× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Tâm Địa Quán



I. PHẨM TỰA

KINH ĐẠI-THỪA BẢN-SINH
TÂM-ĐỊA-QUÁN
[1]


Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
- Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt.

---o0o---

 

I. PHẨM TỰA

 

Chính tôi được nghe: Một thời kia đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật (Grdhrakùta), thành Vương-xá (Ràjagrha) cùng với ba vạn hai nghìn Đại-tỷ-khưu[2]. Các vị đều là bậc A-la-hán[3]: tâm thiện giải-thoát[4], tuệ thiện giải thoát[5], chỗ tạo-tác đã xong[6], bỏ mọi gánh nặng[7], việc lợi mình đã được, hết mọi sự ràng-buộc trong các cõi, được đại-tự-tại, an-trụ trong giới-phẩm thanh-tịnh, phương-tiện[8] khéo-léo, trí-tuệ trang-nghiêm, chứng được tám pháp giải-thoát, đến bờ Niết-bàn[9] như là: Cụ Thọ[10] A-Nhã-Kiều-Trần-Như (Tàu dịch: Hỏa-khí), A-Sử-Bỉ-Thất-Đa (Tàu dịch: Mã-thắng), Ma-Ha-Na-Ma (Tàu dịch:Đại-danh), Ba-Đế-Lỵ-Ca (Tàu dịch: Tiểu-hiền), Ma-Ha Ca-Diếp (Tàu dịch: Đại Ẩm-quang), Kiều-Phạm-Ba-Đề (Tàu dịch: Ngưu-Tư) La Ba-Đa (Tàu dịch:Tinh-tú), Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp (Tàu dịch:Mộc-qua-lâm), Na-Đề Ca-Diếp, Già-Gia Ca-Diếp (Tàu dịch: Tượng-thành), Xá-Lỵ-Phất (Tàu dịch: Thu-lộ-tử), Đại Mục-Kiền-Liên (Tàu dịch: Đại-tán-tụng), Ma-Ha Ca-Chiên-Diên (Tàu dịch: Đại-Hảo-kiên), Ma-Ha Ca-Tỳ-Na (Tàu dịch: Phòng-Tú), Chân-Đề-Na (Tàu dịch: Uy-như-vương), Phú-Lâu-Na-Di-Đa-La-Ni-Tử (Tàu dịch: Mãn-nguyện-tử), A-Ni-Lâu-Đà (Tàu dịch: Vô-diệt như-ý), Vi-Diệu-Tý, Tu-Bồ-Đề (Tàu dịch: Thiện-hiện), Bạc-Câu-La (Tàu dịch: Thiện-dung), Tôn-Đà-La-Nan-Đà (Tàu dịch: Diễm-hỷ) La-Hầu-La (Tàu dịch: Phú-chướng)…; các vị như thế đều là Cụ Thọ, A-la-hán cả.
 
Và, có những bậc Hữu-học[11] như ông A-Nan (Tàu dịch: Khánh-hỷ) v.v…đều cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng nhau lễ xuống chân Phật, lui ra, ngồi về một bên.
 
Lại có tám vạn bốn nghìn Đại-bồ-tát[12] cùng ở nơi Phật. Các vị đều là Đại-pháp-vương-tử[13], nhất sinh bổ-xứ[14], có uy-đức lớn như Đại-long-vương, trăm phúc viên-mãn, thân-quang chói-lọi như nghìn mặt trời làm quang-đãng mọi tối-tăm, trí-tuệ lắng-suốt, hơn cả bể lớn; hiểu thấu cảnh-giới bí-mật của chư Phật[15], đốt đuốc đại-pháp, dẫn-dắt chúng-sinh[16]; làm bậc Đại-thuyền-sư trong bể sinh-tử, thương-xót chúng-sinh như con đỏ, thường bố-thí cho chúng-sinh sự an-vui trong hết thảy thời-gian, tiếng khen đồn khắp mười phương thế-giới; thần-thông vi-diệu, tự-tại du-hí; đã thấu rõ được các môn Tổng-trì[17], đủ bốn pháp biện-tài vô-ngại tự-tại[18], đã viên-mãn được đại-nguyện tự-tại, thành-tựu tốt-đẹp sự-nghiệp tự-tại, đã chứng-nhập được Tam-muội[19] tự-tại, hoàn-toàn viên-mãn phúc-đức tự-tại; thường là người bạn không phải thỉnh của chúng-sinh, trải qua vô-lượng kiếp siêng tu sáu Độ[20], phụng-sự chư Phật khắp mãi, không an-trụ nơi Niết-bàn; dứt mọi phiền-não, giảng-thuyết diệu-pháp, trong vô-lượng thế-giới, giáo-hóa, đem lợi-ích cho mọi loài; ngăn mọi ngoại-đạo, nén dẹp tâm tà, xa-lìa nhân chấp đoạn, chấp thường, làm cho chúng-sinh sinh ra chính-kiến[21] mà không còn có tướng dao-động, lui tới; không phải trang-nghiêm mà là trang-nghiêm cả mười phương cõi Phật, không nói mà như nói ra diệu-lý tịch-diệt, ở nơi vô-sở-trụ (nơi không còn có chỗ chấp trước), độ cho chúng-sinh trong Nhân, Thiên, không ai là không lĩnh-thụ được những pháp mầu vui-vẻ, rộng lớn; mặc áo giáp tinh-tiến, cầm gươm trí-tuệ, đánh vang trống pháp, phá bọn ma-quân, thân thường thị-hiện[22] ngồi khắp trong hết thảy đạo-tràng[23] thổi loa đại-pháp, giác-ngộ mọi loài, hết thảy hữu-tình đều được nhờ lợi-ích, ai nghe thấy tên hiệu, trông thấy sắc-thân, không đến nỗi luống qua không ích gì, mà được đầy-đủ ba đạt-trí[24], ngộ được pháp của ba đời[25], biết rõ mọi căn linh-lợi, ngu-độn của chúng-sinh, tùy bệnh cho thuốc, mà không còn nghi-hoặc; chia rải mây đại-pháp, rưới mưa cam-lộ[26] chuyển trí-ấn pháp-luân[27] không thoái-chuyển, đóng ngục sinh-tử, mở cửa Niết-bàn, phát thệ-nguyện rộng, cho đến khi hết thuở vị-lai, nguyện độ thoát mọi loài. Các vị Bồ-tát ấy không bao lâu sẽ được đạo-quả Vô-thượng chính-đẳng, chính-giác[28]. Các vị ấy là: Vô-Cấu Bồ-tát, Di-Lặc (Tàu dịch: Từ-thị) Bồ-tát, Sư-Tử-Hống Bồ-tát, Diệu-Cát-Tường Bồ-tát, Duy-Ma-Cật (Tàu dịch: Tịnh-danh, Vô-cấu-xưng) Bồ-Tát, Quán-Tự-Tại Bồ-tát, Đắc-Đại-Thế Bồ-tát, Kim-Cương-Tạng-Vương Bồ tát, Địa-Tạng-Vương Bồ-tát, Hư-Không Tạng-Vương Bồ-tát, Đà-Ra-Ni Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Tam-Muội Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Diệu-Cao-Sơn-Vương Bồ-tát, Đại-Hải Thâm-Vương Bồ-tát, Diệu-Biện-Nghiêm-Vương Bồ-tát, Hoan-Hỷ Cao-Vương Bồ-tát, Đại-Thần Biến-Vương Bồ-tát, Pháp Tự-Tại-Vương Bồ-tát, Thanh-Tịnh Vũ-Vương Bồ-tát, Dược-Vương Bồ-tát, Dược-Thượng Bồ-tát, Liệu-Phiền-Não-Bệnh Bồ-tát, Bảo-Sơn Bồ-tát, Bảo-Tài Bồ-tát, Bảo-Thượng Bồ-tát, Bảo-Đức Bồ-tát, Bảo-Tạng Bồ-tát, Bảo-Tích Bồ-tát, Bảo-Thủ Bồ-tát, Bảo-Ấn-Thủ Bồ-tát, Bảo-Quang Bồ-tát, Bảo-Thí Bồ-tát, Bảo-Chàng Bồ-tát, Đại-Bảo-Chàng Bồ-tát, Bảo-Vũ Bồ-tát, Bảo-Đạt Bồ-tát, Bảo-Trượng Bồ-tát, Bảo-Kế Bồ-tát, Bảo-Cát-Tường Bồ-tát, Bảo-Tự-Tại Bồ-tát, Chiên-Đàn-Hương Bồ-tát, Đại-Bảo-Cự Bồ-tát, Đại Bảo-Nghiêm Bồ-tát, Nhật-Quang Bồ-tát, Nguyệt-Quang Bồ-tát, Tinh-Quang Bồ-tát, Hỏa-Quang Bồ-tát, Điện-Quang Bồ-tát, Năng-Niệm-Tuệ Bồ-tát, Phá-Ma Bồ-tát, Thắng-Ma Bồ-tát, Thường-Tinh-Tiến Bồ-tát, Bất-Hưu-Tức Bồ-tát, Bất-Đoạn-Đại-Nguyện Bồ-tát, Đại-Danh-Xưng Bồ-tát, Vô-Ngại-Biện-Tài Bồ-tát, Vô-Ngại Chuyển-Pháp-Luân Bồ-tát. Các vị Bồ-tát, như Vô-Cấu Bồ-tát Ma-ha-tát… trên đây như thế, cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có ức vạn Thiên-tử trên Lục-Dục-Thiên[29] như: Thiện-Trụ Thiên-tử, Uy-Đức Thiên-tử, Phổ-Quang Thiên-tử, Thanh-Tịnh-Tuệ Thiên-Tử, Cát-Tường Thiên-Tử, Đại-Cát-Tường Thiên-Tử, Tự-Tại Thiên-tử, Đại-Tự-Tại Thiên-tử, Nhật-Quang Thiên-tử, Nguyệt-Quang Thiên-tử… Trong các vị Thiên-tử ấy, Thích-Đề-Hoàn-Nhân[30] làm Thượng-Thủ[31]. Và, các vị ấy đều ưa thích diệu-pháp Đại-thừa, nguyện theo và phụng-sự các đức Như-Lai trong ba đời, vào cảnh-giới bí-mật bất-tư-nghị, trang-nghiêm các hội đạo-tràng của chư Phật[32]. Tất cả các vị Thiên-Tử ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có Hằng-hà-sa[33] Thiên-tử trong cõi Sắc, như: Đại-Quang-Phổ-Chiếu Thiên-tử, Vô-Cấu Trang-Nghiêm Thiên-tử, Thần-Thông Du-Hí Thiên-tử, Tam-Muội Tự-Tại Thiên-tử, Đà-Ra-Ni Tự-Tại Thiên-tử, Đại-Na-La-Diên Thiên-tử, Viên-Mãn Thượng-Nguyện Thiên-tử, Vô-Ngại Biện-Tài Thiên-tử, Cát-Tường Phúc-Tuệ Thiên-tử, Thường-Phát Đại-Nguyện Thiên-tử… Trong các vị Thiên-tử ấy, Quang-Minh Đại-Phạm Thiên-Vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ Tam-muội thần-thông, nhạo-thuyết biện-tài, thường thường phụng-sự chư Phật Như-Lai trong ba đời khi ở dưới gốc cây Bồ-đề[34], ngồi tòa Kim-Cương, phá ma-quân rồi, chứng đạo Bồ-đề, đến khắp chúng-hội và, đều ở trong lúc đầu tiên, khuyến-thỉnh Như-Lai quay xe diệu-pháp, mở cửa cam-lộ, độ mọi người trong cõi Nhân, Thiên; ngộ được ý-thú bí-mật của chư Phật, trong đạo Đại-bồ-đề, không còn thoái-chuyển[35]. Tất cả các vị Thiên-tử ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có bốn vạn tám nghìn vị Đại-Long-vương, như: Ma-Na-Tư Long-vương, Đức-Soa-Ca Long-vương, Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, A-Nốc-Đạt-Trì Long-vương, Đại-Kim-Diện Long-vương, Như-Ý-Bảo-Châu Long-vương, Vũ-Diệu-Trân-Bảo Long-vương, Thường-Chú Cam-Vũ Long-vương, Hữu Đại-Uy-Đức Long-vương, Cường-Lực Tự-Tại Long-vương… Trong các vị Long-vương ấy, Sa-Kiệt-La Long-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều ưa-thích diệu-pháp Đại-thừa, phát thệ-nguyện rộng, cung-kính hộ-trì chính-pháp[36]. Tất cả các vị Đại-Long-Vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có năm vạn tám nghìn Dược-xoa-thần[37], như: Đại-Sư-Tử-Vương Dược-xoa-thần, Chuyển-Luân-Quang-Chiếu Dược-xoa-thần, Diệu-Na-La-Diên Dược-xoa-thần, Thậm-Khả-Bố-Úy Dược-xoa-thần, Liên-Hoa-Quang-Sắc Dược-xoa-thần, Chư-Căn-Mỹ-Diệu Dược-xoa-thần, Ngoại-Hộ Chính-Pháp Dược-xoa-thần, Cúng-Dàng Tam-Bảo Dược-xoa-thần, Vũ-Chúng Trân-Bảo Dược-xoa-thần, Ma-Ni-Bát-La Dược-xoa-thần… Trong các Dược-xoa-thần ấy, Tăng-Thận Nhĩ-Tà Dược-xoa-thần làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ trí-quang (ánh sáng trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-cự (ngọn đuốc trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-hành (hành-tướng trí-tuệ) khó nghĩ bàn, trí-tụ (giới-đức trí-tuệ) khó nghĩ bàn, mà thường vì chúng-sinh chế-phục những ác-quỷ, khiến họ được an-vui, làm cho phúc-đức, trí-tuệ được tăng-trưởng, diên-trường và giữ-gìn Đại-thừa-pháp không đoạn-tuyệt[38]. Tất cả các vị Dược-xoa-thần ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc, cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có tám vạn chín nghìn Càn-thàt-bà-vương[39], như: Đỉnh-Thượng-Bảo-Quan Càn-thát-bà-vương, Phổ-Phóng Quang-Minh Càn-thát-bà vương, Kim-Cương Bảo-Chàng Càn-thát-bà-vương, Diệu-Âm Thanh-Tịnh Càn-thát-bà-vương, Biến-Chí Chúng-Hội Càn-thát-bà-vương, Phổ-Hiện Chư-Phương Càn-thát-bà-vương, Ái-Nhạo Đại-Thừa Càn-thát-bà-vương, Chuyển Bất-Thoái-Luân Càn-thát-bà-vương… Trong các vị Càn-thát-bà-vương ấy, Chư-Căn Thanh-Tịnh Càn-thát-bà-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đối với Đại-thừa đều sinh lòng ái-kính sâu-xa, làm lợi-lạc cho chúng-sinh, không bao giờ lười chán, mệt-mỏi[40]. Tất cả các vị Càn-thát-bà-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có nghìn ức A-tu-la-vương[41], như: La-Hầu-La A-tu-la-vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-tu-la-vương, Xuất-Hiện Uy-Đức A-tu-la-vương, Đại-Kiên-Cố-Lực A-tu-la-vương, Mỹ-Diệu Âm-Thanh A-tu-la-vương, Quang-Minh Biến-Chiếu A-tu-la-vương, Đấu-Chiến Hằng-Thắng A-tu-la-vương, Thiện-Sảo Huyễn-Hóa A-tu-la-vương… Trong các vị A-tu-la-vương ấy, Quảng-Đại Diệu-Biện A-tu-la-vương làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều khéo tu-tập, bỏ mọi ngã-mạn, thụ-trì Đại-thừa, tôn-trọng Tam-bảo[42]. Tất cả các vị A-tu-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có năm ức Ca-lâu-la-vương[43] như: Bảo-kế Ca-lâu-la-vương, Kim-cương Tịnh-quang Ca-lâu-la-vương, Tốc Tật Như Phong Ca-lâu-la-vương, Hư-không Tịnh-tuệ Ca-lâu-la-vương, Diệu-Thân Quảng-đại Ca-lâu-la-vương, Tâm Bất Thoái-chuyển Ca-lâu-la-vương, Quảng-mục Thanh-tịnh Ca-lâu-la-vương, Đại Phúc Bảo Mãn Ca-lâu-la-vương, Hữu Đại-uy-đức Ca-lâu-la-vương, Trí-tuệ Quang-minh Ca-lâu-la-vương. Trong các vị Ca-lâu-la-vương ấy, Bảo-quang Ca-lâu-la-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đều thành-tựu "bất khởi pháp-nhẫn”, khéo đem lại được những sự lợi-ích cho hết thảy chúng-sinh[44]. Tất cả các vị Ca-lâu-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có chín ức Khẩn-na-la-vương[45] như: Động-địa Khẩn-na-la-vương, Diệu Bảo Hoa-Chàng Khẩn-na-la-vương , Bảo-Thụ Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Thiện-Pháp Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Tối Thắng Trang-nghiêm Khẩn-na-la-vương, Hỏa Pháp Quang-minh Khẩn-na-la-vương, Thụ-trì Diệu-pháp Khẩn-na-la-vương, Diệu-Bảo Nghiêm Sức Khẩn-na-la-vương, Thành-tựu Diệu-quán Khẩn-na-la-vương…Trong các Khẩn-na-la-vương ấy, Duyệt-ý Nhạc-thanh Khẩn-na-la-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ diệu-tuệ thanh-tịnh, thân-tâm khoái-lạc, du-hí tự-tại[46]. Tất cả các vị Khẩn-na-la-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có chín vạn tám nghìn Ma-hầu la-già-vương[47] như: Diệu-Kế Ma-hầu-la-già-vương. Cụ đại-uy-đức Ma-hầu la-già-vương, Trang-nghiêm bảo kế Ma-hầu-la-già-vương, Tịnh-nhãn vi-diệu Ma-hầu-la-già-vương, Quang-minh bảo chàng Ma-hầu-la-già-vương, Sư-tử hung ức Ma-hầu-la-già-vương, Như sơn bất động Ma-hầu-la-già-vương, Khả ái quang-minh Ma-hầu-la-già-vương… Trong các Ma-hầu-la-già-vương ấy, Du-hí thần-thông Ma-hầu-la-già-vương làm Thượng-thủ. Các vị ấy đã tu-tập được phương-tiện thiện-sảo, làm cho mọi chúng-sinh bỏ hẳn "ái-triền”[48]. Tất cả các vị Ma-hầu-la-già-vương ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có các Chuyển-luân thánh-vương[49] trong vạn ức quốc-độ ở phương khác như: Kim-luân chuyển-luân thánh-vương, Ngân-luân chuyển-luân thánh-vương, Đồng-luân chuyển-luân thánh-vương, Thiết-luân chuyển-luân thánh-vương, cùng với quyến-thuộc nghìn con Thất-bảo, trang-nghiêm vô-lượng voi, ngựa, xe-cộ, vô số bảo-chàng, treo bảo-phan lớn, hoa-man, bảo-cái, tơ lụa, bạch-phất, mọi chuỗi ngọc báu trân-kỳ, vi-diệu, đồ-hương, mạt-hương, hòa-hợp muôn thứ hương lạ vi-diệu. Và, mỗi người đều cầm lò hương bằng mọi thứ báu vô-giá, đốt hương đại-bảo cúng-dàng Thế-Tôn, cùng đem những lời nói vi-diệu khen-ngợi trí-tuệ như bể rất sâu của Như-Lai, rồi bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Nay chúng tôi không cầu quả-báo Nhân, Thiên hữu-lậu trong ba cõi, chúng tôi chỉ cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác xuất-thế-gian mà thôi. Sở dĩ thế là sao? - Vì, trong ba cõi, tuy ở ngôi tôn, hưởng phúc vui trong Nhân, Thiên nhưng, khi phúc đời trước hết lại phải sinh vào ác-thú, chịu vô-lượng khổ; như thế ai là người có trí-tuệ lại ưa-thích sự vui sướng ở thế-gian này!”[50] Các vị Chuyển-luân nói lời ấy rồi, đều nhất tâm chắp tay và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc của các vị ấy, đều cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.
 
Lại có mười sáu vị Đại-Quốc-Vương như: Tịnh-Phạn Đại-Vương nước Ca-tỳ-la, Tần-bà-sa-la-vương nước Ma-già-đà, Ca-tư-đại-vương nước Ba-la-nại, Vu-xiển Đại-vương nước Hữu-vu-đà, Ca-tỳ na-vương nước Sa-la… Trong mười sáu Đại-vương và các Tiểu-vương ấy, vua Ba-tư-nặc, quốc-chủ nước Xá-vệ tên là Nguyệt-quang làm Thượng-Thủ. Các vị ấy đều đầy-đủ phúc-trí[51] thần-thông, có uy-đức lớn như Chuyển-luân-vương; hết thảy oán-địch tự-nhiên hàng-phục, nhân dân rất thịnh, đất nước giàu vui. Các vị ấy trồng mọi căn lành nơi vô-lượng Phật nên thường được chư Phật hộ-niệm. Trong kiếp Trang-nghiêm (quá-khứ) nghìn đức Phật ra đời, các Đại-vương, Tiểu-vương ấy thường làm thí-chủ; trong Hiền-kiếp (hiện-tại) nghìn đức Phật ra đời, các Đại-vương, Tiểu-vương ấy cũng làm thí-chủ; trong kiếp Tinh-tú sau này nghìn đức Phật ra đời các vị ấy cũng sẽ làm thí-chủ; cho đến đời vị-lai hết thảy chư Phật xuất hiện thế-gian các Đại-vương, Tiểu-vương ấy đem bản nguyện-lực, thường làm việc bố-thí lợi-ích chúng-sinh, tùy nghi vào suốt các cửa phương-tiện. Các vị ấy tuy làm Quốc-vương nhưng, không tham sự vui sướng thế-gian, các vị ấy chán bỏ sinh-tử, tu nhân giải-thoát, cần cầu Phật-đạo, ưa-thích Đại-thừa, hóa-lợi quần-sinh, không chấp-trước các tướng, nối dòng Tam-Bảo, khiến hạt giống ấy không đoạn-tuyệt. Các vị ấy vì duyên nghe pháp, cúng-dàng Như-Lai, sắm nhiều đồ ăn quý báu, kính-cẩn đem hương hoa đến nơi Phật, cùng với một vạn, hai vạn cho đến nghìn vạn các quyến-thuộc, cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[52].
 
Lại có các phu-nhân của mười sáu Đại-quốc-vương như: Vi-đề-hy phu-nhân, Diệu-thắng-man phu-nhân, Thậm-khả ái-nhạo phu-nhân, Tam-giới vô tỷ phu-nhân, Phúc báo quang-minh phu-nhân, Như-ý bảo-quang phu-nhân, Mạt-lỵ phu-nhân, Diệu-đức phu-nhân…Trong các phu-nhân ấy, Thù-thắng diệu-nhan phu-nhân làm Thượng-thủ. Các phu-nhân ấy đã nhập được vô lượng chính-định. Song vì muốn độ chúng-sinh, các phu-nhân ấy thị hiện nữ-thân, dùng ba môn giải-thoát[53] tu tập tâm mình mà có đại trí-tuệ, phúc-đức viên-mãn, vô duyên đại-từ, vô ngại đại-bi, thương xót chúng-sinh như con đỏ. Do bản-nguyện-lực, các phu-nhân ấy được gặp Thế-Tôn và vì muốn nghe pháp nên tới nơi Phật, chiêm-ngưỡng Tôn-nhan, mắt không tạm chợp. Các phu-nhân ấy đem vô-lượng thứ thượng-cúng trong cõi người , kính dâng lên Thế-Tôn cùng đem vô-số chuỗi ngọc báu nhiệm-mầu cúng-dàng lên Như-Lai, rồi các phu-nhân ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[54].
 
Lại có vô số người như: Tỷ-khưu, Tỷ-khưu-ni[55], Ưu-bà-tắc[56], Ưu-bà-di[57], các Bà-la-môn[58]. Sát-đế-lỵ[59], Phệ-xá[60], Thú-đạt-la[61], cùng các Trưởng-giả[62], Cư-sĩ[63], hết thảy nhân-dân trong các quốc-giới. Các đại-chúng ấy phát khởi lòng tin thanh-tịnh, ân-trọng, vì xưa đã trồng căn lành, nên sinh gặp Phật-pháp và vì cầu đạo xuất-thế, nên khởi ra tưởng khó gặp, mà tới nơi Phật. Tới nơi Phật, các vị ấy đều phát-tâm, chắp tay và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.[64]
 
Lại có vô số các đồ-chúng ngoại-đạo như: Khổ-hạnh ngoại-đạo, Đa-văn ngoại-đạo, Thế-trí ngoại-đạo, Nhạo-viễn-ly ngoại-đạo, Lộ-già-gia-đà[65] ngoại-đạo, mà Lộ-già-gia-trị-ca-nễ ngoại-đạo làm Thượng-thủ. Các ngoại đạo ấy thành-tựu năm pháp thần-thông[66] bay đi tự-tại. Và, phát-tâm hy-hữu, vì nhân-duyên nghe pháp nên lại nơi Phật, cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng tới pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp.[67]
 
Lại có vô-lượng, vô số phi-nhân[68] ngã-quỉ[69] như: Vô-tài-quỉ, Thực-nhân-thổ-quỉ, Não-chúng-sinh-quỉ, Thực-di-thóa-quỉ, Thục-bất bão-quỉ, Tỳ-xá-xà-quỉ[70], Sú-cực-sú-quỉ, Thực phẩn-uế-quỉ, Thực-nhân-thai-quỉ, Thực-sinh-tử-quỉ, Thực-bất-tịnh-quỉ, Sinh-cát-tường-quỉ. Trong các quỉ ấy, Tỳ-lô-đà-già đại quỉ-thần-vương làm Thượng-thủ. Các quỉ ấy lìa bỏ tâm độc-ác, quy-y Phật, Pháp, Tăng và đều vệ-hộ chính-pháp của Như-Lai. Các quỉ ấy vì duyên nghe pháp nên lại nơi Phật, năm thể[71] gieo xuống đất lễ Phật và khát-ngưỡng công-đức Phật, nên các quỉ ấy cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[72].
 
Lại có vô-lượng vô số các vua cầm-thú như: Mệnh-mệnh điểu-vương, Anh-vũ điểu-vương, cùng Sư-tử-vương, Tượng-vương, Lộc-vương. Trong hết thảy các vua cầm-thú ấy Kim-sắc sư-tử-vương làm Thượng-thủ. Các vua cầm-thú ấy đều quy-mệnh Như-Lai đại-sư, vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật và đều tùy nguyện-lực mà cúng-dàng lên Thế-Tôn. Các vua cầm-thú ấy bạch Phật rằng: "Kính xin Như-Lai thương nhận chút ít thứ cúng-dàng của chúng tôi! Chúng tôi mong bỏ hẳn hạt giống ác-nghiệp trong ba đường[73], được hưởng quả-báo phúc-lạc trong Nhân, Thiên; xin Như-Lai mở tỏ pháp-môn Cam-lộ Đaị-thừa, để chúng tôi chóng dứt được ngu-si và sẽ được giải-thoát! ” Khi các vua cầm-thú nói lời ấy rồi đều nhất tâm, chắp tay chiêm-ngưỡng Như-Lai và cùng với hàng trăm, nghìn quyến-thuộc cùng ngồi lại pháp-hội nghe Phật thuyết-pháp[74].
 
Lại có trăm nghìn Diễm-ma-la-vương[75] cùng vô số các Đại-la-sát[76] đủ mọi hình loại, mọi ác-vương, quyến-thuộc chốn u-minh và những ngục-lại[77] coi giữ việc hình, tra xét tội-phúc, nhờ uy-lực Phật, dứt bỏ tâm ác, cùng Diễm-ma-la-vương cùng lại nghe pháp, bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Hết thảy chúng-sinh vì ngu-si, tham năm dục-lạc[78], tạo năm tội nghịch[79] nên phải vào trong các địa-ngục[80], bị luân-chuyển vô cùng. Sở dĩ bị thế, là do chỗ nghiệp-nhân của mình mà phải chịu khổ-não nhiều, cũng như con tằm, con kén ở đời, tự mình làm ra sự ràng-buộc lấy mình! Kính xin Như-Lai rưới mưa đại-pháp để diệt lửa địa-ngục, tỏa gió mát lành, mở cửa giải-thoát để đóng ba ác-thú lại!” Khi Diễm-ma-vương nói lời ấy rồi, đem mọi thứ trân-bảo cúng-dàng lên Như-Lai, nhất tâm cung-kính nhiễu Phật trăm nghìn vòng và cùng với hàng trăm nghìn quyến-thuộc đều lễ xuống chân Phật, rồi lui ngồi về một bên để nghe Phật thuyết-pháp[81].
 
Bấy giờ, đức Thế-Tôn ngồi trên tòa sư-tử[82] kết hoa sen báu. Tòa sư-tử ấy, mầu lưu-ly biếc, do các thứ ngọc lạ tô-điểm cách kẽ vào thành. Hoa sen, ken ngọc báu pha-lê làm cuống sen, vàng ròng mầu tía làm cánh sen và dùng ngọc ma-ni làm tua hoa trong đài sen. Có tám vạn bốn nghìn hoa sen lớn quý bằng vàng tốt của châu Nam-diêm phù-đề[83] làm quyến-thuộc. Đức Phật được đại-chúng nhiễu quanh trước sau, cúng-dàng, cung-kính, tôn-trọng, tán-thán.[84]
 
Khi ấy, đức Thế-Tôn ngồi kết gia-phu[85] trên tòa sư-tử, uy-nghi thù-thắng lạ-lùng, cũng như núi Tu-di[86] do bốn thứ báu[87] tạo-thành, ở trong bể lớn, tự-nhiên lóe ra như trăm nghìn mặt trời soi sáng hư-không, phóng ra vô-lượng ánh-sáng, phá mọi tối-tăm. Và, cũng như ức vầng trăng tròn-trịa ở trong các đám sao, phóng ra ánh-sáng mát-lành làm sáng-sủa thế-giới. Ngài nhập "Hữu-đỉnh-thiền cực-thiện tam-muội[88]” gọi là "Tâm anh-lạc bảo-trang-nghiêm-vương”.[89] Ngài trụ nơi định ấy, thân tâm không động.
 
Lúc đó, hết thảy Thiên-tử trên Vô-sắc-giới[90], rải vô-lượng thứ hoa hương vi-diệu, từ trong hư-không như mây sa xuống. Mười tám Phạm-vương trên các cõi trời thuộc Sắc-giới,[91] rải vô số những thiên-hoa tạp sắc, cùng trăm nghìn vạn thứ diệu-hương cõi Phạm-thiên[92], đầy khắp hư-không như mây sa xuống. Chư Thiên cùng Thiên-tử-chúng trên sáu cõi trời thuộc Dục-giới  [93], dùng phúc-lực cõi thiên, rải mọi thứ hoa, như: Hoa Ưu-đàm bát-la, hoa Ba-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, hoa Chiêm-bặc-ca, hoa A-đề-mục-đa, hoa Ba-lỵ-thi-ca, hoa Tô-ma-na, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa[94] ở trong hư-không tần-vần rơi xuống, cúng-dàng Phật và chúng Pháp-bảo. Lại rắc những bảo-hương vô giá trên cõi trời, bảo-hương ấy như mây, hóa thành mầu sắc trăm báu và dùng thần-lực cõi thiên, làm cho hơi hương tỏa khắp các thế-giới cõi này, để cúng-dàng đại-hội.
 
Khi đức Thế-Tôn từ trong thiền-định dậy, ngay nơi bản-tọa Ngài lại nhập "Sư-tử phấn-tấn tam-muội”,[95] hiện đại thần-thông, khiến tam-thiên đại-thiên thế-giới[96] này có sáu thứ chấn-động. Là: động, động mạnh, động mạnh khắp; tóe ra, tóe ra mạnh, tóe ra mạnh khắp; rung, rung mạnh, rung mạnh khắp: đánh, đánh mạnh, đánh mạnh khắp; gầm, gầm mạnh, gầm mạnh khắp; nổ, nổ mạnh, nổ mạnh khắp. Lại, thế-giới này, phương đông tóe ra, phương Tây tắt đi, phương Tây tóe ra, phương Đông tắt đi, phương Nam tóe ra, phương Bắc tắt đi, phương Bắc tóe ra, phương Nam tắt đi, ở giữa tóe ra, ở bên tắt đi, ở bên tóe ra, ở giữa tắt đi. Đất của thế-giới này trang-nghiêm, trong sạch và đều mềm nhũn, làm tốt, lớn cỏ cây, lợi-ích mọi loài. Do những chấn-động ấy, làm cho trong tam thiên giới không còn có địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh[97] nữa và những chún-sinh trong ác-thú khác bị đau khổ không được rảnh-rang cũng đều được khỏi khổ, xả thân này, được sinh vào đạo người và sáu cõi trời thuộc Dục-giới. Họ đều biết mệnh kiếp trước, đều vui mừng hớn hở và đồng đến nơi Phật, đem tâm ân-trọng, đỉnh lễ xuống chân Phật, mang các thứ ngọc báu, cùng vô số chuỗi ngọc cúng-dàng lên Phật và giác-ngộ nghĩa "tam luân không”[98] để báo ơn Phật.
 
Bấy giờ, ở nơi ngực và những lỗ chân lông của Như-Lai phóng ra hào-quang sáng lớn gọi là "Chư Bồ-tát du-hí thần-thông”, khiến các Bồ-tát không thoái-chuyển tâm vô thượng chính-đẳng chính-giác. Sắc của hào-quang sáng ấy như sắc vàng của Nam-diêm-phù-đề. Và, sắc hào-quang vàng ấy soi khắp tam thiên đại-thiên thế-giới cùng các thế-giới khác. Cho đến trăm ức núi Diệu-cao-sơn vương, hết thảy Tuyết-sơn, Hương-sơn, Hắc-sơn, Kim-sơn, Bảo-sơn, Di-lâu-sơn[99], Đại-di-lâu-sơn, Mục-chân-lân-đà-sơn[100], Đại mục-chân-lân-đà-sơn, Tiểu-thiết-vi-sơn, Đại thiết-vi-sơn, sông lớn, sông con, bể cả, suối chảy, ao tắm và đến trăm ức thế-giới trong bốn đại-châu[101], mặt trời, mặt trăng, sao, thiên-cung, long-cung, các tôn-thần-cung, những quốc-ấp-vương-cung, làng xóm. Cùng nơi cõi Diêm-ma-la có những tướng trạng của chúng-sinh tội nghiệp chịu khổ trong tám ngục hàn[102] tám ngục nhiệt[103] và các địa-ngục khác. Cả đến những tướng-trạng chịu khổ của súc-sinh, ngã-quỷ trong mười phương[104], những tướng trạng chịu sướng, khổ của chúng-sinh thuộc năm thú[105] trong hết thảy thế-gian…, tất cả những tướng-trạng như thế đều hiện trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này.
 
Lại, trong hào-quang này ảnh-hiện ra mọi tướng-mạo của các vị Bồ-tát tu-hành Phật-đạo. Như Thích-Ca Bồ-tát trong thời xa xưa làm vua Quang-minh, khi tối-sơ phát tâm vô thượng chính-đẳng, chính-giác, cho đến lúc thành Phật-đạo dưới gốc Bồ-đề, nhập Niết-bàn trong rừng Sa-la. Và, trong khoảng giữa ba vô số trăm vạn kiếp, có hết thảy những sự về từ, bi, hỷ, xả, cùng tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật cũng đều hiện đủ.
 
Như trong thời quá-khứ, Bồ-tát làm Kim-luân-vương, cai trị bốn thiên-hạ cho đến tận cùng bể cả, Bồ-tát đem chính-pháp giáo-hóa-thế-gian qua vô-lương kiếp, nhân-dân rất thịnh, đất nước giầu vui, hết thảy của quý báu đầy dẫy quốc-giới. Khi ấy, Kim-luân-vương kia, quán-sát thế-gian đều là vô-thường, chán năm dục-lạc, bỏ ngôi Kim-luân, xuất-gia học đạo. Hoặc khi Bồ-tát làm ái-tử của vị Đại-quốc-vương, xả thân-mệnh, gieo mình vào nơi hổ đói. Hoặc khi Bồ-tát làm Thi-tỳ-vương cắt thịt mình cứu chim cáp. Hoặc khi Bồ-tát xả thân lộc-vương (con hươu đầu đàn) cứu con hươu chửa. Hoặc khi Bồ-tát vì cầu nửa bài kệ[106] mà xả toàn thân nơi núi Tuyết. Hoặc hiện thân thụ-sinh nơi nhà vua Tịnh-Phạn[107], bỏ sáu vạn thể-nữ, cùng bỏ mọi thứ kỹ-nhạc tuyệt hay nơi hậu-cung mà vượt thành xuất-gia; sáu năm tu khổ-hạnh, ngày ăn hạt vừng (mè), hạt gạo, hàng được các ngoại-đạo; dưới gốc Bồ-đề phá ma-quân, được vô thượng chính-đẳng chính-giác. Có hết thảy tướng-mạo của trăm nghìn hằng-sa hành-nguyện khó nghĩ, bàn như thế, đều hiện rõ trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này .
 
Lại, trong hào-quang này ảnh-hiện ra tám bảo tháp lớn không thể nghĩ, bàn được của Như-Lai là: bảo-tháp kỷ-niệm nơi sinh trong cung vua Tịnh-Phạn nước Câu-sa-la (?); bảo-tháp kỷ-niệm khi thành Phật dưới gốc cây Bồ-đề, bên thành Già-gia (Gaya) nước Ma-già đà (Magadha); bảo-tháp kỷ-niệm khi Ngài bắt đầu chuyển-pháp-luân[108] độ-sinh trong vườn Lộc-giả (Mrgadàva) nước Ba-la-nại (Vàranasi, Benares); bảo-tháp tại vườn của ông Cấp-cô-độc trong nước Xá-vệ (Sràvasti) kỷ-niệm nơi Ngài cùng các ngoại-đạo luận-nghị sáu tháng mà Ngài được thanh-danh là "Nhất-thiết-trí”[109]; bảo tháp tại bên thành Khúc-nữ (Kanyakudja) nước An-đạt-la (?) kỷ-niệm sự thần-dị[110] khi Ngài lên Đao-lỵ-thiên, thuyết-pháp cho thân-mẫu, cùng Phạm-thiên-vương[111], Thiên-đế-thích[112] và mười hai vạn thính-chúng, từ Tam-thập tam-thiên hiện ra ba đường thềm báu xuống cõi Diêm-phù; bảo tháp tại núi Kỳ-xà-quật (Grjjakùta) bên thành Vương-xá (Ràjagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha) kỷ-niệm khi Ngài nói về các kinh Đại-thừa[113]: Đại-bát-nhã, Pháp-hoa Nhất-thừa tâm-địa kinh v.v…; bảo tháp tại rừng An-la-vệ (?), nước Tỳ-xá-ly (Vaisàli) kỷ-niệm lúc ông Trưởng-giả Duy-ma-cật (Vimalakirti) hiện bệnh trong sự bất-khả-tư-nghị; bảo-tháp kỷ-niệm lúc sẽ viên-tịch[114] của Ngài trong rừng Sa-la, bên sông Bạt-đề (Hiranyavati) nước Câu-thi-na (Kusinagara). Tám tháp như thế là hóa-nghi[115] của Đại-thánh, là chỗ quy-y, cúng-dàng cung-kính, làm nhân thành Phật của hữu-tình trong cõi người và cõi trời.
 
Như thế các âm-thanh cùng các ảnh-tượng là những sự khó nghĩ, bàn ở trong ba đời, đều ảnh-hiện trong hào-quang sáng lớn cả.
 
Lại, chư Phật trong ba đời ở mười phương thế-giới, cùng các Đại-bồ-tát chúng-hội nơi đạo-tràng[116], các sự thần-thông biến-hóa hiếm có và những tiếng nói pháp vi-diệu của các Như-Lai nói ra, đều ghi rõ như vang ứng tiếng, trong hào-quang sáng lớn sắc vàng này không có gì là không trông thấy, nghe thấy. Hết thảy chúng-sinh gặp hào-quang sáng này, thấy thụy-tướng kia đều phát tâm vô đẳng đẳng vô-thượng chính-đẳng chính-giác[117].
 
Khi đại-chúng trông thấy thần-lực bất khả tư-nghị của Phật ai cũng đều khen chưa từng có bao giờ và đều bảo nhau rằng: "Ngày nay Như-Lai nhập chính-định, phóng ra hào-quang sáng lớn soi khắp mười phương thế giới, được thấy Như-Lai trong thuở xa xưa có-những sự khó nghĩ, bàn để điều-phục những chúng-sinh tà-kiến trong đời ác-trọc, khiến họ sinh lòng tin, hiểu và biết xu-hướng về đạo Bồ-đề. Đức Như-Lai là bậc hiếm có! Ngài là cha của hết thảy thế-gian, trong vô-lượng kiếp khó thấy được Ngài. Chúng ta nhiều kiếp tu các hành-nguyện, nên nay được gặp đức thầy của Nhân, Thiên trong ba cõi. Kính mong đức Từ-Tôn thương xót thế-gian, từ thiền-định dậy, Ngài nói pháp sâu xa, chỉ dạy cho chúng-sinh được những sự lợi-lạc, vui-vẻ!” Hết thảy chúng-sinh nói lên lời ấy rồi đứng im, chiêm-ngưỡng dung-nhan đức Từ-Tôn.
 
Bấy giờ, trong pháp-hội có một vị Bồ-tát tên là Sư-tử-hống, trong ba vô-số kiếp, Bồ-tát đã tu-hành về phúc-đức, trí-tuệ, trong Hiền-kiếp này Bồ-tát sẽ được bổ vào ngôi Phật, nhận ngôi Quán-đỉnh[118], làm Đại-pháp-vương[119]. Bồ-tát hướng về bốn phương xem xét đại-chúng trong hải-hội, cất giọng tiếng to lớn nói rằng: "Trong vô-lượng kiếp xa xưa tôi đã phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác đã phụng-sự Hằng-sa chư Phật, đã từng ở nơi đệ-nhất chúng-hội đạo-tràng, được thấy những thần-thông biến-hóa bất tư-nghị của chư Phật. Nhưng, tôi chưa từng trông thấy hào-quang sáng sắc vàng này, ảnh-hiện hết thảy hành-nguyện của Bồ-tát, cùng hiện ra mọi tướng mạo của Như-Lai, làm cho tôi được thấy những sự khó nghĩ, bàn trong ba đời. Vậy, kính mong các Nhân-giả[120] nhất tâm, chắp tay, chiêm-ngưỡng Tôn-nhan, từ thiền-định dậy Ngài sẽ trao cho chúng-sinh thuốc Cam-lộ, trừ những bệnh nhiệt-não, làm cho chúng-sinh chứng được pháp-thân[121] thường, lạc, ngã, tịnh[122]. Các đức Như-Lai có hai pháp mà các Ngài không ở lâu trong chính-định: một là ĐẠI-TỪ, hai là ĐẠI-BI. Y vào ĐẠI-TỪ phải cho chúng-sinh được vui, y vào ĐẠI-BI phải nhổ đau khổ cho chúng-sinh. Bởi hai pháp ấy, trong vô-số kiếp các Ngài đã huân-tu nơi tâm các Ngài mà thành ngôi chính-giác. Chúng-sinh trong thế-gian nhiều khổ-não quá, do nhân duyên ấy, không bao-lâu nữa đức Như-Lai từ chính-định dậy, sẽ vì chúng-sinh diễn-thuyết về diệu-pháp "TÂM-ĐỊA-QUÁN MÔN” của Đại-thừa. Tôi xin kính-cáo đại-chúng: "Đại-chúng không nên cầu các phúc-lạc trong Nhân, Thiên - mà nên cầu ngay đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác xuất-thế-gian. Sở dĩ thế là sao? Ngày nay Thế-Tôn từ nơi ngực phóng ra hào-quang sắc vàng, những nơi bị soi tới cũng đều như sắc vàng cả, đó là sự hiển-thị của Phật có ý-thú rất sâu mà hết thảy Thanh-Văn[123], Duyên-giác[124] ở thế-gian hết sức suy-nghĩ đo lường cũng không thể biết được. Các vị còn trong phàm-phu địa, không quán tự-tâm, nên phải trôi-giạt trong bể sinh-tử! Chư Phật, Bồ-tát vì quán được tâm, nên qua được bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn. Pháp của Như-Lai trong ba đời đều như thế, các Ngài phóng ra hào-quang sáng ấy, không phải là không có nhân-duyên!”.
 
Tất cả chúng-hội, nghe Đại-sĩ (Bồ-tát) nói, trong tâm đều vui mừng hớn-hở, cho rằng gặp được sự chưa từng có bao giờ[125].
 
Bấy giờ, Sư-tử-hống Bồ-tát ma-ha-tát muốn tuyên lại nghĩa ấy bằng lời kệ sau này:
 
 
Kính lễ: Thiên, Nhân Đại-giác-tôn,
Hằng-sa phúc-trí đều viên-mãn;
Chúng-sinh trông thấy sinh lòng mến,
Tướng Kim-quang trăm phúc trang-nghiêm.
Mình ở ngôi tôn hơn ba cõi,
Công-đức tối-thắng gì sánh kịp;
Dùng sức thần-thông tự-tại khắp,
Tùy chỗ tạo-nghiệp, hiện trước họ.
Tôi dùng thiên-nhãn quán thế-gian,
Hết thảy không ai bằng được Phật;
Hiếm có kim-dung như trăng tròn;
Hiếm có còn hơn hoa Ưu-Đàm.[126]
Vô biên phúc-trí lợi quần-sinh,
Đại-quang soi như nghìn mặt trời,
Chúng-sinh ngu-si khổ nhiều kiếp,
Nhờ hào-quang soi trừ được cả.
Tôi quán Như-Lai hành-nguyện xưa,
Thân-cận cúng-dàng vô-số Phật;
Trải qua vô-số, vô-lượng kiếp,
Vì chúng-sinh rảo tới Bồ-đề.
Thường ở trong bể khổ sinh-tử,
Làm đại-thuyền-sư vớt mọi loài;
Diễn nói pháp chân-tịnh Cam-lộ,
Khiến vào cửa vô-vi[127] giải-thoát.
Ba vô-số kiếp độ chúng-sinh,
Siêng tu tám muôn Ba-la-mật[128];
Nhân tròn, quả đủ thành chính-giác,
Trụ yên thọ-mệnh không đi, lại.
Mỗi một tướng tốt khắp pháp-giới[129],
Tướng thập phương Phật đều thế cả;
Cảnh giới sâu xa khó nghĩ, bàn,
Hết thảy Nhân, Thiên không lường được.
Thể, dụng[130] chư Phật không sai khác,
Như nghìn đèn soi sáng càng thêm;
Trí-tuệ như không, không bờ-bến,
Ứng vật hiện-hình như trăng nước.
Vô-biên pháp-giới thường vẳng-lặng,
Như-như bất-động ví hư-không;
Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân,
Tự-nhiên đầy-đủ Hằng-sa đức.
Khắp cả pháp-giới không cùng-tận,
Không sinh, không diệt không đi, lại;
Pháp-vương thường ở Diệu-pháp-cung,
Ánh sáng pháp-thân soi khắp cả.
Pháp-tính Như-Lai không vướng-ngại,
Tùy duyên ứng khắp, lợi quần-sinh;
Chúng-sinh đều thấy ngay trước mình,
Vì mình tuyên nói pháp Cam-lộ.
Tùy tâm hay diệt các phiền-não,
Mọi khổ Nhân, Thiên đều giũ sạch;
Phá "có”, Pháp-vương rất lạ-lùng,
Ánh sáng soi sáng như núi vàng.
Vì độ chúng-sinh khỏi thế-gian,
Hay đốt đuốc PHÁP phá tăm-tối;
Chúng-sinh chìm trong bể sinh-tử,
Vòng quanh năm thú không kỳ ra.
Thiện-thệ[131] hằng làm diệu-pháp-thuyền,
Ngăn chặn dòng ái, tới ngàn kia;
Đại-trí phương-tiện không thể lường,
Thường cho chúng-sinh vui vô-tận.
Ngài là Cha lành của thế-gian,
Thương xót hết thảy hữu-tình-loại;
Như-Lai ra đời rất khó gặp,
Vô-số ức kiếp một lần hiện.
Như hoa Ưu-đàm: hoa "Diệu-thụy”,
Là hoa hiếm có trong người, trời;
Trong vô-lượng kiếp một lần hiện,
Thấy Phật ra đời cũng đồng vậy.
Các chúng-sinh ấy không phúc-tuệ,
Thường đắm-chìm trong bể sinh-tử;
Ức kiếp không thấy các Như-Lai,
Theo các nghiệp ác thường chịu khổ.
Chúng ta vô-số trăm nghìn kiếp,
Tu bốn vô-lượng,[132] ba giải-thoát;
Nay thấy Đại-thánh Mưu-Ni-Tôn,
Cũng như rùa mù gặp gỗ nổi.
Nguyện trong Hằng-sa kiếp đời sau,
Niệm niệm không bỏ Thiên-Nhân-Sư;
Như bóng theo hình không rời tạm,
Ngày đêm siêng tu về "Chủng-trí”[133].
Kính mong Thế-Tôn thương xót tôi,
Thường cho được thấy Đại-từ-tôn;
Ba nghiệp[134] tinh-tiến thường phụng-trì,
Nguyện cùng chúng-sinh thành chính-giác.
Nay Đại-đạo-sư trong ba cõi,
Xếp bằng trên tòa nhập chính-định;
Một mình vẳng-lặng nhà "không-tịch”,
Thân-tâm chẳng động như Tu-di.
Thế-gian hết thảy Phạm-thiên-ma,
Không thể cảnh-giác Như-Lai định;
Phàm, Thánh cõi này và phương khác,
Đều biết Điều-ngự[135] ở trong thiền.
Đặt nhiều đồ cúng rất nhiệm-mầu,
Kính dâng Năng-nhân:[136] tối-thắng-đức;
Chư Thiên Lục-dục lại cúng-dàng,
Hoa trời rơi rộn khắp hư-không.
Nén hương vô-giá do thập-thiện,[137]
Biến-hóa hương-vân màu bách bảo;
Che khắp vô-lượng chúng Nhân, Thiên,
Mưa lẫn diệu-bảo hiến Như-Lai.
Hơi hương ngào-ngạt trước Tam-bảo,
Trăm nghìn kỹ-nhạc ran không-giới;
Không gảy tự kêu thành diệu-khúc,
Cúng-dàng Thế-Tôn đủ phúc-tuệ.
Mười tám cõi Phạm rải thiên-hoa,
Và rải tạp-bảo nghìn muôn thứ;
Chuỗi ngọc Ma-ni[138] cõi Phạm-Ma,
Mọi báu dát trong áo cõi trời.
Chàng hoa đại-bảo treo phan tốt,
Cầm đến cúng-dàng Mưu-Ni-Tôn;
Cõi trời Vô-sắc rải hoa báu,
Hoa ấy rộng lớn như vành xe.
Rải hương vi-tế đầy thế-giới,
Cúng-dàng chính-định khó bàn, nghĩ;
Long-vương, Tu-la, nhân, phi-nhân,
Dâng trân-diệu-bảo do cảm-mến.
Đều đem cúng bậc Thiên-trung-thiên,
Ưa nghe đạo Bồ-đề tối-thắng;
Khi đấng Thế-Tôn: Đại-y-vương,
Khéo chữa phiền-não-khổ của đời.
Đấng Sư-tử chuyển sức Tam-muội,
Sáu thứ chấn-động khắp tam-thiên;
Dùng đó giác-ngộ kẻ có duyên
Trong ấy vô duyên không biết được
Tùy Nhân, Thiên kia có thể độ,
Thấy các thần-thông của đức Phật;
Chiêm-ngưỡng khuôn mặt Mưu-Ni-Tôn,
Ba nghiệp sạch rồi đều vân-tập.[139]
Như-Lai thường dùng vô-duyên từ,
Lợi-ích chúng-sinh thành thắng-đức;
Nơi ngực phóng đại-quang-minh này,
Là: "Chư Bồ-tát bất-thoái-chuyển”.
Như khi kiếp hết bảy mặt trời,
Hiện, phóng nghìn tia sáng chói-lọi;
Tất cả ánh sáng thế-gian có,
Không bằng tia sáng chân lông Phật.
Vô lượng đại-thần-quang vô-ngại
Soi khắp mười phương các cõi Phật.
Phúc-trí Như-Lai đều viên-mãn
Chỗ phóng thần-quang cũng khó lường.
Hào-quang rực-rỡ như sắc vàng,
Soi khắp mười phương bao quốc-độ;
Bóng hiện trong kim-quang của Phật
Sắc tượng thế-gian đều thấy rõ.
Tam thiên đại thiên thế-giới này,
Trong có hết thảy các sơn-vương;
Bốn báu tạo-thành núi Diệu-cao
Tuyết-sơn, Hương-sơn, Thất-kim-sơn.
Mục-chân-lân-đà, Di-lâu-sơn,
Đại-thiết-vi-sơn, và Tiểu-sơn;
Bể cả, giang hà cùng ao tắm,
Vô-số trăm ức bốn đại-châu.
Mặt trời, trăng, sao mọi bảo-cung;
Thiên-cung, Long-cung, các thần-cung
Quốc-ấp, vương-cung, các làng xóm,
Hào-quang đều hiển-hiện như thế.
Lại hiện nhân xưa của Như-Lai,
Tích công, góp đức cầu Phật-đạo;
Như-Lai xưa ở nước Thi-tỳ,
Từng làm Nhân-vương trên tôn-vị.
Ngọc báu đầy dẫy trong quốc-giới,
Thường đem chính-pháp dạy răn đời;
Từ-bi hỷ-xả thường không mỏi,
Bỏ sự khó bỏ lên Bồ-tát.
Cắt thân cứu chim cáp nào hối,
Thâm tâm thương xót cứu chúng-sinh.
Thuở xưa khi Phật tại phàm-phu,
Vào trong non Tuyết cầu Phật-đạo.
Nhiếp-tâm, dũng-mãnh chăm tinh-tiến,
Vì cầu nửa kệ xả toàn thân;
Vì bởi nhân-duyên cầu chính-pháp,
Trong mười hai kiếp vượt sinh-tử.
Khi xưa Ngài là Ma-nạp-tiên,
Trải tóc cúng-dàng Nhiên-Đăng-Phật;
Bởi vì nhân-duyên tinh-tiến ấy,
Tám kiếp vượt qua bể sinh-tử.
Thuở xưa làm Tát-Đóa vương-tử,
Bỏ thân yêu quý gieo miệng hổ;
Vì bởi nhân-duyên lợi người, mình,
Vượt nhân sinh-tử mười một kiếp.
Lưu-thủy trưởng-giả: đại-y-vương,
Bình-đẳng cứu-độ chúng-sinh-loại;
Vớt-cả đều được sinh thiên thượng,
Trời mưa chuỗi ngọc báo ơn lại.
Bảy ngày kiễng chân tán Như-Lai,
Bởi vì tinh-tiến vượt chín kiếp.
Thuở trước làm voi trắng sáu ngà,
Ngà đẹp lạ-lùng gì sánh kịp;
Bỏ thân mệnh mình cho người săn,
Cầu vô-thượng bồ-đề của Phật.
Hoặc làm Viên-mãn phúc-trí-vương,
Cho mắt tinh-tiến cầu Phật-đạo.
Lại làm Kim-sắc đại-lộc-vương,
Xả thân tinh-tiến cầu Phật-đạo.
Làm vua Từ-lực nước Ca-thi,
Toàn thân thí cho năm Dạ-soa.
Lại làm Trang-nghiêm-vương nước lớn,
Đem vợ con cho không sẻn tiếc.
Hoặc làm Tối-thượng-thân Bồ-tát,
Đầu, mắt, tủy, não, cho chúng-sinh;
Từ-bi Bồ-tát làm như thế,
Đều nguyện cầu chứng Bồ-đề-đạo.
Phật xưa từng làm Chuyển-luân-vương,
Bốn châu ngọc báu đầy-đủ cả;
Đầy-đủ nghìn con cùng quyến-thuộc,
Thập-thiện dạy người trăm nghìn kiếp.
Đất nước yên-ổn như thiên-cung,
Hưởng năm dục-lạc vô cùng tận;
Khi Luân-vương kia hiểu thân mình,
Và, cả thế-gian không bền chắc.
Chư thiên Vô-tưởng tám muôn tuổi,
Phúc hết trở về trong ác-đạo;
Như chiêm-bao dối cùng bọt, bóng,
Như móc sớm mai và ánh chớp.
Thấu rõ ba cõi như nhà lửa,
Tám khổ[140] đầy dẫy khó ra được;
Chưa được giải-thoát lên ngàn kia,
Ai người có chí thích luân-hồi?
Chỉ có Như-Lai thân xuất-thế,
Không sinh, không diệt thường an-lạc;
Những hạnh Bồ-tát khó làm ấy,
Hết thảy hiện trong hào-quang vàng.
Trong hào-quang này hiện tám tháp,
Là ruộng phúc tốt của chúng-sinh;
Tháp cung Tịnh-Phạn nhớ nơi sinh,
Tháp gốc Bồ-đề ghi thành Phật.
Tháp trong vườn Lộc quay xe pháp,
Tháp vườn Cô-độc ghi tiếng khen;
Tháp báu dựng bên thành Khúc-nữ,
Tháp nơi Linh-Thứu tuyên Bát-nhã.
Tháp Duy-ma-Cật tại Am-la,
Tháp trong Sa-la ghi viên-tịch;
Tám tháp của Phật ghi như thế,
Chư thiên, long-thần thường dâng cúng.
Kim-cương mật-tích bốn Thiên-vương,
Ngày đêm giữ gìn không dời bỏ.
Nếu xây tám tháp để cúng-dàng,
Hiện thân phúc thọ được lâu dài;
Trí-tuệ thêm lên, chúng tôn-kính,
Nguyện thế, xuất-thế đều viên-mãn.
Nếu ai lễ bái và tâm niệm,
Tám tháp như thế không nghĩ, bàn;
Hai người được phúc như nhau cả,
Chóng chứng đạo Bồ-đề vô thượng.
Những sự lợi-ích ba đời ấy,
Ở trong hào-quang đều thấy rõ.
Bồ tát trong mười phương cõi Phật,
Các Linh-tiên đầy-đủ thần-thông;
Chuyển-luân-vương trong muôn ức cõi,
Theo hào-quang này đều vân-tập.
Đều dùng thần-lực lại cúng-dàng,
Rải ngọc Như-ý dâng Từ-tôn;
Kỹ-nhạc chư thiên trăm nghìn thứ,
Không gảy tự ngân tiếng vi-diệu.
Hoa trời rơi rộn đầy hư-không,
Mọi hương xông khắp trong đại-hội;
Chàng báu vô-số các chuỗi ngọc,
Cầm đem cúng-dàng Nhân-trung-tôn.
Kệ-tụng nhiệm-mầu tán Như-Lai,
Quý thay thường nhập trong chính-định!
Hiện đại-thần-lực chẳng nghĩ, bàn,
Điều-phục chúng-sinh khó hóa-độ.
Kính mong Thế-tôn từ định dậy,
Vì mọi chúng-sinh chuyển-pháp-luân.
Dứt hẳn hết thảy các phiền-não,
Trụ nơi vô-trụ[141] Đại-Niết-Bàn!
Như hàng chúng tôi tâm thanh-tịnh,
Từ muôn ức nước lại nghe pháp.
Dùng sức chính-định thường xét kỹ,
Vật mọn kính xin Ngài thương nhận!
Người cho, bị cho và của cho,
Ở trong ba đời vô-sở-đắc[142].
Chúng tôi an-trụ tâm tối-thắng,
Cúng-dàng hết thảy mười phương Phật.
Đời đời thân-cận Đại-bi-chủ,
Thường thường phụng-sự Đại-từ-tôn;
Đem diệu-thiện-căn vô-sở-đắc,
Viên-dung pháp-giới về chân-giác.
Quá-khứ Như-Lai vào tịch-định,
Hiện đại-thần-thông quay xe pháp;
Nay Phật Thế-Tôn cũng lại thế,
Nhập-định, phóng quang đồng chư Phật.
Vì vậy nghĩ rằng Thích-sư-tử,
Quyết-định muốn nói Tâm-địa-môn.
Nếu muốn xa lìa sinh-tử-nhân,
Quyết hái quả chân-thường tam-thế.
Các vị chắp tay nhất tâm đợi,
Sẽ vào cung An-lạc Như-Lai.[143]


Xem dưới dạng văn bản thuần túy