× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Lương Hoàng Sám



Chương 04 PHÁT BỒ ÐỀ TÂM

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã cùng nhau rửa sạch tâm ô uế rồi, thập ác, ([1]) trọng chướng ([2]) không còn, nghiệp lụy dã hết, trong ngoài đều thanh tịnh.

Thứ lại xin học các vị Bồ tát tu hành trực đạo, công đức trí huệ do đó mà sanh. Bởi vậy, chư Phật thường khen ngợi sự phát tâm là đạo tràng, vì hay thành tựu được đạo quả vậy.

Nguyện xin đại chúng đều nên kiên tâm trì chí, chớ tưởng sống lâu mà đợi ngày lậu tận ([3]) chớ luống qua, sau ăn năn không kịp.

Bây giờ dà cùng nhau gặp thời buổi tốt, ngày đêm chớ để phiền não che lấp tâm tánh, phải nên nỗ lực phát tâm bồ đề.

Tâm bồ đề tức là tâm Phật công đức trí huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn.

Phát tâm một niệm còn được công đức như vậy huống gì phát tâm luôn luôn.

Giả sử lịch kiếp tu hành vô lượng phước đức, làm đủ hết thảy việc làm, không bằng một niệm phát tâm bồ đề trong muôn một. Toàn số thí dụ cũng không thể so lường được công đức, phát tâm bồ đề.

Lại như có người chỉ làm việc phước đức chớ không phát tâm vô thượng bồ đề; người ấy cũng như kẻ cầy ruộng không gieo giống. Mầm mống đã không gieo thì làm sao có lúa thóc.

Vì lý do ấy nên phải phát tâm bồ đề làm nhơn duyên cho việc chứng quả; trước là báo ơn chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài.

Sở dĩ Phật khen ngợi các thiện tử rằng:

“Lành thay! Lành thay! Như lời các ngươi nói là vì muốn lợi ích cho hết thảy chúng sanh”.

Phát tâm Bồ đề là cách cúng dường lớn hơn tất cả.

Phát tâm bồ đề, không phải là chỉ phát qua một phen mà phải phát luôn luôn; làm cho tâm bồ đề tương tục rộng lớn mãi mãi. Vì thế trong kinh Phật dạy rằng:

“Ở nơi chỗ na do tha hằng hà sa số đức Phật phát đại thiện nguyện”.

Vậy nên biết số phát tâm ấy là vô lượng.

Lại nữa tâm bồ đề chỉ gặp thiện tri thức liền phát, vị tất phải gặp Phật xuất thế.

Như Ngài Văn Thù Sư lợi Bồ tát, lúc đầu hướng về bồ đề là nhờ gặp được nữ nhân mà phát.

Nhưng phát sơ tâm huệ thức không phải kẻ phàm dung, tâm chí hạ liệt mà phát được. Phải là người có thật tâm khát ngưỡng Ðại thừa, tham cầu Phật pháp, y ỷ các kinh, xem thường thế sự, oán thân bình đẳng, lục đạo như nhau. Nguyện cho hết thảy chúng sanh nhờ sự phát tâm ấy mà được giải thoát, đều đồng tín giải. Nên biết sự phát tâm không phải là việc nói chơi, người tầm thường mà phát tâm được.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng đã phát bồ đề tâm thì quyết phải quán tưởng. Trước hết tưởng đến thân nhơn. Trong lúc trì niệm, chuyên tâm tưởng đến cha mẹ, sư trưởng của mình; rồi niệm tưởng đến địa ngục, ngã quỉ, súc sanh; Lại niệm tưởng đến chư Thiên, chư Tiên, hết thảy thiện thần.

Lại nghĩ đến nhơn đạo, hết thảy nhơn loại, có người đang chịu khổ làm sao mà cứu.

Thấy rồi lại tưởng, nên nghĩ thế nầy: Chỉ có cách phát tâm rộng lớn, tâm bồ đề mới có thể cứu được. Nếu tưởng đến một người thành rồi thì nên tưởng đến hai người. Hai người thành rồi thì tưởng đến ba người. Ba người thành rồi thì tưởng đầy một nhà. Một nhà thành rồi thì tưởng đến một do tuần. Một do tuần thành rồi thì tưởng đến đầy cõi diêm phù đề. Diêm phù đề thành rồi thì tưởng đến cả bốn châu thiên hạ.

Quán tưởng như vậy lần lần rộng khắp mười phương thế giới.
Thấy chúng sanh ở phương Ðông là cha mình.
Chúng sanh ở phương Tây là mẹ mình,
Chúng sanh ở phương Nam là anh mình,
Chúng sanh ở phương Bắc là em mình,
Chúng sanh ở phương dưới là chị em mình.
Chúng sanh ở phương trên là sư trưởng mình.
Chúng sanh ở bốn phương góc ([4]) kia là sa môn, bà la môn.

Thấy rồi nghĩ rằng:

“Nếu lúc nào những người ấy chịu khổ, tưởng ta phải đến nơi các người ấy mà thoa bóp thân thể cho họ, thề diệt hết đau khổ cho họ được giải thoát, rồi ta sẽ nói pháp cho họ nghe, bằng cách tán thán công đức của Phật, Pháp, Tăng.

Tán thán rồi, sanh lòng vui mừng, thấy họ an vui như ta không khác.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng phát Bồ đề tâm đều phải làm như vậy; ở trong đau khổ mà độ chúng sanh. Mọi người đều phải nhất tâm thống thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói, phát lời thệ nguyện như thế nầy:

Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, trong khoản thời gian ấy, sanh ở chỗ nào, cũng thường gặp được thiện tri thức, phát tâm vô thượng bồ đề. Nếu chúng con đọa trong ba đường ác, hay lâm phải tám nạn ([5]) thường khiến chúng con nhớ tưởng phát tâm bồ đề; làm cho tâm bồ đề tương tục không gián đoạn.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên phát tâm dõng mãnh, tâm ân trọng, tâm bồ đề; nhất tâm yha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ:

Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Dõng Thí Phật
Nam mô Thanh Tịnh Phật
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam mô Ta lưu na Phật
Nam mô Thủy Thiên Phật
Nam mô Kiên Ðức Phật
Nam mô Chiên đàn công đức Phật
Nam mô Vô lượng Cúc quang Phật
Nam mô Quang đức Phật
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Công đức Hoa Phật
Nam mô Kiên dõng tinh tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Ðệ tử chúng con tên . . . ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm Bồ đề, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tu đạo Bồ tát, thề không thối lui; hằng sanh tâm độ thoát chúng sanh, hằng sanh tâm an lập chúng sanh, hằng sanh tâm che chở chúng sanh; chúng sanh không thành Phật, chúng con xin thề không chịu chứng quả niết bàn trước chúng sanh.

Nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật chư Ðại Bồ tát, hết thảy thánh hiền, hiện tiền chứng minh cho chúng con, khiến chúng con tên . . . hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, dầu trải qua nhiều kiếp làm nhiều điều thiện mới được phước báu ở cõi người, cõi trời, chứ chưa chứng được quả xuất thế; chết rồi hết phước, trở lại đọa vào đường ác. Thân hình tan rã, tự mình chưa khỏi khổ não, chưa khỏi bức bách.

Nếu không lập thệ nguyện rộng lớn, không phát tâm bồ đề thì phước đâu mà trang nghiêm Pháp thân để xa lìa được khổ não.

Ngày nay cùng nhau nhất tâm nhất ý . . . tưởng nhớ chư Phật, khởi lòng tin kiên cố, phát tâm đại bồ đề.

Công đức phát tâm rất rộng lớn sâu xa, không thể so lường. Chư Phật và Bồ tát nói cũng không thể hết. Thiện lực như vậy, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn.

Thế nên chúng con đâu được không hết lòng chuyên tâm chú ý mà phát quảng đại bồ đề tâm.

Kinh Ðại Tập dạy rằng:

“Ví như trong một cái nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, cùng có thể phá tan mờ ám. Vậy nên chớ cho một niệm phát tâm là nhỏ, là không quan trọng, mà không nỗ lực.

Ðại chúng cùng nhau quỳ gối chắp tay nhất tâm tưởng nhớ đến hết thảy mười phương Tam bảo tâm niệm miệng nói lời nầy:

“Ðệ tử chúng con tên . . . nay đối trước hết thảy mười phương chư Phật, trước hết thảy mười phương tôn pháp, trước hết thảy mười phương Hiền Thánh , lòng ngay dạ thẳng, khởi tâm ân cần, trịnh trọng, tâm không buông lung, tâm an trú, tâm ưa điều thiện, tâm độ thoát hết thảy, tâm che chở hết thảy, tâm như tâm Phật, tâm phát tâm bồ đề.

Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật tâm không đắm trước cõi trời, cõi người, tâm không cầu chứng tiểu quả thanh văn, duyên giác mà chỉ phát tâm đại thừa, phát tâm cầu được nhất thế chủng trí, tâm cầu thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.

Nguyện xin mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật, Ðịa địa Bồ tát, hết thảy thánh hiền, đem sức bổn nguyện hiện tiền chứng giám cho chúng con, đem sức từ bi, gia tâm hộ trợ, nhiếp thọ chúng con, cho chúng con tên . . . ngày nay phát tâm, tại chỗ sở sanh, kiên cố không thối lui.

Nếu chúng con bị đọa vào ba đường ác, hoặc lâm phải tám nạn, ở trong ba cõi, chịu đủ thân hình, chịu đủ khổ sở không thể chịu được. Chúng con xin thề, không vì khổ ấy mà thối mất tâm bồ đề ngày nay. Thà chúng con chịu vào trong Ðại hỏa luân, vô gián địa ngục, chịu các thống khổ; chúng con không vì khổ mà thối mất tâm đại bồ đề ngày nay.

Tâm ấy, nguyện ấy đồng với tâm của chư Phật, đồng với nguyện của chư Phật.

Lại xin chí thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật không bỏ hai pháp sau đây:

- Một là biết tự tánh các pháp vốn không.

- Hai là độ thoát hết thảy mười phương chúng sanh”.

Cùng nhau chí thành nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, tâm niệm miệng nói:

Ðệ tử chúng con tên . . . không vì mình mà cầu vô thượng bồ đề, chính vì muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, cho nên cầu vô thượng bồ đề. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Ðạo, chúng con sẽ nâng đỡ hết thảy vô lượng vô biên chúng sanh; chúng con sanh lòng đại bi, cùng tận đời vị lai đối với tất cả chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào bị các ách nạn, trọng tội, trong ba đường, sáu nẻo, chúng con tên . . . thề không lánh khổ mà lại đem thân ra cứu hộ, làm cho các chúng sanh ấy được an ổn.

Nguyện xin mười phương cùng tận hư không giới, hết thảy Tam bảo chứng minh cho chúng con.

Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Liên Hoa Quang Phật
Nam mô Du Hý Thần thông Phật
Nam mô Tài Công đức Phật
Nam mô Ðức Niệm Phật
Nam mô Thiện danh xưng công đức Phật
Nam mô Hồng diệm đế tràng vương Phật
Nam mô Thiện du bộ công đức Phật
Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa thiện trụ Ta La Thọ Vương Phật
Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật
Nam mô Thiện Du Bộ Phật
Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Ðức Phật
Nam mô Khí Ấm Cái Phật
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô Biên thân Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát

Nguyện xin chư Phật, đem đại từ bi lực, hiện tiền chứng giám cho chúng con tên . . . ngày nay phát tâm bồ đề, tu đạo bồ tát, tại chỗ sở sanh, thành tựu được hết thảy điều thệ nguyện.

Chúng con đi đến đâu hết thảy chúng sanh đều được giải thoát. Chúng con lại xin đầu thành đảnh lễ hết thảy mười phương Tam bảo.

Chúng con tên . . . không vì tự thân mà cầu đạo vô thượng bồ đề. Chỉ vì hết thảy chúng sanh trong mười phương mà cầu chứng quả vô thượng bồ đề.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành phật nếu có chúng sanh nào ngu si, ám độn không biết chánh pháp sanh tâm tà kiến và có chúng sanh nào tuy tu đạo hạnh mà không thông đạt pháp tướng. Những chúng sanh như vậy cho đến cùng tận đời vị lai, chúng con tên . . . xin thệ nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực và bao nhiêu phương tiện khác, khiến các chúng sanh ấy đều được nhờ Phật lực hoàn toàn đầy đủ thành tựu nhất thế chủng trí.

Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật.

Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phổ Quang Phật
Nam mô Phổ Minh Phật
Nam mô Phổ Tịnh Phật
Nam mô Ða ma la bạt chiên Ðàn Hương Phật
Nam mô Chiên đàn Quang Phật
Nam mô Ma ni tràng Phật
Nam mô Hoan Hỉ tạng ma ni Bảo Tích Phật
Nam mô Nhất thế thế gian nhạo kiến thượng đại tinh tấn Phật
Nam mô Ma ni Tràng Ðăng Quang Phật
Nam mô Huệ Cự chiếu Phật
Nam mô Hải Ðức Quang minh Phật
Nam mô Kim cang Lao cường Phổ tán Kim quang Phật
Nam mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng mãnh Phật
Nam mô Ðại Bi Quang Phật
Nam mô Từ Lực Vương Phật
Nam mô Từ Tạng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên Thâm Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát

Nguyện xin chư Phật chư đại bồ tát đem đại từ bi lực, đại trí huệ lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, hàng phục tứ ma ([6]) lực, đoạn trừ ngũ cái ([7]) lực, diệt trừ phiền não lực, vô lượng thanh tịnh nghiệp trần lực, vô lượng khai phát quán trí lực, vô lượng khai phát vô lậu huệ lực, vô lượng vô biên thần thông lực, vô lượng độ thoát chúng sanh lực, vô lượng phú hộ chúng sanh lực, vô lượng an ổn chúng sanh lực, vô lượng đoạn trừ khổ não lực, vô lượng giải thoát địa ngục lực, vô lượng tế độ ngã quỉ lực, vô lượng cứu bạt súc sanh lực, vô lượng nhiếp hóa a tu la lực, vô lượng nhiếp thọ nhơn đạo lực, vô lượng tận chư thiên chư tiên lậu lực cụ túc trang nghiêm thập địa lực.

Cụ túc trang nghiêm tịnh độ lực,
Cụ túc trang nghiêm đạo tràng lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả công đức lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả tri huệ lực,
Cụ túc trang nghiêm Pháp thân lực,
Cụ túc trang nghiêm vô lượng bồ đề lực
Cụ túc trang nghiêm đại niết bàn lực.
Vô lượng vô tận công đức lực,

Nguyện xin mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật, chư đại Bồ tát, đem những năng lực vô lượng vô biên tự tại không thể nghĩ bàn ấy, không trái với thề xưa, không trái với nguyện xưa mà bố thí cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường cùng khắp mười phương và cho tất cả chúng sanh đồng đang phát tâm hôm nay.

Quyết định khiến cho tất cả chúng sanh ấy hoàn toàn đầy đủ các công đức lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề nguyện lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề hạnh lực.

Ngày nay hết thảy chúng sanh trong mười phương cùng tận đời vị lai, hoặc ẩn, hoặc hiện, hoặc oán, hoặc thân, hoặc không phải oán, thân ở trong bốn loài sáu đường có duyên hay vô duyên với Phật pháp, hết thảy đều nhờ pháp sám nầy hằng được thanh tịnh. Các chúng sanh ấy ở nơi nào cũng đồng được như sở nguyện; một lòng kiên cố, tâm không thối chuyển; đồng như chư Phật, đồng thành chánh giác; cho đến những chúng sanh đời sau, dầu trái với lời nguyện nầy cũng đều khiến các chúng sanh ấy được vào trong bể đại nguyện liền được đầy đủ, hoàn thành tựu công đức, trí huệ các chúng sanh ấy đồng với chư Bồ tát, viên mãn hạnh thập địa ([8]) hoàn toàn nhất thế chủng trí ([9]) trang nghiêm vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.

[B]CHÚ THÍCH[/B]

[1] Thập ác.- 10 ác:

Thân 3: Sát, đạo, dâm.

Miệng4: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu.

Ý 3: Tham sân si.

[2] Trọng chướng. – Chướng ngại rất nặng: chỉ cho vô minh phiền não, nghiệp hoặc tạo ra các tội thập ác ngũ nghịch v.v... chướng ngại không cho giải thoát.

[3] Lậu tận: hết các pháp hữu lậu được giải thoát.

[4] Phương góc: Bốn góc xéo: đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc.

[5] Tám nạn. – 1) Ðịa ngục, . – 2) Ngã quỉ – 3) Súc sanh . – 4) Cõi trời trường thọ – 5) Bắc Cu lô châu – 6) Ðui điếc, câm, ngọng – 7) Thế trí biện thông – 8) Sanh ra trước Phật hay sau Phật. Tám chỗ nầy không có Phật pháp, là tai nạn của sự giải thoát.

[6] Tứ ma. . – 1) Phiền não ma: Ma, tham sân si v.v... não hại thân tâm – 2) Ngũ ấm ma: Những sắc thọ, tưởng hành thức là ma não hai thân tâm, 3) Tử ma: Ma chết, hay cướp mạng sống – 4) Thiên ma: Ma trên cõi trời Tha hóa tự tại hay phá thiện pháp não hại người tu thiện.

