× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Hoa Thủ



33 - Phẩm thượng kiên đức thứ ba mươi ba

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị tỳ kheo tên là Kiên Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên mặt chắp tay cung kính bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn, con muốn phụng thờ kinh pháp, cũng như muốn cúng dường ba đời chư Phật và chư Bồ Tát đã học qua giáo pháp; cũng như muốn khuyến nhắc nhau làm tăng thêm căn lành. Do việc như trên nên nay được tôn phụng đức Thế Tôn, được lấy y trùm lên Như Lai, cũng như cầm y mà bạch Phật rằng: nay con đem chiếc y này dâng lên đức Thế Tôn, mong đời sau con sanh ra ở bất cứ nơi đâu đều được nghe pháp. Theo ý Phật con dâng hiến y này. Liền lúc đó Kiên Ý đến chỗ tỳ kheo Tinh Ðắc nói rằng: này Ngài thiện tri thức! Phật tán dương tôi nên tôi đem y này dâng cúng Như Lai, liền trao y cho Tinh Ðắc cầm, làm tăng thêm thiện căn của việc dâng y cúng Phật, trong lúc Như Lai hiện đại thần thông. Bấy giờ A Nan và bốn chúng (13) trong y đều thấy Như Lai hiện đủ lực thần thông biến hóa. A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay đức Thế Tôn! Như Lai biết rộng nên mới hỏi. A Nan, ông thấy nghĩa gì là hy hữu?

Lúc đó ngài A Nan muốn làm cho rõ việc trên nên dùng bài kệ bạch Phật rằng:

Với y này chúng con

thấy vô số Bồ Tát

Bồ Ðề tâm mãnh liệt.

Chẳng hành khen pháp Phật

cũng thấy chư Bồ Tát

đều từ y này phát

gần vô lượng trăm nghìn

a tăng kỳ loại y

gìn giữ các y xong

đem dâng mười phương Phật.

Ta thấy hiện đây kia

vô lượng thần thông lực

người dâng y cúng Phật

được Phật thọ ký cho.

Người ấy hành đạo theo

đều sẽ được làm Phật.

Tùy chỗ ở nơi đâu

làm cõi Phật tịnh thanh

và mỗi một chúng sanh

Phật quả được viên thành.

Lại thấy vô lượng ức

đủ các loại kỹ nhạc

tiếng pháp âm vừa phát

Từ không trung Phật nói

ta thấy ba nghìn cõi

chư Phật hiện đầy đủ

Thế Tôn, nay con nghĩ

tự cho chẳng Thanh Văn

lực thần thông hy hữu

làm choáng ngợp mắt con

dùng thánh trí vẹn tròn

xem ba cõi đều không.

Con nơi ‘không’ trí này

và ‘vô sanh trí’ thảy

trong các trí như thế

thường không mất chánh niệm

chỉ do nghiệp báo chuyển

trong đó có sai lầm

bốn chúng đều vui mừng

bay ở giữa không trung

đều ngồi trên đài sen

trên nghìn cánh sen xinh.

Lại cũng từ y kia

thấy mười phương thế giới

chư Phật thầy trong đời

đại chúng vây khắp nơi

Cũng thấy các thượng nhơn
bố thí khó nghĩ bàn

để cầu đạo Bồ Ðề

nên chưa hề xa Phật

Do nhờ nhân phước đức

chúng sanh được lợi lạc

Hay tự mình hóa hiện

thuyết pháp khắp mười phương.

Trong y ta thấy tường

việc ấy nói không cùng

Chư Bồ Tát khó lường

tâm hoan hỷ kính nhường

như Tự Tại Phạm Vương

thấu rõ lực thần thông

đa văn, biện luận tài

đều được đà la ni

chuyển xoay Phật huệ trí

khắp mười phương châu biến

Chư Bồ Tát cũng thấy

dạo chơi các thế giới

đều hóa thành vật quí

hương hoa để trang bị

Thấy Phật ngồi đạo tràng

chuyển pháp luân vô thượng

thần lực của Phật hiện

đều từ nơi y biến

dạo qua các thế giới

đủ thân hình biến hóa

thuyết pháp làm lợi chúng

khiến trụ đạo Bồ Ðề.

Thật là hy hữu thay

việc ấy khó thể tin

Thần lực Phật vô biên

cho chúng sanh thấy rõ

Phật làm ruộng phước báu

đệ nhất pháp nhận thí.

Kẻ thí đuợc quả quí

các khổ não trừ hủy.

Ta trong nghìn vạn kiếp

xưng tán cũng không hết.

Vì ai thị hiện tiếp

việc thần thông thiên biến.

Ai làm tịnh cõi Phật

tu tập đạo Bồ Tát.

Ai được thần lực này

mong Phật trừ nghi con

Hoa sen bảy báu tròn

cánh hình bánh xe lăn.

Bồ Tát ngồi ở trên

dạo đi khắp mười phương.

Quán Phật xong trở về

liền chứng đạo Bồ Ðề.

Thế giới tịnh nghiêm thế

hiện việc khó có thể

Con trong thế giới này

thấy có một Bồ Tát

khuyên người tu đạo giác

tay cầm y đạo đạt

việc này ngưỡng mong Phật

làm sao tu học được?

Ðây chắc xưa từng bố thí nhiều

thực hành tâm tùy hỷ rộng sâu

cùng chúng sanh tu pháp nhiệm mầu

đều an lạc như nay trông thấy.

Thế Tôn vì con nói việc này;

trừ sạch chúng sanh tâm nghi ngờ.

Tỳ kheo phát nguyện được như vầy

ấy là Tinh Ðắc vì Kiên Ý.


Phật bảo ngài A Nan đợi trong giây lát, Kiên Ý Bồ Tát có điều nghi vấn nên ta nhân đây mà đáp. Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: bạch đức Thế Tôn, con có điểm nghi muốn hỏi, nếu Phật chấp thuận con mới dám thưa. Phật bảo Kiên Ý: ông cứ việc hỏi, ta sẽ tùy nghi đáp cho ông được hài lòng. Lúc đó Kiên Ý thưa: bạch Thế Tôn, có pháp môn để nhập. Như thế pháp là gì? Môn là thế nào? Nhập là nghĩa làm sao? Ngưỡng mong đức Thế Tôn phân biệt đây là pháp, kia là môn, nên nhập như thế nào mới là nhập? Lúc đó Kiên Ý dùng bài kệ hỏi rằng:

Sao gọi là thượng pháp

cái gì gọi pháp môn ?

Làm sao vào cửa này

mong Phật giải đáp cho.

Làm sao vào cửa này

được đắc quả Bồ Ðề?

Làm sao lúc thuyết pháp

biện luận đều thông suốt

từ đâu đến gọi pháp?

Ðến đây trụ chỗ nào?

Trong các pháp làm sao

mà nghĩ đúng không sai?

Thế nào là sắp nhập?

và sao gọi đã vào?

Thuyết pháp phải làm sao

ở trước pháp hiện ra?

Lúc nói đủ pháp cả

làm sao tâm không loạn?

trong vô lượng muôn kiếp

biện tài không gián đoạn?

Chư Bồ Tát thành tựu

làm sao có chí cầu?

Nói pháp không bến bờ

mà tâm không thượng mạn?

Bồ Tát đây đời trước

thí, hồi hướng thế nào?

Ðời đời lúc thuyết pháp

biện tài không gián đoạn?

Và giữ giới thế nào

giới thanh tịnh làm sao?

Sao lấy giới hồi hướng

mà tâm không liệt nhược?

Làm sao tu nhẫn nhục

và tập nhẫn thế nào?

Do nhân đó cho đến

vô tận không bến bờ.

Làm sao khởi tinh tấn

tu pháp ấy thế nào?

đời đời được sanh ra

đạo Bồ Ðề không xa.

Làm sao tu thiền định

thế nào tập an tĩnh?

Trong định quán pháp gì

để được biện luận tài?

Cầu trí huệ thế nào

gần gũi tu tập đạo?

Huệ ấy ở tại đâu

mà không đoạn mất được?

Trụ pháp thiện vô thượng

thuyết các pháp thật tướng

trí tuệ Phật suy lường

không, vắng lặng vi diệu

đọc tụng đủ các kinh

hiểu rõ được nghĩa thú.

Song không muốn diễn nói

để lìa trí huệ thật.

Nghĩa này con hỏi Phật

trừ hết thảy chúng nghi

đời vị lai trở đi

cầu có các pháp sư

làm sao được thân cận?

Phải hỏi pháp thế nào?

tu tập phải làm sao?

Ủng hộ pháp cách nào?

Mong Phật dùng thần lực

vì con nói nghĩa thực

khiến cho đời vị lai

dứt trừ các lưới nghi.


Lúc đó Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát rằng: lành thay! lành thay! ông khéo hỏi Như Lai nghĩa sâu mầu ấy. Trong đời quá khứ ông đã ở nơi vô lượng các đức Phật gieo trồng phước đức, cúng dường, lễ bái, thọ sự hỏi đáp.

Này Kiên Ý, ta nhớ ông lúc xưa trong hư không của thế giới này đã từng theo hỏi sáu vạn tám nghìn đức Phật cũng nghĩa như thế. Lúc chư Phật trả lời những câu hỏi có vô số chúng sanh được nhiều lợi ích. Vì thế, nên biết ông trong quá khứ đã sâu trồng căn lành nơi các đức Như Lai rồi. Này Kiên Ý, lui về thời quá khứ vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp có đức Phật ra đời hiệu là Xuất Bảo Quang Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn sống lâu nửa kiếp. Phật có bảy mươi ức chúng A La Hán tâm được lậu tận tự tại. Phật Xuất Bảo Quang cùng đại chúng dạo qua các quốc độ để cùng an cư. Lúc đó cõi Diêm Phù Ðề đất đai rộng rãi ngang rộng bảy vạn do tuần. Lúc đó ở đời có người sát lợi Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thượng Kiên Ðức, cai trị bốn châu thiên hạ. Này Kiên Ý, lúc đó cõi Diêm Phù Ðề có tám mươi ức thành, các thành đều rộng lớn: chiều dài 40 do tuần, rộng 30 do tuần. Nhân dân ở đó được thái bình hưng thịnh. Trong cõi Diêm Phù Ðề có một thành lớn chiều ngang rộng đúng 80 do tuần, đường đi ngay thẳng chạy dọc theo tương đương. Mỗi đường rộng năm dặm, bên trong có một thành nhỏ gọi là An Ổn. Vua Thượng Kiên Ðức ở trong thành ấy. Này Kiên Ý, bên thành lớn có bảy vạn vườn rừng không thuộc về của ai cả. Chúng sanh ở đó có thể tha hồ vui chơi trong thành đó. Trong số có một vườn lớn ngang rộng 80 do tuần, chỗ vua dạo chơi có cây báu bảy lớp bao quanh vườn, cũng như có bảy lớp lưới giăng che phủ bên trên. Có bảy tầng lâu đài cũng bằng bảy báu, bảy lớp tường vây kín, bảy lớp hào bao bọc quanh vườn. Lúc đó Phật Xuất Bảo Quang cùng với bảy mươi ức A La Hán cung kính vây quanh, dạo khắp chư quốc đến thành An Ổn. Vua Thượng Kiên Ðức nghe Phật cùng đại chúng dạo khắp các nước đến thành này, tâm rất lấy làm hoan hỷ đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó Phật quán xét tâm nhà vua có túc duyên đời trước, bèn nói pháp trừ nghi chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ nơi kinh tạng Ðại Thừa. Vua Thượng Kiên Ðức nghe pháp tâm rất hoan hỷ liền nghĩ rằng, nay ta nên đem những đồ tốt đẹp trang hoàng khu vườn này dâng cúng Như Lai làm sao cho Ngài thọ nhận. Tức khắc trong vườn hiện lên 70 ức chư tăng, phòng xá, y đẹp che phủ mặt đất. Có 70 ức chỗ đi kinh hành, giường gối, tọa cụ cũng có 70 ức. Vua sẵn sàng đi đến nơi đức Phật đầu mặt lạy dưới chân Phật rồi bạch rằng: cúi mong đức Thế Tôn thương xót con, và đại chúng mà nhận lời mời đến nhà ngày mai. Phật Xuất Bảo Quang yên lặng nhận lời. Vua biết Phật đã nhận lời nên đảnh lễ dưới chân rồi đi vòng quanh phía bên hữu. Trong đêm đó, vua lo liệu đầy đủ mọi thứ đồ ăn trân quí của bậc chuyển luân thánh vương đem cúng Phật và chúng tăng.Vào sáng sớm hôm sau vua đến bạch Phật rằng: cơm nước đã xong ngưỡng mong Phật biết thời. Phật Xuất Bảo Quang đắp y mang bát cùng bảy mươi ức vị đại A La Hán cung kính cùng đi đến vườn ấy ngồi theo thứ tự. Vua Thượng Kiên Ðức thấy Phật và chúng tăng đã ngồi yên ổn rồi, tự tay ông mang thức ăn đủ vị sớt cho từng vị làm cho ai nấy đều được no nê. Biết Phật và chư tăng dùng cơm và rửa tay, rửa bát xong, Vua đem dâng Phật và chư tăng mỗi vị một chiếc y. Cúng y xong chính nhà vua cầm chén vàng múc nước rửa tay Phật, rồi bạch rằng: con đem vườn này, và các phòng xá, chỗ kinh hành, giường gối, ngọa cụ sắp đặt sẵn sàng trong vườn để cúng Phật và chúng tăng, cúi mong Ngài thọ dụng, cũng như đích thân vua hầu hạ Phật. Phật bảo Kiên Ý rằng, vua Thượng Kiên Ðức cúng dường Phật Xuất Bảo Quang, đêm ngày tùy thời thường đến nghe pháp như thế cho đến nửa kiếp để hỏi Phật các Pháp về Nhân Quả liên tục. Phật tùy thời hỏi mà đáp làm lợi ích cho vô số chúng sanh. Này Kiên Ý, ông cho rằng vua Chuyển Luân Thượng Kiên Ðức thuở đó đâu phải người nào lạ chăng? Ông chớ nghĩ như thế mà chính là ông đấy! Này Kiên Ý, ta nghĩ ông trước đây thuộc đời quá khứ đã hỏi pháp như thế, đem đồ trân quí cúng dường hằng ngàn đức Phật. Nay Như Lai cũng vì ông mà nói pháp môn này, là pháp nhập pháp tướng vậy.

Chú thích:

(1) Ðồng tử: đứa bé có khí phách của bậc hiền nhân, căn tánh thông tuệ mẫn lợi

(2) Ðấng Pháp Vương: bậc vua các pháp, chỉ cho đức Phật. Vì Phật mới biết rõ vạn pháp trong vũ trụ và tìm ra chân lý giải thoát cho chúng sanh.

(3) Pháp thí: ban bố giáo pháp đến tất cả những nơi cần

(4) Nhiễm y: áo bẩn, áo thế tục bị nhiễm bụi trần lao phiền não

(5) Hoà Thượng: Tàu dịch là Lực Sanh hay Thân giáo sư. Lực Sanh là có đạo lực làm cho dệ tử phát sanh trí huệ; thân giáo sư là bậc thầy thân cận đệ tử. Vị Tăng sĩ từ 40 tuổi hạ trở lên và tuổi đời trên 60 tuổi mới được gọi Hòa Thượng.

(6) Xà Lê hay A Xà Lê, Tàu dịch nghĩa là Giáo Thọ, tức Thầy dạy đạo. Trong đạo tràng truyền giới có ba vị trưởng lão hòa thượng chứng minh: trong đó có một thầy giáo thọ để hỏi về giới luật, kiến thức Phật pháp của những người thọ giới.

(7) Pháp yết ma: phép hỏi đáp của các vị tỳ kheo trong giới đàn hay những ngày bố tát, được đại chúng tỳ kheo đồng lòng hoan hỷ chấp thuận, phép tác bạch mới thành tựu đúng pháp.

(8) Giới hoàn bị: đầy đủ giới tướng (250) của thầy Tỳ kheo và cũng đủ khả năng cung cách để làm việc đạo.

(9) Thiện lai: lời nghinh đón những vị tỳ kheo danh đức từ xa đến viếng thăm tự viện, đàm đạo Phật sự với một vị trưởng lão khác. Ngay như đức Phật cũng dùng từ ấy xưng tán tỳ kheo thiện đức.

(10) A Tỳ Ðàm: còn gọi là A Tỳ Ðạt Ma (Abhidharma) là một trong ba tạng thánh điển: kinh , luật, luận của Phật giáo. A Tỳ Ðàm chỉ về phần luận tạng bao hàm nghĩa mầu thâm diệu trong giáo pháp của Phật.

(11) Ba môn: nói đủ là ba môn học là giới, định, huệ hay còn gọi là văn, tư, tu; giữ giới, tu thiền, phát sanh trí huệ hoặc nghe hiểu, suy xét, thực hành phát sanh trí huệ.

(12) Pháp ấn: trong Phật pháp là dấu hiệu của một ý định như đã hằn sâu trong tâm thức mà nhà tu hành quyết đạt tới quả Phật. Ðó còn là cách bắt ấn của các vị tăng phái chân ngôn, mật giáo Tây Tạng thường thực hành để truyền đạt đạo lý với nhau giữa thầy trò. Là sự ấn chứng huyền diệu của Phật cho các đệ tử có căn cơ thâm nhập diệu lý của những lời Phật dạy; là sự trao truyền tâm pháp giữa Phật với Phật, Tổ với Tổ để ấn định việc duy trì giáo pháp.

(13) Bốn chúng: bốn chúng đệ tử của Phật. Xuất gia có hai chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni và tại gia có hai chúng: ưu bà tắc hay cận sự nam và ưu bà di hay cận sự nữ, tức là những người Phật tử đã phát nguyện quy y tam bảo và thọ giữ 5 giới.

(14) Thượng nhơn: người đạo cao đức trọng được người đời kính phục tôn xưng.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy