× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh điển khác



Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát (1)

- Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Gia Xá Nước Kế Tân - Ðời Dao Tần

- Việt dịch:  Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

---o0o---

          Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở núi Khư La Ðể Sí nương chỗ sở trụ của Mâu ni tiên (tiên tịch mặc) cùng với vô lượng chúng đại Tỳ kheo, lại cùng với vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa số đại Bồ tát mà đều từ những cõi Phật phương khác đến. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn vì đại chúng nói Kinh Tứ Biện Tài, Tam Minh, Phạm Hạnh Trụ, Phá Ác Nghiệp Chướng Ða la ni. Bấy giờ, phương Tây, qua khỏi tám mươi lần hằng hà sa thế giới, có một cõi Phật tên là Nhất Thiết Hương Tập. Chúng sinh ở trong cõi ấy thành tựu năm trược. Nước đó có đức Phật hiệu là Thắng Hoa Phu Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ðức Phật đó hiện nay đang vì các đại chúng chuyển bánh xe diệu pháp. Ở đó có vị đại Bồ tát tên là Hư Không Tạng đã theo đức Phật kia nghe pháp thâm diệu, đắc được các thiền định. Vị Bồ tát đó thấy ở phương khác vô lượng vô biên a tăng kỳ số những vị đại Bồ tát phi thân lên hư không nhằm hướng Ðông mà đi đến. Ông lại từ xa nhìn thấy thế giới phương Ðông có ánh sáng lớn, liền đi đến chỗ đức Phật Thắng Hoa Phu Tạng, đầu mặt lễ dưới chân, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, hồ quì chắp tay mà bạch đức Phật rằng : Thưa đức Thế Tôn ! Con thấy ở tha phương vô lượng vô biên a tăng kỳ số các Bồ tát, thân thăng lên hư không nhằm hướng Ðông mà đi đến. Lại nữa, con thấy từ xa thế giới phương Ðông có ánh sáng lớn. Vì nhân duyên gì mà có việc ấy ? Nguyện xin ngài vì con giải nói đầy đủ !” Ðức Phật Thắng Hoa Phu Tạng bảo Bồ tát Hư Không Tạng rằng : “Này thiện nam tử ! Phương Ðông cách đây tám mươi hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Ta Bà. Chúng sinh trong cõi ấy thành tựu năm trược. Nước đó có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, nay đang ở tại núi Khư La Ðể Sí, nương chỗ sở trụ của Mâu ni tiên. Vì khiến cho pháp lưu hành chẳng đoạn tuyệt, vì khiến cho Tam Bảo thường trụ ở đời, vì hàng phục các ma kiến lập pháp tràng, vì đóng cửa sinh tử mở cửa Niết bàn, vì các vị đại Bồ tát và cả Thanh văn, những đại chúng từ nơi khác đến nên ngài muốn nói kinh Bốn biện tài, Ba minh, Phạm hạnh trụ, Phá ác nghiệp chướng Ðà la ni. Ngài muốn khiến cho tất cả Bồ tát của các cõi Phật mười phương từ bậc Hoan Hỷ địa cho đến bậc Bổ Xứ, trụ ở Bất cộng pháp, chẳng theo người khác tin, giỏi phương tiện, đủ vô ngại biện... những đại sĩ như thế này đều vân tập. Do đó đức Phật kia phóng ra ánh sáng ấy. Những vị Bồ tát kia thấy ánh sáng này rồi liền cỡi hư không mà đi đến ác thế giới ác đó vì các chúng sinh nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng. Quốc độ của đức Phật đó cũng đủ năm trược cùng thế giới này không có khác. Nay ông nên đến thế giới Ta Bà lễ bái, cúng dường, thính thọ chánh pháp cùng vì các chúng sinh ác của nước đó nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng”. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng nghe đức Phật nói rồi, vui mừng nhảy nhót cùng tám mươi ức Bồ tát đồng thời phát thanh mà bạch đức Phật rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con nay khát ngưỡng muốn diện kiến đức Phật đó ! Hôm nay con sẽ thừa uy thần của đức Phật đi đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà, lễ bái cúng dường, thính thọ chánh pháp, cũng vì các chúng sinh ác của nước đó, nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng”. Ðức Phật Thắng Hoa Phu Tạng đáp đại Bồ tát Hư Không Tạng rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Ông tự biết thời điểm”. Ngài đại Bồ tát Hư Không Tạng liền cùng với tám mươi ức Bồ tát đều đảnh lễ dưới chân đức Phật, thân thăng lên hư không, đi đến thế giới Ta Bà. Lúc bấy giờ, ở phương Tây có ánh sáng của ngọc báu Như Ý xuất hiện với vô lượng báu Thích-ca-tỳ-lăng-già vây quanh. Ánh sáng ngọc ấy che trùm ánh sáng của tất cả người, trời, tám bộ, Thanh văn, Bồ tát, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đất nước, lửa, gió có sẵn trong cõi ấy đều biến mất. Ðại chúng trong hội chỉ nhìn thấy ánh sáng của đức Phật và cả ánh sáng của ngọc vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói năng, lại không có hình sắc khác chỉ thấy toàn là hư không.

          Lúc bấy giờ, quang tướng ánh sáng của đức Như Lai soi sáng thì đại chúng trong hội đều chẳng tự thấy mình, cũng chẳng thấy người khác. Tất cả các hình sắc đều diệt hết không còn là đối tượng của mắt. Họ chẳng có được hình mạo sắc tướng của thân mình và đối với sự chạm xúc cũng không đó, không đây và không trung gian. Tùy theo phương hướng nhìn thấy đều như vậy cả. Họ cũng lại chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới. Hết thảy đều không còn là đối tượng của mắt. Tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng ngữi hương, lưỡi chẳng biết vị, thân chẳng chạm biết, các pháp số của tâm cũng không sở duyên, đối với ngã và ngã sở khởi lên tướng nữa, cũng không tưởng sáu nhập phân biệt, chẳng thấy được những đại chúng từ nơi khác đến mà chỉ thấy ánh sáng đức Phật và ánh sáng ngọc. Ngọc ấy thuần dùng vô lượng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già làm bao quanh. Ðịa vị của các đại Bồ tát trong chúng hội ấy lên đến Thập Trụ, được Thủ Lăng Nghiêm tam muội và Nhất sanh bổ xứ. Những Bồ tát ấy thấy tướng này rồi thì thân tâm yên ổn, chẳng kinh, chẳng sợ. Vì sao vậy ? Vì hiểu rõ pháp tướng tự tính chân thật và do ở Như đệ nhất nghĩa không. Số Bồ tát còn lại và chúng Thanh văn, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Cưu ban trà, ngã quỉ, Tỳ xá già, Phú đơn na, Ca tra phú đơn na, người, chẳng phải người.v.v... thấy tướng này rồi đều kinh sợ, mê muộn. Lòng họ nhiễu loạn, đều chẳng thấy nhau, cũng không chỗ hỏi han, lòng tự suy nghĩ, chẳng biết vì duyên gì mà có tướng lạ lùng này, cũng lại chẳng biết là thần lực của ai. Bấy giờ, trong chúng, có một vị Bồ tát Mahatát tên là Phạm Ðảnh cúi đầu dưới chân đức Phật, quì dài, chắp tay mà nói kệ rằng :    

Tự tánh tất cả pháp

Chúng sinh không biết thông

Ràng buộc vào sắc ấm     

Bị ngu hoặc sáu tình

Chẳng thấy ở một ấm

Sắc ấm tìm kiếm luôn.

Sinh nghi với Phật pháp       

Người này nay hiện lên(đã có rồi)

Nguyện nói quyết định pháp

Vì lưới nghi đoạn tan

Khiến biết bờ đây đó                 

Chứng được nhẫn hư không

Dũng kiện vào tam muội         

Chẳng thể nói tướng thân

Ngọc báu lớn Như ý             

Ở trên đỉnh ấy luôn

Thích ca tỳ lăng báu          

Mà lấy làm vây quanh.

Hội này, các Ðại sĩ         

Ðều Thập Ðịa trở lên

Ðược Thủ Lăng Nghiêm định        

Và Bổ xứ nhất sanh.

Những vị Bồ tát ấy        

Ðều ở từ xa trông

Thấy tướng điềm lành ấy   

Ắt biết thắng sĩ đến

Lễ hầu Ðấng Vô thượng     

Nhân nói pháp diệu thâm

An ủi chúng sinh sợ            

Qui y thầy thiên nhân

Việc hành xử dũng mãnh     

Giáo hóa (thuần) thục chúng sanh.

          Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng :  

Hay thay ! Như ông nói

Chỗ hành xử người thiền (định)

Thân tướng chẳng thể thấy

Tu tuệ hay kiếm tìm.

Ðây là Hư Không Tạng

Thường xử sự hành, dừng

Không nương, không hí luận

 Lực tam muội hiện lên.

Chúng sinh chấp hai kiến

Nên bị mê hoặc luôn

Do họ bị mê hoặc

Bờ đây đó chẳng thông (biết).

Muốn lìa khỏi hai kiến

Hạnh chẳng thể nói (tu) hành

Mau chóng được cứu cánh

Các Ðịa đủ hoàn toàn.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát mới phát tâm, đầu tiên có thể nói tướng và vin duyên tướng tu sáu Ba la mật, cho đến biết địa, thủy, hỏa, phong, hư không và thức là tướng sinh diệt, tánh như thật. Bồ tát lại biết các pháp chẳng thể nói, không có tự tánh, không sanh, không diệt, không có vin vào duyên, chẳng động, chẳng lay, không có sở hữu. Tất cả các pháp như vậy tu hành, lìa khỏi đoạn kiến, thường kiến chẳng sinh ra sợ hãi, đối với tất cả pháp chẳng khởi lên xúc tưởng, lòng không vin vào duyên, rỗng không, không sở hữu. Tu hành như vậy thì mau chóng đầy đủ sáu Ba la mật, lại chẳng trụ trong đoạn kiến, thường kiến nữa.

          Ðang khi đức Như Lai nói lời nói này thì tất cả đại chúng đều thấy nghe hay biết như sắc tượng cũ mà đối với cảnh giới chẳng thủ lấy tướng ấy. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn duỗi tay phải chỉ về phương Tây mà nói rằng :

          - Như điềm ánh sáng ấy chính là tướng điềm đại Bồ tát Hư Không Tạng sắp đến. Bồ tát này đủ các tam muội giống như biển cả, trụ Bồ tát giới như núi Tu di, lòng nhẫn nhục giống như kim cương, tinh tấn dũng mãnh giống như gió mạnh, trí như hư không, tuệ như cát sông Hằng, trong các Bồ tát ông như Ðại Thắng Tràng, bậc đại đạo sư của hướng Niết bàn, đất của căn lành, là bình cát tường của kẻ nghèo cùng, là mặt trời của người vào bóng tối, là mặt trăng của kẻ lạc đường, là chỗ nương về của người sợ hãi, là nước cam lồ làm mát lửa nóng phiền não, là cây gậy của kẻ thiện căn, là chiếc cầu của Niết bàn, là bậc thềm của người sinh lên trời, là thuyền qua biển sinh tử, là xe trên đường rộng sáng, là cái ngăn kẻ nhiệt não miệng ác bài báng. Ông ấy hàng phục các ngoại đạo giống như sư tử, có thể tịnh các kiến giống như nước mưa, phá phiền não giống như sét đánh (sấm nổ). Ông ấy là thuốc của người hủy giới, sinh ra mầm căn lành giống như sự thấm nhuần của mùa xuân, trang nghiêm Bồ tát giống như vòng hoa cài tóc, hiển hiện hành động thiện ác giống như gương sáng, là y phục thượng diệu của kẻ không tàm quí, là đại lương y của người bệnh ba khổ, là ngọc minh nguyệt của kẻ nóng khát, là giường của kẻ cực khổ mệt mỏi, ông ấy đủ các tam muội giống như ngọc mặt trời, là xe trâu lớn đi trên đường Bồ đề, là ao hoa mát mẻ của người dạo chơi thiền định, là vòng hoa trợ Bồ đề, là quả của Ba la mật, là Như ý ma ni trong Thập địa, là cây Ba lợi chất đa la của bậc cầu Thủ lăng nghiêm, là dao chặt ác kiến, đoạn dứt phiền não tập giống như Kim cương, hàng phục các ma sinh ra các công đức, trí tuệ bảo tàng, nương vào công đức của tất cả chư Phật. Ông ấy là nhà, hang, chỗ nương của các Duyên giác, là mắt của Thanh văn, là ánh sáng của kẻ sinh lên trời, là đường ngay thẳng của người hành tà đạo, là chỗ cậy nương của súc sinh, ngã quỉ, là cứu tinh của địa ngục, là ruộng phước Vô thượng của tất cả chúng sinh, là đệ nhất phụ thần của chư Phật ba đời, có thể hộ thành lũy pháp, đã đủ trang nghiêm mười tám bất cộng chư Phật mật tạng, thành tựu đầy đủ trí tuệ của Phật, ứng thọ cúng dường của tất cả người, trời... chỉ trừ đức Như Lai thì không còn ai theo kịp ông ấy. Này đại chúng! Các ông đều nên thân tâm cung kính phụng nghênh Ðại Bồ tát Hư Không Tạng theo sức có thể được, nên dùng diệu bảo tràng phan, táng cái, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, y phục, ngọa cụ, ca tụng, khen ngợi, san bằng đường cái... đủ thứ trang nghiêm tôn trọng cúng dường. Ðại chúng các ông đều cũng nên thành công đức khí (dụng cụ) như vậy.

          Lúc bấy giờ, đại chúng đứng dậy hướng về phương mà Bồ tát Hư Không Tạng đã hiện điềm báo, nhảy nhót vui mừng, sắc diện vui vẻ, ngay mắt chuyên chú đều chung phụng nghinh. Những đại Bồ tát khác và Ðại Thanh văn chúa trời, chúa rồng, chúa Dạ xoa, chúa Càn thát bà, chúa A tu la, chúa Ca lâu la, chúa Khẩn na la, chúa Ma hầu la già, chúa tiên nhân ngũ thông... đều suy nghĩ rằng : “Chúng ta phải bày biện những đồ cúng tối thượng thắng diệu gì để cúng dường vị đại sĩ đó vậy ?”

          Lúc bấy giờ, đại Bồ tát Hư Không Tạng liền dùng thần lực biến thế giới Ta Bà tiêu trừ mọi uế ác và những núi đồi, ngói gạch, gai góc, hầm hào, gò đống, đồng trống, nơi hiểm trở, sương móc... hết thẩy đều lắng tạnh. Bấy giờ, cõi này lấy bảy báu làm đất bằng phẳng như bàn tay, rừng cây hình thành bằng vô lượng những báu. Cành lá hoa trái đều do báu thành, hoa thơm, cỏ mềm cũng lại như vậy, mùi thơm sực nức xông khắp thế giới. Trong cõi Ta Bà, tất cả chúng sinh không còn các khổ hoạn. Mù, điếc, câm, ngọng, gù lưng, tàn phế.. trăm thứ bệnh tật nhất thời trừ khỏi. Kẻ oán ác đều phát sinh từ tâm. Các âm thanh đau đớn khổ sở của địa ngục, ngã quỉ đều ngưng nghỉ hết. Ðồ ăn, thức uống, quần áo, đồ trang nghiêm tự nhiên phong phú đầy đủ. Những chúng sinh cõi ấy sắc đẹp đoan chánh, chi tiết đầy đủ, uy đức đệ nhất, trừ hết các kết sử, lòng được tịch tịnh, đối với các thiện căn phát sinh sâu sắc hân lạc. Do niềm tin thanh tịnh trụ ở Tam Bảo nên hai tay của tất cả đại chúng đều có ngọc ma ni Như ý. Ở bên trong ngọc ấy phát ra ánh sáng lớn soi khắp cùng thế giới, đồng thời tấu lên nhạc trời, mưa xuống đủ thứ báu, áo báu đủ màu lại mưa xuống đủ thứ đồ trang nghiêm vi diệu, bảo mạn, bảo cái, đủ thứ bảo khí, đủ thứ áo trời, chuỗi ngọc khóa vàng, chuỗi ngọc chân châu, hoa sen đủ màu xanh, hồng, đỏ, trắng. Mưa xuống trầm thủy hương, ngưu đầu chiên đàn đầy khắp thế giới. Hai bên đường của cõi ấy có đài bảy báu như cung điện Ðế thích. Bên trong đài ấy đầy ắp thể nữ dung mạo đoan nghiêm giống như ma hậu, tấu lên kỹ nhạc trời phát ra năm thứ âm thanh. Ở bên trên đức Phật lại có táng che của vua Ðại Phạm bằng thất bảo trời treo ở hư không cúng dường đức Như Lai. Táng che ấy chu vi hàng trăm ngàn dũ-xà-na. Bên trên táng che ấy lại được che bằng màn lưới báu. Rèm ngọc chơn châu rũ xuống trang sức bốn mặt. Trong táng che diễn ra đủ thứ âm nhạc thanh diệu hòa nhã siêu tuyệt hơn người trời. Tất cả đại địa, cỏ cây, rừng rậm, hoa quả, cành lá đều phát ra âm thanh vi diệu tuyên xướng các địa pháp hạnh của sáu Ba la mật đại thừa. Người nghe âm thanh ấy thì với đạo Vô thượng đều chẳng thoái chuyển, cũng có người chứng được Vô sanh nhẫn.

          Lúc bấy giờ, đại chúng thấy thần biến kỳ lạ của đại Bồ tát Hư Không Tạng thì lòng sinh vui mừng, khen chưa từng có, đều nghĩ rằng : “Vị Ðại Bồ tát này đã hiện lực đại thần thông như vậy thì chẳng bao lâu ắt đi đến thế giới này. Hôm nay chúng ta phải thiết lập tòa ngồi thế nào để đợi cúng dường ngài”. Ðang khi chúng hội nghĩ điều này, tức thời ở trước đức Phật có hoa sen báu từ dưới dất vọt ra mà bạch ngân là thân, hoàng kim là lá, kim cương là đài, lưu ly là hột quả, mã não là tua, ngọc báu Phạm sắc là gốc tua, pha lê là nhụy. Hoa ấy ngang dọc một trăm dũ-xà-na, có tám mươi ức những hoa sen báu vây quanh giáp vòng. Bấy giờ, Bồ tát Hư Không Tạng bỗng nhiên hiện ở trên hoa sen báu đó, ngồi kiết già. Lại thấy trên đỉnh đầu Bồ tát có ngọc báu Như ý với vô lượng báu Thích-ca-tỳ-lăng-già vây quanh. Tám mươi ức Bồ tát theo Bồ tát Hư Không Tạng, mỗi mỗi đều ngồi trên những hoa sen báu còn lại.

          Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc liền nói kệ hỏi đại Bồ tát Dược Vương rằng :

                 

Xưa nay ta đã từng

Thấy các chúng Bồ tát

Ðến hầu hạ Thế Tôn               

Trước vây quanh cung kính

Ðầu mặt lễ dưới chân              

Sau lui ngồi một bên

Sao Ðại sĩ này lại              

Thị hiện sức thần thông

Chẳng tu nghi Bồ tát                    

Mà ngồi trên hoa sen ?

          Bấy giờ, Ðại Bồ tát Dược Vương dùng kệ đáp rằng :

                  

Ðây bậc Ðại Trí Tuệ

Giỏi trụ pháp diệu thâm

Chẳng nương lòng vọng tưởng         

Ðến diện kiến Thế Tôn!

          Bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc lại dùng kệ hỏi :

                  

Nếu chẳng thấy chúng sinh         

Và cả những pháp tướng

Lòng ấy thường trụ yên                  

Các pháp chân thật tế

Sao gọi thị hiện lên                

Lực thần thông tự tại ?

Ngyện xin diễn nói lên          

Trừ tôi điều nghi hoặc !

          Bấy giờ, Ðại Bồ tát Dược Vương lại dùng kệ đáp :

                 

Nay đây bậc Ðại sĩ

Vào phương tiện dũng cường(kiện)

Vì chúng sinh (mà) thành thục 

Thị hiện lực thần thông

Nếu chẳng trụ thật tế                

Các phàm phu ngu đần

Minh trí khai tục đế             

Ðược vào với Ðế Chân !

          Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Dược Vương rằng :

        - Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ðúng như lời nói của ông ! Tất cả chúng sinh phàm phu chẳng thể suy xét việc hành xử giải thoát của một vị Tu Ðà Hoàn. Tất cả chúng sinh được Tu Ðà Hoàn chẳng thể suy xét việc hành xử giải thoát của một vị Tư đà hàm. Tất cả chúng sinh được Tư đà hàm chẳng thể suy xét việc hành xử giải thoát của một vị A na hàm. Tất cả chúng sinh được A na hàm chẳng thể suy xét việc hành xử giải thoát của một vị A la hán. Tất cả chúng sinh được A la hán chẳng thể suy xét việc hành xử giải thoát của một vị Bích Chi Phật. Tất cả chúng sinh thành Bích Chi Phật chẳng thể suy xét việc hành xử phương tiện của một vị đại Bồ tát cùng với Bát nhã Ba la mật tương ứng để thành thục chúng sinh. Tất cả chúng sinh được Bát nhã Ba la mật tương ứng với phương tiện hành xử thành thục chúng chúng sinh của Ðại Bồ tát chẳng thể đo lường cho đến việc nhấc chân hạ chân hành xử phương tiện và hiểu đệ nhất nghĩa đế thành thục chúng sinh của Ðại Bồ tát được Vô sanh pháp nhẫn. Tất cả chúng sinh được phương tiện hành xử và hiểu đệ nhất nghĩa đế thành thục chúng sinh của Ðại Bồ tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng thể đo lường được việc nhấc chân hạ chân hành xử phương tiện và hiểu đệ nhất nghĩa đế thành thục chúng sinh của Ðại Bồ tát được bốn biện tài. Tất cả chúng sinh được phương tiện hành xử và giải đệ nhất nghĩa đế thành thục chúng sinh của Ðại Bồ tát được bốn biện tài chẳng thể đo lường việc hành xử phương tiện nhấc chân hạ chân và hiểu đệ nhất nghĩa đế của  Bồ tát trụ ở Bát nhã Ba la mật cứu cánh Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó đã ở vô lượng kiếp, được Vô sanh nhẫn, đủ vô ngại biện tài, rốt ráo đủ đầy Thủ Lăng Nghiêm định, trụ ở Ðịa tối thượng, quyết định kiên cố nhất định không khuynh động, giỏi biết sở hạnh trong thân tâm của chúng sinh, đáp ứng sự nhìn thấy việc thần biến trang nghiêm. Lại nữa, ứng với sự thấy tướng điềm sắp đến của Ðại Bồ tát Hư Không Tạng. Lại có thấy Ðại Bồ tát Hư Không Tạng được Ly Dục Ðịa, trụ ở địa, vào với địa, thị hiện vào tam muội Vô Biên không xứ, biến mất ở phương Tây mà hiện đến ở đây. Chúng sinh kinh sợ, hoặc loạn, Bồ tát đó vào với tục đế hiện đại trang nghiêm vì muốn thành thục các chúng sinh. Lại, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó, nếu hiện đệ nhất nghĩa đế Vô sanh trang nghiêm thì chư thiên và người... cho đến Bồ tát bát địa đều sẽ mê muộn không thể thấy hành tướng của cảnh giới ấy. Bồ tát ấy khéo nhập vào công đức thâm diệu như vậy. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng phương tiện tuệ khéo léo thâm nhập vào tất cả pháp hải của chư Phật, lìa khỏi các nghi hoặc, chẳng nương theo người khác. Trí tuệ thiện xảo của Bồ tát đó, ở trong các Ðại Bồ tát là vua Tối Thượng Tràng. Này thiện nam tử ! Hư Không Tạng Bồ tát chính là vị chủ dẫn đường sáng suốt của tất cả chúng sinh sinh lên trời, vào Niết bàn. Bồ tát ấy có thể đoạn tất cả tâm hoạn phiền não, giỏi trị độc hại của thân và bốn bệnh lớn. Hoặc có chúng sinh khởi lên tà ác kiến, luân hồi mê một (chìm mất) trong sinh tử Khoáng dã, không có phương tiện khéo, chẳng biết đường sinh thiên, vào Niết bàn. Hoặc có chúng sinh xưng danh hiệu Ðại Bồ tát Hư Không Tạng, chí tâm qui mạng, đốt hương kiên hắc trầm thủy và hương Ða già la, cung kính lễ bái. Bồ tát Hư Không Tạng quan sát tâm và thiện căn của tâm của  những chúng sinh này. Hoặc thấy các kiến của chúng sinh bị sự hoặc loạn của phiền não. Hoặc thấy hạt giống thiện căn ở quá khứ, hành nghiệp của tâm đối với Phật, Pháp, Tăng, Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và công đức khác tùy theo khả năng kham nhậm. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng quan sát những chúng sinh đó mà tùy theo họ ứng hiện cho thấy. Hoặc ở trong mơ của họ, hiện đủ thứ hình, liền dùng phương tiện mà vì họ nói pháp. Này thiện nam tử ! Hoặc có chúng sinh ứng với giấc ngủ tỉnh thấy Ðại Bồ tát Hư Không Tạng, liền thấy ở trước mắt đủ thứ hình. Bồ tát đó liền dùng phương tiện mở đường chánh trực, phá ác nghiệp, tà kiến, ác nguyện, ác qui (về), ác xứ, ác thủ (lấy) của các chúng sinh. Các kế trước như vậy đều khiến giải thoát nghiệp thân miệng ý, không các tà vạy quanh co, đi theo con đường chánh trực, chánh nghiệp, chánh kiến, chánh nguyện, chánh qui, chánh xứ, chánh thủ, thường được thân cận với những thiện tri thức, mau chóng xa lìa xú kết phiền não, khỏi vĩnh viễn khổ của tam đồ, bát nạn, thường làm nghiệp thiện được lực tự tại, cho đến dần dần vào pháp nhẫn thậm thâm. Nếu các chúng sinh với đủ thứ thân bệnh và tâm cuồng loạn, điếc, mù, câm, ngọng, tay chân câu rút, các căn chẳng đủ mà xưng danh hiệu Ðại Bồ tát Hư Không Tạng, chí tâm qui mạng, đốt hương kiên hắc trầm thủy và hướng Ða già la, cung kính lễ bái, hoặc theo xin thuốc, hoặc nguyện xin trừ khỏi thì Ðại Bồ tát Hư Không Tạng liền theo nguyện cầu của họ mà hoặc hiện hình dáng Phạm thiên, hoặc hiện hình dáng Ðế thích, hoặc hiện hình dáng Tỳ Sa môn, hoặc hiện hình dáng Tứ thiên vương, hoặc hiện hình dáng Diệm ma thiên, hoặc hiện hình dáng Ðâu Suất Ðà thiên, hoặc hiện hình dáng Tự Tại Thiên, hoặc hiện hình dáng Ðại Tự Tại Thiên, hoặc hiện hình dáng Bà la môn, hoặc hiện hình dáng Sát Lợi, hoặc hiện hình dáng trưởng giả, hoặc hiện hình dáng cư sĩ, hoặc hiện hình dáng đại thần quan thuộc, hoặc hiện hình dáng đồng nam đồng nữ, hoặc hiện hình dáng cha mẹ thân thuộc, hoặc hiện hình dáng thần chấp Kim cương, hoặc hiện hình dáng trời, rồng, dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người... Hiện đủ những hình dáng như vậy.v.v... ở tại trước mặt người mơ và kẻ ngủ mà vì họ nói bịnh tướng, đồng thời vì họ phân biệt các thứ thuốc đối trị. Bịnh trạng như đây nên uống thuốc  này, hoặc bịnh như vậy phải uống thuốc kia. Những chúng sinh đã nghe nói rồi đều tùy theo sự thích ứng của mình mà hợp các thứ thuốc. Nếu tự mình không có thuốc thì Bồ tát đều cho. Những chúng sinh đó, hoặc có người uống một lần, uống hai lần, uống ba lần... mọi bệnh tật đều khỏi, hoặc có người chỉ thấy Bồ tát hiện thân thì bệnh liền tiêu trừ. Như vậy này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó đủ đại Từ Bi. Nếu có chúng sinh nghèo cùng khốn khổ muốn cầu đại phú, muốn nhiều đọc tụng tu tập, ưa muốn đa văn, muốn cầu giải thoát, muốn cầu ly dục, muốn cầu thiền định, muốn cầu danh xưng, muốn được đệ nhất, muốn cầu khéo léo, muốn được tự tại, muốn được đoan chánh, muốn cầu sắc đẹp, muốn cầu âm thanh vi diệu, muốn cầu hương thơm tốt, muốn cầu thượng vị, muốn cầu chạm xúc thích thú, muốn được ăn uống, muốn cầu dũng kiện, muốn được dòng dõi cao sang, muốn nguyện sinh con trai, muốn nguyện cầu con gái, muốn được quyến thuộc, muốn cầu phước đức, muốn được thành tựu sáu Ba la mật, muốn được lời nói khéo, muốn cầu che hộ tất cả chúng sinh, muốn được thoát khỏi tất cả lao ngục, muốn đoạn dứt tất cả các luật nghi ác, người có tâm bố thí thì nguyện kiến lập cho họ... cho đến trí tuệ cũng lại như vậy, muốn được sống lâu, muốn nguyện xin nhiều của cải, được rồi có thể dùng, muốn khiến cho kẻ xan tham có thể làm bố thí, người hủy giới khiến cho kiên trì giới, nếu người sân nhuế thì khiến tu nhẫn nhục, kẻ giải đãi thì khiến họ trụ ở tinh tấn, người tâm tán loạn thì dạy họ tu thiền định, kẻ ngu si thì khiến họ tu trí tuệ, người thừa bất định thừa thì khuyên họ học Thanh văn, chúng sinh chấp trước ngã thì dạy họ thừa Duyên giác. Nếu có chúng sinh lìa khỏi đại Từ Bi, tự tiếc thân mình, bỏ các chúng sinh mà nguyện lìa bỏ tâm này, phát sinh đại Từ Bi, chẳng tự hộ thân mà nhiếp lấy chúng sinh, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng biết tâm của chúng sinh đó rồi liền dùng phương tiện khiến cho chúng sinh này lìa bỏ tâm trước kia mà khởi tâm đại từ bi, chẳng hộ thân mình, chẳng bỏ chúng sinh, phát tâm Bồ đề, trụ ở bốn phạm hạnh. Nếu có chúng sinh ưa đại từ bi muốn cầu cứu tế tất cả chúng sinh, muốn nguyện an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc ở chỗ A lan nhã, hoặc ở trong rừng, hoặc ở nơi đất trống mà đốt hương kiên hắc trầm thủy và hương đa già la, chắp tay cung kính hướng đến mười phương, năm vóc gieo xuống đất, chí tâm qui mạng Ðại Bồ tát Hư Không Tạng mà nói chú Ðà la ni này :

          A mật lật xá a mật lật xá - Ca lâu ni ca - Già la già la tỳ già la san già la - Ca lâu ni ca la mẫu la mẫu - Mẫu lâu bi ca đà lý ma mục kha - Phù lâu xà bà - Nại ca lâu ni ca chân đa ma ni phú la gia ca lâu ni ca tát đõa - Xá mê tha bả dạ - A nhã đà lị bắc câm bắc câm la để - Tỳ bi ca linh đài - Lật trí ty bi ca câm ca lâu ni ca phủ lỵ dạ đấu ma ma a xa tát đỏa bả lý - Ba ca dạ a thâu ca dạ để - Ta bà ha.

          Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này, hoặc hiện hình dáng trời, hoặc bày hình dáng người, hoặc ứng hình dáng nai, hoặc làm hình dáng chim, hoặc chẳng hiện hình dáng theo sở ứng của họ mà dùng phương tiện vì họ nói pháp, hóa độ vô lượng na do tha trăm ngàn chúng sinh khiến cho họ trụ ở Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa và trụ ở Ðại thừa. Lại thuở thiếu thời kiến lập chúng sinh trụ ở Ðại thừa được bất thoái chuyển... cho đến khiến cho được các tam muội thậm thâm và Ðà la ni, đủ đầy mười địa. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này đủ đại từ bi, như người suy xét mới có khả năng biết bờ cõi hư không không thể đo lường thì bờ cõi của trí tuệ phương tiện đại từ đại bi và tam muội lực thành thục chúng sinh của Ðại Bồ tát Hư Không Tạng cũng vậy. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn công đức trí tuệ như vậy. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh lòng không dua nịnh quanh co, cũng chẳng xảo ngụy thì tâm ấy thuần, thuận vào dòng thánh, nhìn thấy chân thật, chẳng chê khuyết điểm người khác, chẳng tự kiêu căng cao ngạo, chẳng hạ thấp người khác, lìa khỏi các ghét ghen, chẳng tự hiển bày làm bộ khác lạ để mê hoặc người khác, lòng vốn đầy đủ. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này thương xót những chúng sinh ở đây nên dùng phương tiện trí tuệ dũng mãnh tinh tấn tu phương tiện khéo léo, trừ diệt tội của những chúng sinh này, khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đem tất cả căn lành đều hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề, được Bất Thoái Chuyển, thu được đại thế lực và tinh tấn lực. Bồ tát đó vì muốn đủ đầy sáu Ba la mật nên thường siêng tu tập đại từ đại bi... cho đến cứu cánh được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này thành tựu công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đã dũng mãnh thành tựu tất cả chúng sinh.

          Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc liền đứng dậy, lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :

          - Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng vì nhân duyên gì mà một mình đỉnh đầu vị ấy có ngọc báu như ý thù diệu với vô lượng báu Thích ca tỳ lăng già vây quanh, ánh sáng hiển diệu che mờ mọi hình sắc, chẳng giống các Ðại Bồ tát khác.v.v..

          Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Di Lặc rằng :

          - Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này đủ đại từ bi có thể cứu bạt cứu chúng sinh khỏi ách nạn nguy hiểm. Nếu có chúng sinh phạm tội căn bản nên đọa vào đường ác, tất cả thiện căn đều cháy tiêu rồi thì Ðại Bồ tát Hư Không Tạng chính là mặt trời sáng thanh tịnh phá tan đại vô minh tà kiến đen tối. Chính là vị đại lương sư diệt tội căn bản có thể đánh bạt mũi tên nghi phá pháp khí thiện khiến cho hoàn toàn. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh phạm Ba la di, cắt chồi căn lành, hướng về địa ngục, không chỗ qui y, người trí bỏ rơi thì Bồ tát ấy đều có thể cứu vớt, mở bày đường chân chính, có thể tẩy rửa phiền não hôi thối, khiến cho họ lìa khỏi đường ác. Bồ tát ấy chính là thềm bậc của người đi lên người trời giải thoát. Nếu có chúng sinh tham ngu hoặc loạn thì Bồ tát ấy có thể khiến cho họ giác ngộ. Lòng độc hại sân nhuế và cả si tối, bài báng không nhân quả, buông lung chẳng tin chẳng sợ đời sau, tham cầu không chán, ôm lòng ganh ghét cực cùng, đủ mười nghiệp ác ngày đêm tăng trưởng... Những chúng sinh như trên đây, Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó có thể diệt trừ những nghiệp tội lớn cho họ, đặt yên người trời vào chỗ giải thoát giống như chiếc xe lớn. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát Hư Không Tạng này chính là chỗ ứng của chư thiên và thế gian tôn trọng, phụng nghinh, cúng dường.

          Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Di Lặc bạch đức Phật rằng :

          - Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là phạm tội căn bản Ba la di vậy ? Nếu có chúng sinh phạm tội ấy thì căn lành bị thiêu cháy, rơi vào đường ác, lìa khỏi chỗ yên ổn, mất tất vĩnh viễn tất cả niềm vui của người, trời. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng đó có thể khiến cho những chúng sinh ác này trở lại được đầy đủ phước lạc của người trời !

          Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ðại Bồ tát Di Lặc rằng :

          - Này thiện nam tử ! Nếu có vua Sát Lợi Quán Ðảnh có lực tự tại, phạm năm tội căn bản thì việc tu tập từ trước đều bị thiêu cháy, mất chỗ yên ổn, xa niềm vui trời người, rơi vào đường ác. Những gì gọi là năm tội căn bản ? Này thiện nam tử ! Ðó là, vua Sát Lợi Quán Ðảnh lãnh đạo đất nước có lực tự tại lấy vật Ðâu bà và vật của tứ phương tăng, hoặc dạy người khác lấy. Ðó gọi là phạm tội căn bản đầu tiên.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Vua Sát Lợi Quán Ðảnh lãnh đạo đất nước có lực tự tại mà hủy báng chánh pháp, bỏ Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa, bỏ Vô thượng thừa, lại còn áp chế người khác chẳng cho tu học. Ðó gọi là phạm tội căn bản thứ hai.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Vua Sát Lợi Quán Ðảnh lãnh đạo đất nước có sức tự tại, nếu lại có người vì Như Lai nên cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục dù trì giới hay hủy giới, dù có giới hay không giới mà vua cởi cà sa của người ấy, ép họ khiến hoàn tục. Hoặc thêm đánh đập, hoặc lại trói buộc, hoặc cắt tay chân... cho đến đoạn dứt mạng sống. Tự mình làm hay sai khiến người khác tạo ác như thế này thì đó gọi là phạm tội căn bản thứ ba.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Vua Sát Lợi Quán Ðảnh lãnh đạo đất nước có lực tự tại mà tạo tác tội ngũ nghịch. Những gì là năm ? Một là giết mẹ, hai là giết cha, ba là giết A la hán, bốn là phá hòa hợp tăng, năm là làm chảy máu thân Phật. Năm tội vô gián như vậy nếu phạm một thì đó gọi là phạm tội căn bản. Ðó gọi là phạm tội căn bản thứ tư.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Vua Sát Lợi Quán Ðảnh lãnh đạo đất nước có lực tự tại mà chê bai không nhân quả, chẳng sợ đời sau, tạo mười nghiệp đạo ác, cũng dạy cho người khác làm mười ác. Ðó gọi là phạm tội căn bản thứ năm.

          Này thiện nam tử ! Ðó gọi là năm tội căn bản của vua Sát Lợi Quán Ðảnh, nếu phạm một thì gọi là Phạm Ba la di, tất cả thiện căn tu tập trước đây đều bị thiêu cháy, lìa khỏi chỗ yên ổn, mất niềm vui người trời, rơi vào đường ác. Này thiện nam tử ! Chính Ðại Bồ tát Hư Không Tạng vì người này dấy khởi Ðại Từ Bi hiện sinh vùng biên địa theo sự ưng thấy của họ mà hiện đủ thứ hình dáng. Hoặc hiện hình dáng Sa môn, hình dáng Bà la môn, hình dáng Sát Lợi, trưởng giả, cư sĩ.v.v.. mà vì họ nói pháp vị tằng hữu Ðại thừa thậm thâm Nhất thiết chủng trí, các Ðà la ni và nhẫn nhục địa. Dùng đủ thứ diệu pháp như vậy.v.v.. mà dẫn đường họ. Vua Sát Lợi Quán Ðảnh đã nghe pháp rồi, lòng sanh tàm quí, mang sợ hãi cực cùng, hướng về người nói pháp phát lồ sám hối tội đã phạm trước đây, thề chẳng làm nữa. Rồi họ an trụ ở bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền tịnh, trí tuệ, siêng tu từ bi, sinh niềm vui người trời, niềm vui Bát Niết bàn.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại thần cũng có năm tội căn bản phạm Ba la di. Nếu có người phạm thì tất cả thiện căn đã tu tập từ trước đều bị thiêu cháy, rơi vào đường ác, lìa khỏi chỗ yên ổn, vĩnh viễn mất tất cả niềm vui của trời người. Những gì là năm ? Ðó là, Ðại thần đó thống lý đất nước, nương vào thế lực của vua lấy vật Ðâu bà và vật của Tứ phương tăng, hoặc dạy người khác lấy. Ðó gọi là phạm tội căn bản đầu tiên.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu vị đại thần đó thống lý đất nước nương cậy vào thế lực của vua phá hoại thôn ấp, thành quách, đất nước, hoặc dạy người khác phá. Ðó là phạm tội căn bản thứ hai.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu vị đại thần đó thống lý đất nước nương cậy vào thế lực của vua hủy báng chánh pháp, xả Thanh văn thừa, Bích Chi Phật thừa, bỏ Vô thượng thừa, cũng áp chế người khác chẳng cho họ tu học. Ðó gọi là phạm tội căn bản thứ ba.

          Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu vị đại thần đó thống lý đất nước nương cậy vào thế lực của vua, hoặc thấy có người vì Như Lai cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục dù trì giới hay hủy giới, dù có giới hay không giới mà cởi cà sa của họ ép buộc khiến cho hoàn tục, hoặc thêm đánh đập, hoặc lại trói buộc, hoặc cắt tay chân.. đoạn dứt mạng sống, tự mình làm hay sai khiến người khác tạo những ác này. Ðó gọi là phạm tội căn bản thứ tư.

       


Xem dưới dạng văn bản thuần túy