[7] Ngũ cái: Năm thứ ngăn che tâm tánh – 1) Tham muốn – 2) Giận hờn – 3) Ngủ nghỉ gọi là “thụy ma” – 4) Xao động, phàn nàn trong tâm, gọi là “điệu hối” – 5) Nghi ngờ lời Phật.

[8] Thập Ðịa: 1)Hoan hỷ Ðịa, ─ 2) Ly cấu Ðịa, ─ 3) Phát quang Ðịa, ─ 4) Diệm huệ Ðịa, ─ 5) Nan thắng Ðịa, ─ 6) Hiện tiền Ðịa, ─ 7) Viễn hành Ðịa, ─ 8) Bất động Ðịa, ─ 9) Thiện Huệ Ðịa, ─ 10) Pháp vân Ðịa.

1.─ Hoan hỷ địa: Bồ tát thấy chúng sanh vì si mê tà kiến, đọa lạc nên phát tâm từ bi tu hạnh hỷ xả, bỏ cả thân tâm, không tiếc của cải nên cảm quả báo hoan hỷ.

2.─ Ly cấu địa: Bồ tát thấy chúng sanh tạo mười nghiệp ác, đọa vào đường tà nên phát tâm tu thập thiện, xả bỏ cấu uế.

3. ─ Phát quang địa: Bồ tát thấy chúng sanh si mê tâm tánh nên phát bồ đề tâm, như pháp mà tu hành nên trí huệ phát ra sáng suốt.

4. ─ Diệm huệ: Bồ tát thấy chúng sanh bị phiền não dày xéo nên phát tâm tu 37 phẩm trợ đạo, nên phát ra Diêm huệ.

5. ─ Nan thắng địa: Bồ tát thấy chúng sanh các hạ thừa say đắm cảnh hữu dư niết bàn, vừa vắng lặng, độc thiện kỳ thân, nên phát từ tâm tu bình đẳng gia hạnh ngộ được chơn đế và tục đế, được trí không sai biệt.

6. ─ Hiện tiền địa: Bồ tát thấy chúng sinh bị sa đọa luân hồi nên phát tâm tu hạnh bình đẳng lợi sanh nên cảm phát ra trí huệ hiện tiền.

7. ─ Viễn hành địa: Bồ tát vì phát thệ nguyện độ sanh, nên từ bi gia công tu tập tất cả những “pháp bồ đề phần” ngộ được tam muội: không, vô tướng, vô nguyện. Ba địa nầy tu về giả quán nhiều hơn, thiên về bên ngoài nên gọi là tri kiến.

8. ─ Bất động địa: Bồ tát không bỏ thệ nguyện, không chấp trước về tâm, ý, thức nên chứng được vô sanh pháp nhẫn, tất cả phiền não không còn lay động.

Nhưng đến địa vị nầy chư Phật luôn luôn kỉnh tỉnh Bồ tát phải nhớ lại bổn thệ nguyện độ sanh, nếu không thì Bồ tát cũng an trú bất động vào nội tâm không, không ra độ sanh.

9. ─ Thiện huệ địa: Bồ tát dùng vô lượng trí huệ quán sát đúng như sự thật hết thảy cảnh giới của chúng sanh, được trí huệ vô ngại, khéo thuyết pháp giáo hóa, lợi ích vô lượng cho chúng sanh.

10. ─ Pháp vân địa: Bồ tát do vô lượng trí huệ quán sát và hiểu biết tận tường tất cả các pháp tam muội hiện tiền, chứng được đạo quả như Phật thân như mây lành phủ khắp lên tất cả chúng sanh, trong hằng sa vô số vô lượng vô biên thế giới.

Từ địa thứ tám trở đi, đã chuyển được thức hành trì rồi nên quán sát bình đẳng, không giả nhất như, gọi là “Song Chiếu”.

Chữ Ðịa có nghĩa là Bồ tát dùng công đức trí huệ tu tâm luyện tánh kết thành quả địa, nương dựa vào đó mà tiến lên quả Phật.

Thập địa nấy trong kinh Hoa Nghiêm có dạy rõ.

[9] Nhất thế chủng trí: Trí huệ của Phật, khác với: Ðạo chủng trí là trí của Bồ tát và khác với nhất thế trí là trí của Thanh văn. Nhưng đứng về phương diện tổng quát mà nói thì, Nhất thế trí cũng là trí của Phật.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy