khởi tác dụng khiến cho các pháp đi vào hiện tại, gọi đó là sanh. Nếu không có sanh tướng thì các pháp hữu vi cũng giống như hư không v.v..., vốn không sanh khởi. Pháp đã có trong hiện tại rồi, cái có tác dụng khiến cho các pháp tạm thời an trú, mỗi mỗi đều dẫn đến tự quả cho nên gọi là trú. Nếu không có trú tướng thì, khi các pháp tạm thời an trú, lẽ ra không thể dẫn đến tự quả. Nếu (cho rằng) lực nhậm vận của trú khiến dẫn đến tự quả, thì khi dị tướng khởi tác dụng khiến pháp suy dị, công năng dẫn quả kia không thể lại tự dẫn đến kết quả lần nữa nên (để) gọi là dị. Nếu không có dị tướng thì công năng làm suy kiệt kia vì duyên cớ gì lại không thể thường dẫn đến tự quả. Hoặc dị tướng ấy: đó là các pháp tương tục, lúc sau (quả) khác lúc trước (nhân). Như do lực nhậm vận của trú khiến cho các pháp hữu vi, dấn dần lúc sau hơn lúc trước. Do suy dị nên khiến cho lúc sau kém lúc trước. Tuy lại có pháp lúc sau hơn lúc trước do nhân duyên đặc biệt làm mất đi  công năng của dị tướng để dẫn đến việc lúc sau hơn lúc trước. Dị tương trong công năng hiện tại đã làm suy tổn rồi, diệt tướng lại làm mất đi công năng của pháp trong hiện tại khiến chúng chìm vào quá khứ nên gọi là diệt.Nếu không có diệt tướng thì công năng của các pháp trong hiện tại lẽ ra không mất. Nếu dụng không mất thì các pháp là thường còn. Nên biết, theo Hữu bộ, sanh tướng khởi dụng ở vị lai. Ba tướng trú, dị và diệt  đồng thời khởi dụng trong đời hiện tại. Tuy đều nương vào một pháp để lập nên nhưng sở vọng bất đồng nên tác dụng cũng khác.

[40]Quang ký q.5,tr.104a27, vì muốn khiến cho người xem nhàm chán Cát Tường nên trước phải chỉ Hắc nhỉ. Cát tường và Hắc nhỉ là hai chị em thường đi với nhau. Cát tường là chị, đến đâu đều được ưa thích; Hắc nhỉ là em, tai đen xấu xí, không được yêu thích. Người ngu say mê Cát tường; người trí muốn cho người ngu biết buông xả nên trước tiên chỉ Hắc nhỉ. Khi thấy Hắc nhỉ rồi, theo đó cũng chán luôn Cát tường.

[41] Quang ký q.5, tr.104c 08, sắc đẳng: chữ đẳng ở đây, chỉ cho bốn trần cảnh còn lại và năm căn, v.v...  . Nghĩa là, các tướng nầy không giống như năm cảnh để có thể chứng thật bằng hiện lượng; cũng không giống như năm căn, v.v... để có thể chứng thật bằng tỷ lượng; và cũng không thể được chứng thật bằng thánh giáo lượng.

[42] Quang ký q.5,tr. 104c 12, Thuyết nhất thiết hữu bộ trách Kinh bộ rằng, tuy không được chứng tri bởi hiện lượng và tỷ lượng  nhưng lại có thánh giáo lượng. Trong Kinh đã nói sự sinh khởi, v.v...  của các pháp hữu vi (đệ lục chuyển thanh) lại còn nói liểu tri, rõ ràng biết rằng, có thật thể.

[43] Cđ. Thích luận q.4, tr.185c 29, 天 愛!汝 今 能 誦 伽 蘭 他,不 解 伽 蘭 他 義。 佛 世 尊 說,義 是 量 非 文 句。何 者為 義 ?。。。(Vớ vẩn. Các vị hay đọc tụng Già lan tha mà không hiểu nghĩa của Già lan tha. Đức Phật thế tôn dạy, nghĩa là ý nghĩa (量) , chẳng phải là câu chữ (文 句). Nghĩa ấy là gì ? ....

[44] Cđ. Thích luận q.4,tr.186a08, 経 説 重 有 為 名 為 linh 他 知 此 相 顯 有 為 性 勿 如 此 為 顯 有 為 法 類 是 有 故 立 四 相 .

[45]Quang ký q.5, tr. 105a 19, Căn cứ vào sự  tương tục của các pháp hữu vi tạm thời lập lên bốn tướng; chẳng phải căn cứ vào sát na. Nói tương tục ấy là chỉ cho tương tục trong một thời gian hoặc nhất vận tương tục.

[46] Quang ký q.5,tr105b10 Ba bài tụng nầy đều do các luận Sư Kinh bộ nói. Hai bài đầu căn cứ vào tương tục mà lập nên bốn tướng sanh, trú, dị,diệt; văn tuy có khác nhưng nghĩa thì giống nhau. Bài tụng sau tức bài thứ ba, bác bỏ quan điểm “sát na thật trú”của Nhất thiết hữu bộ. Do vì các pháp trong mỗi sát na không có trú tướng thật sự nên có giả diệt. Các pháp sau khi sanh khởi, không đợi ngoại duyên, trong từng sát na tự nhiên hoại diệt. Cho nên trong một sát na, cho rằng thật sự có tướng trú là điều phi lý. Do vậy, chỉ ở trong (đồng phần) tương tục nói có trú tướng; chứ không phải ở trong sát na (tương tục) nói có trú tướng.

[47] Cđ. Thích luận q.4,tr.186a15 生 謂 相 續 初; 斷 名 滅 ,  續 住 ; 住 異 此 相 續 是 前 後 差 別.

[48] Cđ. Thích luận q.4,tr186a21 若 法 殺 那 滅 , 離 住 即 便 滅 ; 此 常 滅  是 故, 分 別  住  非  理

[49] Tương tục 相  續 : có ba loại. một, đồng phần  同  分 tương tục; hai, nhất vận 一  運 tương tục; ba, sát na 殺  那 tương tục.

[50] Quang ký q.5,tr.105b19 Thế nào gọi là trú ? Nghĩa là, các pháp hữu vi đã sinh khởi mà chưa bị huỷ diệt, (căn cứ trên đồng phần) tương tục của chúng mà nói trú tướng; chứ chẳng phải sau khi sinh khởi, trải qua một thời gian tồn tại được gọi là sát na pháp tánh (tức chẳng phải căn cứ tên sát na tương tục); bởi lẽ, một sát na là thời gian rất ngắn, nếu trải qua thời gian tồn tại (kinh đình) thì không còn là rất ngắn ngủi nữa (tức không phải là sát na).

[51] Cđ. Thích luận q.4,tr.186b02 隨 一 殺 那 未 有 有 名 生 ; 有 已 不 有 名 滅 ; 前 前 後 後 殺 那 相 應 名 住 ; 此 彼 不 相 似 名 住 異 .

[52]Cđ. Thích luận q.4,tr.186b04 若 爾 有 法  生 不  異 , 此 義 云 何 ?. 雖  復  如  此  不 無  別  異 .

[53]Cđ. Thích luận q.4,tr.186b05 擲 不 擲 , 強 力 擲 , 弱 力 擲 , 金 剛 等 物 久 速 落 時 有 差 別 故 . Quang ký q5,tr.105c11 謂 金 剛 等 有 擲 未 擲 , 時 差 別 故 , 故 亦 有 異 . 就 擲 之 中 復 有 差 別 ;  若 強 力 擲 即 速 墮 , 若 弱 力 擲 即 遅 墮 . 又 解 若 強 力 擲 遠 故 遅 墮 , 若 弱 力 擲 近 故 速 墮 , 時 差 別 故 而 有 異 相 . 由 斯 道 理 大 種 轉 變 差 別 義 成 .

[54] Bảo sớ q.5,tr.549c10 雖 有 不 同 , 金 剛 本 相 前 後 相 似 ; 大 種 雖 復 前 後 相 似 , 轉 變 差 別 , 其 義 亦 成

[55] Quang ký q.5,tr.105c20 nếu nói niệm trước niệm sau có sự khác nhau nên gọi là trú dị; thế thì, tối hậu niệm thanh, tối hậu niệm quang và khi sắp nhập vào vô dư niết bàn, tối hậu lục xứ, tất cả các pháp nầy đều không có hậu niệm để có sự sai khác, lẽ ra, không thể có trú dị. Và nếu các tối hậu niệm nầy không có dị tướng thì, tướng trú dị được lập không có mặt cùng khắp các pháp hữu vi.

[56] Quang ký q.5,tr.105c27 kinh văn nói, dị gọi là trú dị với ý rằng, dị là tướng của pháp hữu vi, không nói trú là tướng của pháp hữu vi. Cho nên Kinh nói, có ba tướng hữu vi của các pháp hữu vi.

[57] Cđ. Thích luận q.4,tr.186b10 若 不 説 住 為 有 為 相 , 何 者 謂 住 異 ? 若 法 有 住 , 此 法 必 有 住 異 . 是 故 立 無 不 變 .

[58] Cđ. Thích luận q.4,tr.186b13 於 此 経 中 若 略 説 , 此 経 中 世 尊 所 顯 有 為 法 相 必 如 此 . 経 云 , 有 為 何 相 ? 若 先 未 有 今 有 ; 有 已 更 不 有 ; 此 法 相  續名 住 ; 此 相  續 前 後 不 同 名 住 異 . 於 中 何 用 立 生 等 物 ? Quang ký q.5,tr.106a 21 然 此 四 相 経 中 , 世 尊 所 説 有 為 之相 , 略 顯 示 者 . 謂 有 為 法 本 無  今 有 名 生; 有 已 還 無 名 滅 ; 相  續 隨  轉 名 住 ; 即 此 住 相  前 後 差 別  名  異 ; 此 中  何  用  生  等  別  物 ? Bảo sớ q.5,tr.549c29  即  有 為  法  本  無 今 有 名  今 有生 ; 有  已  還  無  名  滅 ; 相  續 名  住 ; 即  此  前  念  後  念  不  同 名  異 已 顯  有  相  續 為 之 相  續無  常  相 , 何  用  離  其  所  相  別  有  生  等 ?

[59] Bảo sớ q.5,tr.550a 04 Nếu nói các pháp sắc, thanh, v.v… trước không, nay có ( sanh), v.v…là tướng của các pháp hữu vi tức là chính sở tướng  lập làm năng tướng. Tại sao chính sở tướng lại lập thành năng tướng? Quang ký q.5,tr. 106a 26 Há không có một năng tướng riêng biệt hay sao mà chính sở tướng lại lập làm năng tướng?

[60] Quang ký q.5,tr.106a28 Thế tại sao 32 hai tướng của Đại sỹ (Thế tôn) lại chẳng là cái gì khác ngoài Đại sỹ?

[61] Cđ. Thích luận q.04,tr.186b 19 又  如  上  升  為  煙  相  由  此  相  故  遠  處  知  煙  此  相  與  煙  不  異 .

[62] Quang ký q.05,tr.106b 05 Năng tướng và sở tướng được giải thích khác nhau cho nên không thể nói tức; ngoài sắc,v.v… không có một thể tánh nào cả cho nên không thể nói ly . Đây chính là nghĩa bất tức bất ly vậy.

[63] Bảo sớ q.5,tr.550a 15 Chúng tôi lập sanh, trú,v.v… có thể tánh riêng biệt khác với sở tướng pháp (pháp hữu vi), có gì phi lý?

[64] Cđ. Thích luận q.4,tr.186b 26 Đó là, một pháp trong cùng một lúc đang sanh, đang trú, đang lão, đang diệt. Thế nào là đang? tức là các tướng cùng khởi lên vậy. Bảo sớ q.5,tr.550a 17 trên mỗi mỗi pháp đồng thời cùng có bốn tướng tức là khi pháp đang sanh cũng chính là đang diệt…, đồng có thể tánh.

[65] Bảo sớ q.5,tr.550a 19 Tuy thể câu hữu nhưng tác dụng có trước có sau; đó là,tác dụng của sanh tướng là khiến cho các pháp chưa sanh sanh vào trong hiện tại; khi đã sanh vào hiện tại rồi đâu cần sanh tướng nữa. Do đó, khi đang sanh không thể là đang trú, đang suy dị, và đang hoại diệt được.

[66] Quang ký q.5,tr.106b 15 Trước phải biết rằng, thể của các pháp vị lai là có hay không; sau đó mới luận về hữu dụng vô dụng. Thể còn chưa quyết định, làm sao mà nói đến dụng.

[67] Quang ký q.05,tr.106c 11 諸  chư: thuyết nhất thiết hữu bộ sư.

[68] Cđ.Thích luận q.04,tr.186c 09 有  餘  人  説 , 住  等  諸  相 , 功  能  次  第  不  俱 ; 於  此  人  則  失  殺  那  義  滅 . Quang ký q.05,tr.106c 11 Các luận Sư hữu bộ nói rằng, ba tướng trú, v.v… tuy cùng có mặt trong hiện tại nhưng tác dụng không cùng lúc tức khởi lên trước sau khác nhau; họ nói như vậy là trái với ý nghĩa sát na diệt. Thời  gian rất ngắn gọi là nhất sát na. Mà đã nói ba tướng, trong hiện tại, khởi lên tác dụng riêng biệt trước sau tức là có sự kéo dài (kinh đình); như vậy là trái với ý nghĩa sát na diệt. Bảo sớ q.05,tr.550b 27 (Kinh bộ nạn) Nếu tác dụng khởi lên trước sau thì các pháp khi đã sanh khởi phải trải qua thời gian tồn tại (trú), thời gian biến dị, thời gian huỷ diệt. Đã trải qua ba thời gian khác nhau thì phải có ba sát na. Thời gian rất ngắn gọi là nhất sát na; như vậy là trái với giáo thuyết sát na nghĩa diệt. 

[69] Ht.q.05,tr.28b 05 若  言  我  説  一  法  諸  相  用  皆  究  竟 名  一  殺  那 ;  汝  今  應  説 何  用  皆 緣  住  相  與  二  俱  生 而  住  先  能  住  所  住  法  非  異  非  滅 . Cđ.Thích luận q.04tr.186c 10 若  汝  説  我  立  殺  那  如  此  四  相  功  能  成  名  一  殺  那 . 若  爾 , 住  與  餘  二  俱  起 , 先  暫  安  立 , 法  老  不  變  異 , 無  常  不  滅 ;  此  義  云  何 ? Quang ký q.05,tr.106c 16  汝  説  一  切  有  部 , 若  言  我  説  一  法  四  相  作  用  究  竟  名  一  殺  那  者 ; 汝  今 應  今説 。 。 . (trong câu nầy, chữ ngã và chữ kim đều chỉ cho Nhất thiết hữu bộ).

[70] Ht.q.05,tr.28b 20  故  異  滅  用  竟  無  所  為 . Cđ. Thích luận q.04,tr.186 c22 是  故  此  二  無  事  可  作 .

[71] Ht.q.05,tr.28b 22 異  謂  前  後  性  相  轉  變 , 非  即  此  法  可  言  異  此 . Cđ. Thích luận q.04 tr.186c 25 老  謂  前  後 不  同  及  變  異 . 從  此  法  此  法  異  類  不  應  成 . Quang ký q.05,tr.107a 06 Dị có nghĩa là tánh trước và sau riêng biệt,khác nhau; chẳng phải chính pháp nầy mà nói là khác pháp nầy. … Như khi ở dị tướng khác với khi trú tướng ở trước; như vậy pháp đó chẳng phải là một pháp. Nếu như ở trú và dị là hai pháp khác nhau thì phạm lỗi trái với tông chỉ. Do đó, theo Thuyết nhất thiết hữu bộ, đối với các pháp, lập dị tướng là không hợp lý.

[72] Ht. Câu xá luận.q.05,tr.28b 25 即  前  異  不  成 ; 異  前  非  一  法 . 是  故  於 一  法 , 立  異  終  不  成 . Cđ. Thích luận q.04,tr.186c 27 若  如  前  無  老 ; 若  異  非  前  法 . 是  故  於  一  法 , 老  相  不  得  成 .

[73] Bảo sớ q.05,tr.551a 07 Kinh lượng bộ cho rằng, sắc pháp bị diệt do hai nhơn duyên: một, diệt tướng bên trong; hai, diệt duyên bên ngoài. Tâm pháp chỉ có nội diệt tướng, không cần đến ngoại duyên;  thuộc sát na sanh diệt. Trước bác bỏ về sắc, sau bác bỏ về tâm … Bác bỏ sắc pháp cần có hai duyên mới huỷ diệt –như ta hiện thấy, củi do lửa làm nhơn duyên huỷ diệt, như vậy cần gì phải nói có nội diệt tướng bên trong. Uống thuốc trị bệnh tả, đâu  phải nhờ trời. Bác bỏ về tâm pháp – đã nói sát na diệt thì không cần ngoại duyên; và trái với (nghĩa) một pháp, cùng lúc có cả hai tướng dị và diệt tức là một lúc vừa trú vừa diệt.

[74] Quang ký q.05,tr.107b 10 Nếu không có sanh tướng thì không thể có sự hiểu biết về  sanh; đã có sự hiểu biết về sanh nên biết rằng  có sanh.

[75] Cđ. Thích luận q.04,tr.187a 13  復  次  相  應  言  亦  不  應  成 ; 謂  色  家 生. Quang ký q.05,tr.107b 11 đệ lục chuyển thanh tức sở hữu cách, chỉ cho sự quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của hai pháp có thể riêng biệt. Chẳng hạn như bề tôi của vua. (Như vậy) Nếu có sanh thể thì mới thành lập được sở hữu cách; nếu không có sanh tướng thì không thể lập thành sở hữu cách; rằng sanh tướng của sắc (sắc chi sanh đẳng) ,v.v…; hoặc nói sanh tức là sắc (sanh tức thị sắc); cũng như không nên nói sắc của sắc (sắc chi sắc). Đã nói sanh tướng của sắc nên biết rằng ngoài sắc còn có sanh tướng. Bảo sớ q.05,tr.551b 04 nếu sanh tướng khác với sắc thì có thể nói rằng sanh tướng của sắc, v.v…; đệ lục chuyển thanh tức đã gọi là thuộc chủ cách thì chẳng phải là một pháp. Nếu ở một pháp mà nói theo chủ thuộc cách thì phải nói là,  sắc của sắc,v.v…

[76] Quang ký q.05,tr107b 18 tuy ngoài pháp không có một tánh không, một tánh vô ngã nào mà vẫn khởi lên sự hiểu biết về không, vô ngã thì đâu có trở ngại gì việc ngoài sắc,v.vvv không có sanh tướng,v.v… mà vẫn khởi lên sự hiểu biết về sanh,v.v…

[77] Quang ký q.05,tr.107c 08 tuy khởi lên sự hiểu biết về số,v.v… nhưng ngoài pháp chẳng có thật thể của số,v.v… đâu có ngại gì đối với vấn đề tuy khởi lên sự hiểu biết về sanh tướng nhưng ngoài sắc, không có một thật pháp nào gọi là sanh,v.v… cả.

[78] Quang ký q.05,tr.107c 11 Vì để thành lập đệ lục chuyên ngôn, phải chấp nhận có một tụ tánh của sắc; nhưng thật sự ngoài sắc, không có tụ tánh; Lại như nói rằng, tự tánh của sắc nhưng ngoài sắc không có một tự tánh nào; thế thì đệ lục chuyển ngôn làm sao thành lập được.

[79] Quang ký q.05tr.107c 17 Sanh tướng xưa không nay có như vây là nương vào pháp ngũ uẩn, có nhiều chủng loại; và để phân biệt với các uẩn  hầu khỏi lẩn lộn.

[80] Quang ký q.05,tr.107c 21 Như thế gian nói hương của chiên đàn là để phân biệt với các hương khác như trầm hương,v.v…;  thể của thạch tử là để phân biệt với thể của ngói gạch, v.v…  .

[81] Quang ký q.05,tr.107c 24 sanh tướng của sắc nầy, v.v… nên biết cũng như vậy.

[82] Bảo sớ q.05,tr.551c 06 theo Hữu bộ các ông, chỉ có hữu vi mới có sanh tương, vô vi không có sanh tướng. Kinh bộ chúng tôi cũng như vậy, hữu vi có có thể sanh, vô vi không thể sanh.

[83] Bảo sớ q.05,tr.551c09 theo như Hữu bộ các ông thì tất cả các pháp hữu vi đều có sanh tướng; song lại chấp nhận nhân duyên đối với các pháp hữu vi nầy thì có dụng, với pháp kia thì không có dụng. Chẳng hạn như nhãn căn có công dụng đối với việc khởi sanh nhãn thức, không có công dụng đối với việc khởi sanh nhĩ thức. Kinh bộ chúng tôi cho rằng cả hữu vi lẫn vô vi đều không có sanh tướng; song, chính do nhân duyên kia đối với pháp hữu vi có công dụng, đối với pháp vô vi không có công dụng vậy.

[84] Cđ. Thích luận q.04,tr.187b 07, danh cú cập tự tụ, hiệu ngôn văn tổng tập.

[85] Quang ký q.05,tr108a 23 danh, (hán) có nghĩa là tuỳ, quy, phó, triệu tức là theo âm thanh, quy phó nơi cảnh mà nói lên các pháp sắc, v.v…;  danh thuộc năng thuyên. Skt. Nāma

[86] Quang ký q.05,tr.108b 01 Tưởng có nghĩa chuyên chấp, năng thủ tượng. Tác tưởng: tác có nghĩa tạo tác; do tưởng tâm sở sau khi thủ tượng, kiến lập, tạo tác nāma (danh). Danh được lập nên bởi tưởng nên gọi là tác tưởng. … Lại có giải thích, tác còn nói là phát; đó là, do các tên gọi thiên, nhơn,v.v… khiến phát sinh các tưởng thiên, nhơn, v.v… nên gọi là tác tưởng.

[87] Cú (hán) .Skt. Pada.

[88] Chương, (hán) . Skt. Vākya.

[89] Cđ. Thích luận q.04,tr.187b 10 nhược do thử ngôn, sự, đắc, thời, tương ưng, sai biệt hiển hiện. Quang ký q.05,tr.108b 20, căn  cứ vào Thanh minh để giải thích nghĩa chữ Cú. Bảo sớ q.05,tr.552a 10 Đao năng cát vật; đó là nghiệp dụng (công năng). Tịch diệt vi lạc; đó là phẩm tính (đức). Tam vô số kiếp; đó là thời gian. Tương ưng tức là chuyển tải sự thuận hợp của các pháp tướng. Sai biệt tức là chuyển tải sự bất đồng về ý nghĩa của các pháp.

[90] Văn, (han) . Skt.vyanjana.

[91] Tự (hán) . Skṭ. Akṣara

[92] Cđ.Thích luận q.04,tr.187b 12 Tự vị vô nghĩa văn: mẫu tự là những chữ cái, tự nó chưa có ý nghĩa;   như aa, yy , v.v…

[93] Thơ phần, thơ loại phần Skt. Lipy-avayava.  Engl. Names of letters.

[94] Ht. Câu xá luận q.05,tr.29a 16 phi vị hiển thơ phần chế tạo chư tự; đản vị hiển chư tự chế tạo thơ phần.. Bảo sớ q.05,tr.552a 28 phi vị hiển thơ phần sắc tự, chế tạo chư bất tương ưng tự; đản vị hiển bất tương ưng tự, chế tạo sắc thơ tự. Y thử sắc tự ký trì bất tương ưng tự, cập tương sắc tự truyền lưu dị phương cập ư hậu thế.

[95] Bảo sớ q.05,tr.552b 06 chữ tổng thuyết được dùng để giải thích nghĩa chữ thân vậy.

[96] Quang ký q.05,tṛ552b 09 do hiệp tập nghĩa trung, trí ốt già tự giới. Hậu tự duyên trợ thành tổng thuyết nghĩa.

[97] Quang ký q.05,tr.109b11 Thuyết nhất thiết hữu bộ giải thích, do tên gọi (danh) khiến cho (người khác) hiểu, chẳng phải do ngôn ngữ kia vậy.

[98] An English translation of the Abhidharmakosa of Vasubandhu by Dr SUBHADRA JHA publishhed 1983 , tr.457 “Scholars have stablished the sound “go” in the nine things, ….” Hán Trí giả lập cù thanh, …

[99] Quang ký q.05,tr.109b 24  Lại có giải thích, chín nghĩa cù danh như vậy; …lại có giải thích, nên nói chín nghĩa cù thanh như vậy; song nói danh ấy tức là thanh vậy.

[100] Quangký q.05,tr.109c 08 Như khi thọ giới, biểu sắc ở sát na sau cùng phải đợi lực của biểu sắc trước, mới có thể khởi sanh vô biểu. Âm thanh ở sát na sau cùng sanh danh cũng như vậy.

[101] Nguyên văn hựu nhược hữu chấp danh như sanh đẳng dữ nghĩa câu sanh,hiện tại thế danh mục khứ lai nghĩa, bất ưng đắc hữu. Cđ. Thích luận q.04,tr.187c19 phục thứ nhược nhữ hứa, danh dữ nghĩa tất câu tương ưng do như sanh đẳng; thử trung, quá khứ vị lai nghĩa hiện thế danh bất ưng hữu.

[102]Nguyên văn hán Tụng.  Cđ. Thích luận q.04,tr.187c 24 già tha

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy