× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh điển khác



Kinh Đại Báo Phụ Mẫu 2

ĐẢNH LỄ TAM TỰ QUY

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giai đại đạo, phát vô thượng Tâm. 
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như Hải. 
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thế Vô ngại. 

Nguyện dĩ thử công đức 
Phổ cập ư nhứt thế 
Đệ Tử cọng chúng sanh 
Tổng giai thành Phật đạo 
 

HÒA NAM THÁNH CHÚNG

_____________________

PHẦN KINH NGHĨA

NGHI THỨC TRÌ TỤNG

KINH BÁO ÂN CHA MẸ

(lời dặn cần thiết) 

Để sự trì tụng được đầy đủ lòng thành khẩn và nhiều linh-nghiệm, trước khi vào khóa lễ các vị Phật tử phải làm như sau : 

- Khi rửa tay thầm niệm lời chú nầy : 
Lấy nước rửa tay, nguyện cho chúng sanh, đặng tay trong sạch, thọ trì pháp Phật. (niệm câu chú) :
An chủ ca ra da tóa ha (3 lần) 

- Khi rửa mặt thầm niệm lời chú nầy : 
Lấy nước rửa mặt, nguyện cho chúng sanh, đặng sạch pháp môn, hằng không nhơ nhớp. 
(niệm câu chú) :
Án lam tóa ha (7 lần

- Khi súc miệng thầm niệm lời chú nầy : 

Súc miệng tâm liền tịnh, 
Phun nước trăm hoa thơm, 
Ba nghiệp thường trong sạch, 
Đồng Phật về Tây phương. 
(niệm câu chú) :
Án hám án hản tóa ha (3 lần)

Sau khi thân tâm đã được trong sạch và lễ phục tề chỉnh Phật-tử vào trước Phật-điện mắt nhìn thấy hình tượng Phật Bồ-Tát thì liền niệm lời chú nầy : 

Con được thấy Phật, nguyện cùng chúng sanh, được vô ngại nhãn, thấy tất cả chư Phật.
Án A mật lật đế hồng phấn tra (3 lần

Niệm chú nầy xong thân tâm thành kính hướng về Phật xá một xá, rồi sẽ lên hương đèn và vào khóa lễ. 

NGHI THỨC KHAI KINH

(Trước hết kính lễ Tam Bảo 3 lạy) 

- Nhứt tâm đảnh lễ thường trụ Tam-Bảo khắp pháp giới mười phương. 
(Xướng một câu đánh một tiếng chuông lạy một lạy
Chấp tay dâng 3 cây nhang và quỳ đọc bài nguyện hương :

Nguyện đem lòng thành kính, 
Gởi theo đám mây hương, 
Phưởngphất khắp mười phương, 
Cúng dường ngôi Tam-Bảo, 
Thề trọn đời giữ đạo 
Theo tự tánh làm lành, 
Cùng pháp giới chúng sanh, 
Cầu Phật từ gia hộ; 
Tâm Bồ đề kiên cố, 
Xa bể khổ nguồn mê 
Chóng quay về bờ giác.

(Đứng dậy cắm hương và tiếp nguyện

Đấng Pháp vương vô-thượng, 
Ba cõi chẳng ai bằng, 
Thầy dạy khắp Trời, Người 
Cha lành chung bốn loại, 
Con nay xin quy y, 
Cầu diệt nghiệp ba kỳ, 
Xưng dương và tán thán, 
Ức kiếp không cùng tận.

- Nhứt tâm đảnh lễ Đức Từ-phụ Bổn Sư Thích-Ca Mưu Ni Phật.
 (3 tiếng chuông lạy 1 lạy)

(Đứng chấp tay đọc bài tán Phật

Như-Lai thân tướng đẹp, 
Thế-gian không gì bằng. 
Chẳng sánh nghĩ bàn được, 
Nên nay con đảnh lễ, 
Thân Phật đẹp vô-ngần, 
Trí-huệ Phật vô-biên, 
Thường trụ tất cả pháp. 
Vì thế con quy y, 
Trí lớn nguyện lực lớn, 
Khắp độ cả chúng sanh, 
Khiến lìa thân nhiệt não. 
Sinh sang nước Thanh-lương. 
Con nay tịnh ba nghiệp 
Quy Y và tán lễ, 
Nguyện cùng các chúng sanh 
Đồng sanh về cõi Phật.

Án phạ nhựt ra hồng (3 lần)

(Xướng 9 danh hiệu Phật Tây-Phương, mỗi hiệu mỗi lạy

- Nhứt tâm đảnh lễ, Phật A-Di-Đà Thân Thanh-tịnh Diệu-pháp ở cõi Thường-Tịch-Quang, cùng khắp pháp giới mười phương chư Phật. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Phật A-Di-Đà, Thân Vi trần tướng-hải, ở cõi Thật báo Trang-nghiêm, cùng khắp pháp giới mười phương chư Phật. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Phật A-Di-Đà, Thân giải-thoát tướng-nghiêm ở cõi phương tiện Thánh cư, cùng khắp giới mười phương chư Phật. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Phật A-Di-Đà, Thân Đại-thừa căn giới, ở cõi Tây-Phương An-lạc, cùng khắp pháp giới mười phương chư Phật. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Phật A-Di-Đà, thân hóa khắp mười phương ở cõi Tây phương An-lạc, cùng khắp pháp giới mười phương chư Phật. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, ba kinh Giáo, Hạnh, lý Tuyên Dương cả Y, Chánh, ở cõi Tây-phương An-lạc cùng khắp pháp giới mười phương chư tôn Pháp. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thân vạn ức Tử-kim ở cõi Tây-phương An-lạc cùng khắp pháp giới mười phương chư Bồ-Tát. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thân Quang-trí vô biên, ở cõi Tây-phương An-lạc cùng khắp pháp giới mười phương chư Bồ-tát. 

- Nhứt tâm đảnh lễ, Thánh chúng trong hải hội Thanh-tịnh, thân mãn phần nhị nghiêm, ở cõi Tây-phương An-lạc cùng khắp pháp giới mười phương chư Thánh Chúng. 

Con nay vì bốn ân, ba cõi : pháp giới chúng sanh, nguyện dứt trừ ba chướng và quy mạng sám hối. (3 lạy) 

(Quỳ tụng lời sám hối)

Đệ tử .... hôm nay, xin chí thành sám hối. 
Con xưa đã tạo bao ác nghiệp, 
Đều do nguồn gốc tham, sân, si 
Từ thân miệng ý phát sanh ra, 
Tất cả con nay xin sám hối. 
Hết thảy bao nhiêu nghiệp chướng ấy, 
Điều tiêu diệt sạch như hư không 
Niệm niệm trí soi khắp pháp giới 
Rộng độ chúng sanh đều thành Phật.

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật cùng hết thảy Tam-Bảo ở khắp pháp giới mười phương.                                                                        (3 tiếng chuông 1 lạy)

(lạy xong quỳ hoặc ngồi trì tụng) 

Cung kính kỉnh lễ Kinh Đại báo Phụ Mẫu Trọng Ân 

BÀI TÁN DƯƠNG

Trầm hương vừa đốt, khói thơm xông khắp pháp giới Mười phương chư Phật đều cảm ứng, thị hiện kết mây lành, lòng thành chí thiết, chư Phật hiện toàn thân. 

Nam mô Hương vân cái bồ tát ma ha tát (3 lần)

Chú tịnh khẩu nghiệp :

Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, tát bà ha (3 lần)

Chú tịnh thân nghiệp :

Án tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị ta bà ha (3 lần

Chú tịnh tam nghiệp :

Án ta phạ, bà phạ, xuật đà ta phạ, đạt ma-ta phạ, bà phạ xuật độ hám. (3 lần)

Chú An-thổ-địa :

Nam mô Tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô, độ rô, địa vĩ tát bà ha. (3 lần)

Chú Phổ cúng dường :

Án nga nga nẳng, tam bà phạ phiệt nhựt ra hộc (3 lần)

BÀI PHÁT NGUYỆN :

Cúi lạy tam giới tôn, 
Quy mạng mười phương Phật. 
Con nay xin phát nguyện, 
Thọ trì kinh báo ân. 
Thấu nghe tám thứ tiếng, 
Hiểu rõ năm hoằng thệ. 
Vâng làm các khổ hạnh, 
Ơn sanh thành khó trả. 
Con nay nguyện tinh tiến, 
Tụng kinh lạy Tam-Bảo. 
Hầu mong đáp bốn ơn, 
Cứu giúp ba đường khổ. 
Như có người nghe thấy, 
Liền phát tâm Bồ-đề. 
Cùng đáp ơn cao dày, 
Sống, thác đều lợi lạc. 
Chỗ rốt ráo cùng tột, 
Sâu kín của kinh này. 
Xin Phật mở pháp mầu, 
Vì chúng con khai thị.

Nam Mô Bổn Sư Thích-Ca Mưu Ni Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao thâm rất vi diệu 
Muôn nghìn ức kiếp khó được gặp. 
Con nay nghe thấy xin trì tụng, 
Nguyện hiểu chơn thật nghĩa Như-Lai. 

Nam Mô Khai Bảo Tạng Bồ-Tát Ma Ha Tát (3 lần)
_____________________ 

NAM MÔ ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH

Phật nói kinh báo đáp ân sâu của Cha, Mẹ.

(Đời Dao-Tần Ngài Tam-Tạng pháp-sư tên Cưu-Ma-La-Thập phụng chiếu chỉ phiên dịch) 

A-Nan - Tôi nghe như vầy : "Một thuở nọ Đức Thích-Ca ngự lại thành Vương Xá, trong vườn ông Cấp-Cô-Độc (rừng cây, ông Kỳ-Đà thái tử thuộc nước Xá-vệ), cùng hai vạn tám ngàn vị Đại Tỳ-khưu và các bậc đại Bồ-Tát. 

Bấy giờ Đức Thế-Tôn, thống lãnh tất cả đại-chúng, hướng về phương nam, giữa đường Ngài gặp một đống xương khô Đức Thế-Tôn liền cúi đầu lễ bái . 

A-Nan bạch Phật : Thưa Đức Thế-Tôn, Như-Lai là đấng Chí-tôn bậc thầy của ba cõi, cha lành chung bốn loại ; Trời người đều quy kỉnh, vì sao Ngài lạy đống xương khô kia? 

Phật bảo A-Nan : Ông tuy là đệ-tử thượng túc của ta, xuất gia lâu năm, nhưng kiến thức còn nông cạn. 

- Nầy A-Nan ! những đống xương khô kia, hoặc là ông bà hoặc là cha, mẹ nhiều kiếp của ta ; bởi thế cho nên ta chí thành kỉnh lễ. 

- Nầy A-Nan, ông đem xương nầy phân làm hai cụm : nếu là Nam phái, thì xương đầu sắc trắng lại nặng. 

Nếu là nữ phái thì xương đầu sắc đen lại nhẹ. 

A-Nan bạch Phật : Kính lạy đức Thế-Tôn, theo con được hiểu nam phái ở đời : mạng đai, hia, mão, nên ai cũng nhận biết đó là đàn ông. 

Còn về nữ phái : hương, hoa, phấn, sáp vòng, vàng, xuyến nhẫn... nên ai cũng nhận biết, đó là đàn bà. 

Ngày nay khuất bóng, xương trắng một màu, Phật tuy dạy rành rẽ, con vẫn khó nhận hai phần nam, nữ. 

Phật lại dạy rằng : "Nầy ông A-Nan ! Những người con trai, lúc còn sinh tiền thường hay tới lui các nơi Am, Tự nghe tụng kinh điển, lễ bái Tam-Bảo, niệm danh hiệu Phật ; bởi vậy nhờ nhân duyên đó nên xương đầu sắc trắng lại nặng. 

Những người con gái, trong lúc sinh tiền, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tốn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc thường ra, ba đấu ba thăng, sửa cho con bú hết thảy tám thùng bốn đấu, cho nên xương nhẹ sắc đen". 

A-Nan sau khi nghe lời Phật dạy, thương xót vô cùng, lòng đau như cắt, lụy nhỏ dầm dề, mà bạch Phật rằng : 

"Bạch Đức Thế-Tôn, công ơn cha mẹ, cao dày non biển, chúng con làm sao báo đáp ? Cúi xin Đức Thế-Tôn, nhủ lòng thương xót, ban bố cho chúng con phương pháp báo đền công ơn cha mẹ. 

- Phật bảo A-Nan ! Ông hãy lắng nghe, ta vì các ông mà phân biệt tỏ bày. 

Nầy A-Nan ơi ! Ơn hoài thai của mẹ, trong vòng mười tháng, nặng nề cay đắng... không sao kể xiết. 

- Hoài thai tháng thứ nhất, tựa giọt sương đọng trên đầu ngọn cỏ, buổi sớm đang còn, chiều lại biến mất, ban mai tụ lại, trưa đã tiêu tan, mất còn khó giữ. 
- Hoài thai tháng thứ hai : giống như sữa đặc, vẫn còn chưa chắc. 
- Hoài thai tháng thứ ba : dạng tựa hòn máu, vì chưa thành tượng hình. 
- Hoài thai tháng thứ tư : vừa mới tượng hình mong manh tợ bọt bể. 
- Hoài thai tháng thứ năm : mới đủ năm hình ; chân tay, đầu óc và thân hình. 
- Hoài thai tháng thứ sáu : lục tinh mới đầy đủ ; mặt tai, mũi, miệng, lưỡi và ý thức. 
- Hoài thai tháng thứ bảy : đầy đủ ba trăm sáu mươi đốt xương, tám vạn bốn ngàn chân lông. 
- Hoài thai tháng thứ tám : Tạng phủ của hài nhi đều đầy đủ, ý chí cùng thông với chín khiếu. 
- Hoài thai tháng thứ chín : Hài nhi trong bụng mẹ, uống ăn bằng nguyên khí, không ăn rau quả, ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thục tạng hướng lên, có một tòa núi chia làm ba đỉnh : một là núi Tu-di, hai là núi nghiệp, ba là núi huyết. Núi nầy một lúc lỏng ra, hóa làm giòng máu rót vào trong miệng của hài nhi để nuôi dưỡng. 
- Hoài thai tháng thứ mười : Thân thể vẹn toàn, mới đến kỳ sinh. Nếu là con hiếu thì chấp tay thu hình, êm ái mà ra, không xót đau lòng mẹ. Nếu là đứa con ngỗ nghịch đạp nhoài, giẫy, giụa, bức, nắm, cào, xé, làm cho lòng mẹ đau như trăm ngàn dao nhọn rạch xé tâm can... kể sao cho xiết ! Sinh được con rồi mẹ cha mừng vui vô hạn. 

Phật bảo A-Nan, ơn đức mẹ cha, gồm có mười điều, phải luôn ghi nhớ dốc lòng báo đáp. Những gì là mười ân ? 

- Ân thứ nhứt : Mẹ cưu mang nặng nhọc, giữ gìn bảo toàn cho con. 
- Ân thứ hai : Mẹ sinh đẻ đớn đau muôn nghìn cay đắng. 
- Ân thứ ba : Mẹ sinh con chỉ biết có con quên nghĩ đến mình. 
- Ân thứ tư : Mẹ nuốt đắng ; nhả ngọt cho con. 
- Ân thứ năm : Bên ướt mẹ chịu, bên ráo con lăn. 
- Ân thứ sáu : Mẹ ẵm bồng, bú mốm cho con lúc còn thơ ấu. 
- Ân thứ bảy : Mẹ chịu bao dơ dáy, tắm rửa giặt giụa. 
- Ân thứ tám : Xa con một phút, mẹ trông nhớ khôn nguôi, 
- Ân thứ chín : Mẹ nuôi nấng con mà cam lòng tạo bao ác nghiệp. 
- Ân thứ mười : Mẹ suốt đời lo lắng cho con.  
_____________________ 

ÂN THỨ NHỨT

Cưu mang nặng nhọc, gìn giữ bảo toàn cho con ! 
Nhân duyên nhiều kiếp nặng, 
Mới vào mẫu bào thai, 
Tháng đầy sinh năm tạng, 
Bảy bảy sáu tinh khai. 
Thân nặng như non nhạc, 
Động tịnh sợ phong tai, 
Áo the đành xốc sếch, 
Gương sáng biếng trang đài.

ÂN THỨ NHÌ

Sinh đẻ đớn đau, muôn ngàn cay đắng ! 
Cứu mang mười tháng trọn, 
Sinh nở đã đến kỳ, 
Bình minh lâm bịnh nặng, 
Chiều mê mệt lâm ly. 
Lo lắng lòng sợ sệt, 
Sầu não lệ thâm y, 
Ngậm ngùi bảo quyến thuộc, 
Tử thần sớm dắt đi.

ÂN THỨ BA

Sinh con chỉ biết có con quên nghĩ đến mình ! 
Những ngày mẹ sinh con, 
Ngũ tạng sưng phù ra, 
Thân tâm đều mê mẩn, 
Máu huyết ướt chan hòa. 
Sinh rồi mong con mạnh, 
Vui mừng dạ thiết tha, 
Đương mừng lo lại đến, 
Con ốm lòng mẹ đau.

ÂN THỨ TƯ

Nuốt đắng nhả ngọt cho con ! 
Mẹ, cha tình non biển 
Thương con lòng chẳng nguôi. 
Nhả ngọt nào có tiếc. 
Nuốt đắng chẳng rùng môi 
Dạ mến yêu chân thật 
Ơn sâu khó đắp bồi 
Những mong con no ấm 
Mẹ đói, rách cũng vui.

ÂN THỨ NĂM

Bên ướt mẹ chịu bên ráo con lăn! 
Chỗ ướt mẹ nằm lên 
Ấm, ráo để con thơ 
Hai vú phòng đói khát 
Hai tay che gió hàn 
Đêm đêm mẹ mất ngủ 
Thương con sánh ngọc vàng 
Những mong con vui vẻ 
Lòng mẹ mới được an.

ÂN THỨ SÁU

Ẵm bồng bú mốm cho con lúc còn thơ ấu ! 
Đức mẹ dày như đất 
Ân cha thẳm tợ trời 
Nuôi con đều bình đẳng
Lòng mẹ chẳng chia phôi 
Không ghét con mù, điếc 
Không hiềm tật chân tay 
Con cùng chung máu mủ 
Lòng thương chẳng đổi thay 

ÂN THỨ BẢY

Chịu bao dơ dáy tắm rửa giặt giụa! 
Vốn người có nhan sắc 
Lại thêm phấn, sáp, bông 
Mày xanh như liễu lục 
Má đỏ tợ sen hồng 
Giặt dũ khăn cùng tã 
Dơ dáy chẳng đổi dung 
Mong sao quần áo sạch 
Tóc búi gọn là xong.

ÂN THỨ TÁM

Xa con một phút lòng mẹ khôn nguôi! 
Tử biệt lòng không nhẫn 
Sinh ly đôi ngã đường 
Con đi xa muôn dặm 
Lòng mẹ ở cố hương 
Ngày đêm thường tưởng nhớ 
Tất dạ quặn can trường

ÂN THỨ CHÍN

Vì nuôi nấng con mà tạo bao điều ác nghiệp! 
Mẹ, cha dày gian khổ 
Công lao sánh tợ trời 
Bế bồng cùng nuôi nấng 
Mong con vui ăn chơi 
Nhường cơm con no lòng 
Mẹ đói rách vẫn vui 
Lớn khôn tìm đôi lứa 
Gây dựng cho nên người

ÂN THỨ MƯỜI

Suốt đời thương mến lo lắng cho con! 
Công đức mẹ cùng cha 
Cao thâm tợ hải hà 
Đứng, đi lòng thương trẻ 
Nhớ nghĩ lúc gần xa 
Mong cho ân oán hết 
Mẹ cha trăm tuổi già 
Vẫn thương con tám chục 
Đến chết còn thiết tha.

Phật bảo A-Nan "Ta xem chúng sanh, tuy được làm người nhưng tâm hạnh mờ tối, không nghĩ đến ân đức cao dày của cha mẹ, không sanh tâm cung kỉnh, bội ân phản đức, lòng không nhớ nghĩa, không thảo không ngay. Nghĩ như : mẹ mang thai, chín tháng mười ngày, đứng ngồi mệt nhọc, như gánh gánh nặng, ăn uống khó khăn, khác nào bịnh tật, tháng ngày đã đủ, chịu bao đau khổ, lo sợ vô thường, như giết trâu dê, máu loang đầy đất. Mẹ ta chịu biết bao đau khổ như thế, mới sinh được thân nầy. Ngoài ra, mẹ còn nuốt đắng nhả ngọt ẵm bồng nuôi nấng, giặt rửa dơ dáy, chẳng quản nhọc nhằn, chịu bao nóng lạnh. Không từ cay đắng, nhường chỗ ráo cho con, bên ướt mẹ nằm. Trải hơn ba năm, cho con bú sữa, mới được lớn khôn, dạy bày lễ nghĩa gây dựng gia đình, đầy đủ sản nghiệp, chẳng quản gian nan. Suốt đời đau khổ mẹ không hề than thở, rủi con đau ốm, cha mẹ xót xa, con được mạnh khỏe, lòng mẹ mới an. Sự nuôi nấng của mẹ, cha cao dày như thế, muốn cho con sớm nên người hữu dụng, nhưng khi con đã lớn khôn, trở lại bất hiếu, chẳng kể mẹ cha, đôi co cáu kỉnh, nói năng vô lễ, dương mắt trợn trừng, háy nguích lại cha mẹ, khinh rẻ chú bác, đánh đập mắng chưởi anh em, làm cho tủi nhục dòng họ, ở không lễ nghĩa, chẳng vâng nghe lời thầy và cả cha mẹ, tự ý tự chuyên, không theo giáo huấn, anh em can ngăn, lại dùng lời hỗn xược. Khi đi về chẳng kể sớm chiều, không một lời thưa gởi với mẹ cha, nói năng hành động đều trái ngược, làm việc tự ý, chẳng tuân mẹ cha. Tuổi còn thơ ấu, người chẳng chấp nệ, nay đã trưởng thành lại càng ương ngạnh mọi điều, cha mẹ quở phạt, chú bác dạy bày, trở lại giận hờn, làm điều bất nghĩa ; theo bọn hoang đàng bỏ hàng bạn tốt, tập những thói quen, si mê cuồng dại, bị người phỉnh dụ, trốn bỏ quê hương, phản bội mẹ cha, bỏ nhà biệt xứ, hoặc theo buôn bán, hay lại đầu quân, lần lữa tháng năm, đem lòng lưu luyến, tự dựng hôn nhân chẳng nhớ quê nhà, buông lung xứ lạ, tập tính cẩu thả, mưu mô đàng điếm, làm việc ngang tàng, mắc vòng lao lý ngục tù giam giữ, hoặc vì đau ốm, ách nạn buộc ràng, đói khổ nguy nan, không nơi nương tựa, bị người khinh ghét, vất vưởng lang thang ; do đó, mạng chung, không ai mai táng sình ương hủy hoại, nắng gió mưa dầu, xương thịt rã rời, thây phơi xứ lạ. 

Đến khi mẹ cha thân thuộc, biết được tin buồn, sầu đau than thở, hoặc nhơn than khóc, lụy ứa đêm ngày, mắt sinh mù quáng, hoặc quá bi ai, kết thành bịnh hoạn, hoặc nhân thương nhớ ; ôm khối hận sầu, vàng vỏ héo khô cho đến tuyệt mạng, làm quỷ giữ hồn khó bề siêu thoát. 

Hoặc nhân vì con bỏ học bỏ hành, không chuyên sự nghiệp, theo thói dị đoan, vô loại hoang đàng, làm điều vô-ích, đánh dành trộm cướp, thâu đoạt của người, rượu chè cờ bạc, gian phi lầm lỗi, liên lụy anh em, thân thuộc cha mẹ. Vừa sớm đã đi, tối khuya mới về, mẹ cha lo lắng. Không nghĩ đến cha già mẹ yếu, ấm lạnh cơ hàn, sớm tối hỏi han, quạt nồng đắp lạnh, chăn gối hầu hạ, con chẳng một mảy may biết đến, chẳng hề thăm hỏi sức khỏe mẹ cha, tình như nước lã. Cha mẹ tuổi già hình vóc yếu gầy, con thấy mẹ cha như thế, chẳng chút xót xa , lại nở sinh lòng khinh khi hất hủi. 

"Hoặc là cha mẹ đơn côi, gìn giữ cửa nhà, con thì như người khác trọ, ở gởi qua đường, mẹ cha đói rét con nào biết đến, bỏ mặc cho mẹ cha ngày đêm than thở, tự sầu tự thương.

Còn như dọn cơm đem nước, dâng lên cha mẹ, e dè xấu hổ, cho rằng những kẻ bàng quan, khi cười sĩ diện, mà chẳng thành tâm cung kính. Trái lại, tài của, vật thực cung cấp cho vợ con, thì như mặt dạn mày dày không hề xấu hổ, thê, thiếp sai bảo, mọi việc đều nghe. Người tôn trưởng quở trách đứa con ngỗ nghịch, trọn không kính nể phục thiện.

- Nói về con gái, khi chưa xuất giá, còn giữ chút lòng hiếu thuận, đối với mẹ cha, khi đã theo chồng, lòng sanh chẳng thảo, mỗi lần thăm viếng mẹ cha có điều trách nhẹ, liền sanh oán hận. Bên chồng đánh mắng, nhịn nhục cam tâm. Kìa như khác họ tha tông, tình thâm huyết trọng. Ngược lại tình thâm cốt nhục, lại trở thành sơ.

Hoặc khi theo chồng, làng xa quận khác, rời khỏi quê hương, lòng không lưu luyến tưởng đến mẹ cha, biệt tăm tin tức để cho cha mẹ thương nhớ, ruột gan đòi đoạn, mong mỏi tin con.

Ân đức mẹ cha vô lượng vô biên, những tội lỗi lầm bất hiếu kể sao cho hết .

Lúc bấy giờ đại chúng nghe Phật nói rõ ân đức sâu dày của cha mẹ, liền đứng dậy chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát đất, dập đầu máu chảy, lụy nhỏ dầm dề, cho đến các lỗ chân lông ứa ra máu đỏ, có người chết ngất, lúc lâu mới tỉnh. Tất cả đại chúng đều đồng thanh lớn tiếng than rằng : đau khổ thay ! đau khổ thay ! 

"Hết thảy chúng con, tội sâu như biển, ngày trước chưa biết, mờ mịt tối tăm như người đi đêm, ngày nay đã rõ những điều tội lỗi, lòng dạ xót đau như bị nghiền nát. Cúi xin Đức Thế-Tôn, xót thương chúng sanh mở đường cứu vớt. Làm sao báo đáp được công ơn cao dày của cha mẹ ?".

Lúc bấy giờ Đức Như-Lai, tức thời dùng tám thứ tiếng Phạm-thinh, thấu suốt các cõi thế giới mà bảo Đại-chúng : các ông lắng nghe, ta vì chúng sanh mà dạy bày phương pháp : 

- "Giả sử có người vai trái cõng cha, vai mặt cõng mẹ" thịt nát thấu xương, xương nát thấu tủy, đi vòng quanh khắp núi tu-di, trải trăm ngàn kiếp, máu tuôn ướt đất, cũng không có thể đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, gặp kiếp vận đói khát, lóc hết thịt trên thân mình, để dâng cha mẹ, trải trăm ngàn kiếp. Tình hiếu ấy cũng chỉ như hạt bụi nhỏ, không đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, trải qua trăm ngàn kiếp, tay cầm dao bén, tự móc mắt mình, dâng lên cha mẹ, để làm lương thực, cũng không thể đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, vì thương bịnh tình cha mẹ, tay tự cầm dao mổ lấy tim, gan, máu tuôn lai láng, chỉ vì cha mẹ, không từ đau khổ, trải qua trăm ngàn kiếp, cũng không có thể đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, vì hiếu đạo, đối với mẹ cha, chịu trăm ngàn dao máy, quay tròn đâm xén thân mình, luân chuyển ra vào hai bên tả hữu, trải qua trăm ngàn kiếp, cũng không thể đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, vì chí hiếu đối với mẹ cha, tự treo mình châm dầu đốt lên làm cây đèn thịt, cúng dường Như Lai cầu cho cha mẹ, trải trăm ngàn kiếp cũng không thể đền đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, vì lòng hiếu đạo, đập xương lấy tủy để chữa bịnh cha mẹ, hay dùng trăm ngàn mũi nhọn, tự chích vào thân, trải trăm ngàn kiếp, cũng không hay báo đáp được công ơn sâu dày của cha mẹ. 

- Giả sử có người, vì cứu mẹ cha, tự nuốt hoàn sắt nóng, cháy sém khắp cả châu thân, như thế trải trăm ngàn kiếp, cũng không thể báo đáp được công ơn cao dày của cha mẹ.

* * * 

Tất cả chúng hội, nghe Phật nói rồi, lòng dạ đớn đau như cắt, lụy nhỏ dầm dề, khóc than bi thiết, cùng đồng thanh bạch Phật : - "Lạy Đức Thế-Tôn : chúng con biết làm cách gì để báo đáp được ơn sâu dày của cha mẹ ?".

Đức Phật dạy rằng - Phật tử muốn báo được thâm ân, - phải vì cha mẹ, hoặc biên chép, hoặc in kinh này thành sách, cho mọi kẻ xa gần tụng niệm công đức ấy hồi hướng về cho cha mẹ. 

- Phải vì cha mẹ, tụng đọc kinh nầy. 
- Phải vì cha mẹ, sám hối tội khiên. 
- Phải vì cha mẹ, cúng dường Tam-Bảo. 
- Phải vì cha mẹ, ăn chay giữ giới. 
- Phải vì cha mẹ, bố-thí tu-phước. 

Nếu người Phật-tử làm được như vậy ; thì mới hay báo được công ơn sâu dày của cha mẹ. Đó mới gọi là người con có hiếu. Nếu người Phật-tử không làm những hạnh như thế, thì gọi là bất hiếu. 

Phật bảo A-Nan, những người bất hiếu, sau khi đã chết liền đọa vào A-tỳ-địa-ngục. Ngục nầy rộng lớn, tám vạn do-tuần, bốn phía đều thành bằng sắt, bao bọc đều bằng lưới sắt, lửa đỏ từ lòng đất cháy lên hừng hực, sức nóng thiêu đốt mãnh liệt, sấm sét chớp giăng, tiếng rền vang khủng khiếp : nào là lò than nước độc, nước đồng sôi nấu chảy, phun lên không trung, cứ tìm cửa miệng tội nhơn mà rót thẳng vào ; nào là chó đồng rắn sắt, phung ra khói lửa mịt mù, sức nóng như thiêu đốt ; rang, nướng ! thịt mở đều cháy tiêu, đau đớn vô cùng, tội nhơn không sao chịu nỗi. Lại có câu đồng móc sắt, rừng kiếm, núi đao những thứ ấy đều tự bay vòng quanh lộn trên không trung, như mưa như mây, từ trên bay xuống, cứ tìm móc, hoặc vít, hoặc đâm ; đau đớn trăm bề, chịu những nỗi đau như thế, trải qua nhiều kiếp, không có thời gian gián đoạn. 

Tiếp đó lại vào trong địa-ngục khác, đầu đội chậu lửa, xe sắt phân thây, ruột gan xương thịt, nát bắn tứ tung, nội trong một ngày, ngàn lần sống, thọ khổ đau chết muôn vạn lần , chịu những nỗi khổ đau như thế, đều nhân ở đời phạm tội ngũ-nghịch bất hiếu. 

Phật dạy : Nếu người thiện nam, thiện nữ vì ông, bà, cha mẹ mình mà in kinh này, mới thật là báo đáp ơn sâu dày của cha mẹ. 

Ai hay : 

- Tạo được một quyển, thì thấy được một Đức Phật. 
- Tạo được mười quyển, thì thấy được mười Đức Phật. 
- Tạo được trăm quyển, thấy được trăm Đức Phật. 
- Tạo được ngàn quyển, thấy được ngàn Đức phật. 
- Tạo được vạn quyển, thấy được vạn Đức Phật. 

Nhờ duyên lực tạo kinh này, thường được chư Phật luôn luôn ủng hộ, khiến cho cha mẹ của người tạo kinh, mau được sinh lên cõi trời, xa lìa những khổ đau nơi chốn địa-ngục. 

Bấy giờ ông A-Nan và các đại-chúng cùng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Dạ-xoa, La-sát, Nhơn và Phi-nhơn v.v? nghe Phật nói rồi, đều đồng thanh phát nguyện : 

"Tất cả đệ-tử chúng con, nguyện mãi mãi về sau cho đến đời vị lai xa thẳm thà chịu nát thân, trải trăm ngàn kiếp thề không dám trái lời giáo huấn của Như Lai. 

- Chúng con thà chịu trải qua trăm ngàn kiếp, kéo lưỡi ra ngoài dài trăm do-tuần, dùng cây sắt bừa lên, máu chảy thành sông, chứ thề không dám trái lời giáo huấn của Như-Lai. 

- Chúng con thà chịu trăm ngàn mũi dao nhọn, quanh lộn trong thân, rạch khắp tả hữu, thề nguyện không trái với thánh giáo của Đức Như-Lai. 

- Chúng con thà chịu, lưới sắt trói buộc quanh mình, trải trăm ngàn kiếp, thề nguyện không dám trái lời thánh giáo của Đức Như-Lai. 

- Chúng con thà chịu, đao máy cối giã, nghiền nát thân mình, trăm ngàn muôn mảnh, da, thịt, gân, xương, thảy đều rời rã, trải trăm ngàn kiếp thề không dám trái lời thánh giáo của Đức Như-Lai". 

Bấy giờ A-Nan bạch Phật rằng - Kính lạy Đức Thế-Tôn kinh nầy tên gọi là gì ? Cúi xin Đức Thế-Tôn chỉ dạy để chúng con được biết phụng trì ? 

Phật bảo A-Nan, tên kinh này gọi là "ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH" đó là danh tự các ông nên phụng trì. 

Bấy giờ hết thảy Đại-chúng nghe Phật dạy rồi, tất cả đều hoan hỷ tín thọ phụng hành, đều lễ Phật mà lui. 

________________________

Thần chú kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân :

Án Nga Nga Nẳng Tát Bà Ha (108 biến)

Thần chú vãng sanh :

Án Truật Đế Luật tát, Ta Bà Ha (108 biến)

PHẦN HỔI HƯỚNG :

(Tụng Tâm Kinh Bát Nhã....._)

TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Bồ Tát Quán Thế Âm

Đồng danh Quan Tự Tại

Thực chứng Trí Tuệ lớn

Quán chiếu tất cả pháp

Thấy Năm Uẩn đều không

Độ thoát các khổ ách !

Nầy ông Xá Lợi Tử :

Sắc chẳng khác gì Không

Không chẳng khác gì Sắc

Sắc cũng tức là Không

Không cũng tức là sắc,

Các Uẩn, Tho Tưởng, Hành,

Thức cũng như vậy.

Nầy ông Xá Lợi Tử :

Các Pháp không có Tướng,

Không tướng Sanh tướng Diệt

Không tướng Sạch tướng

Không tướng Thêm tướng Bớt

Cho nên trong cái Không,

Là không Sắc không Thọ,

Không TưởngHành,Thức,

Kể cả Mắt, Tai, Mũi

Cũng như Lưỡi, Thân, Ý.

Pháp trần, Tiếng, Mùi thơm,

Vị, Xúc, Pháp ? Cũng vậy.

Không giới phận của Mắt

Không giới phận Ý-Thức.

Không có tên Mê-Mờ (vô-minh)

Không tên hết Mê Mờ,

Và những tên Gia, Chết

Cũng như hết Già Chết.

Luôn cả, KhoTập, Diệt,

Đạo, trong Bốn Đế.

Không Trí và không-Đắc,

Do nơi không-sở-đắc,

Cho nên Bậc Bồ-Đề,

Giác ngộ chúng Hữu-tình :

Nương vào Trí Tuệ lớn

Đến tột bờ cứu cánh.

Tâm không còn ngăn ngại,

Vì không có ngăn ngại

Nên không còn sợ hãi

Điên đảo và mộng tưởng .

Rốt ráo thường vắng lặng (niết-bàn)

Ba đời các Đức Phật ,

Đều từ Trí Tuệ lớn

Bên kia bờ Giải Thoát

Đã chứng bậc Vô-Thượng

Chánh Đẳng Giác cao tột.

Cho nên biết :

Bát Nhã Ba La Mật,

Là chú lớn Đại Thần.

Là Chú Sáng Đại Minh.

Là Chú Cao Vô Thượng.

Là Chú không gì sánh.

Chú trừ tất cả khổ

Chân thật không hư dối !

Nên nói chú Bát-Nhã ?

Phật tuyên nói chú rằng :

YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ, BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỔ ĐỀ TÁT BÀ HA. 

Bạt nhất thế nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ đà la ni.

Nam mô A di đa bà dạ đa tha da đa dạ đa diệt dạ tha, a di rị đô bà tì ; a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lăng đế, a di rị đa tì ca lăng đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

Phật A-Di-Đà thân Kim sắc. Tướng tốt Quang-minh tự trang nghiêm. 
Năm tu di uyển chuyển bạch hào. Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc. 
Trong hào quang hóa vô số Phật. Vô số Bồ-Tát hiện ở trong. 
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh. Chín phẩm sen vàng lên giải thoát. 
Quy mạng lễ A Di Đà Phật. Ở phương Tây thế giới An lành. 
Con nay xin nguyện vãng sanh cho Cha Mẹ . Cúi xin Đức Từ bi tiếp-độ. 

Nam Mô A Di Đà Phật (108 biến) 
Nam Mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (10 biến) 
Nam Mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (10 biến) 
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ-Tát (10 biến) 
Nam Mô Thanh-Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-Tát (10 biến) 

(Lễ Chư Phật)

- Nhứt tâm đảnh lễ Tận Hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai chư Phật, Pháp, Tăng thường trú Tam Bảo (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Ta Bà Giáo-chủ Bổn Sư Thích-Ca Mâu Ni Phật (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ đương lai Giáo-chủ Di-lặc Tôn Phật (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Đại-bi Quan-Thế-Âm Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Đại-trí Văn Thù Sư-Lợi Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Đại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Đại nguyện Địa-Tạng Vương Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ Thập phương tam thế nhứt thế chư đại Bồ-Tát (1 lạy) 
- Nhứt tâm đảnh lễ phụng vì Phụ-Mẫu đại trọng ân Đảnh lễ Thập phương thường trú Tam Bảo (3 lạy) 

(Quỳ tụng bài sám-hối hồi hướng) 

BÀI TỤNG SÁM-HỐI HỔI HƯỚNG

Đệ tử chúng con 
Ma nghiệp mê chướng 
Ngu độn nhiều kiếp. 
Tự nhiên tưởng sanh, 
Sai quấy vẫn vơ, 
Bởi vậy cho nên, 
Lòng duyên ngoại cảnh, 
Lầm lộn kinh văn, 
Âm vận không chừng, 
Hiểu theo tà kiến, 
Tâm không chú trọng, 
Đương khi tụng niệm, 
Gián đoạn khoảng cách, 
Tụng niệm hồi lâu, 
Nhân việc trái ý, 
Phật đài thanh tịnh, 
Thiếu lòng thành kỉnh, 
Thân, khẩu không sạch, 
Cúng lễ sai phép, 
Trải bày dưới đất 
Tất cả đều do, 
Hôm nay chúng con, 
Vì sự tạo tác, 
Thần chí thác loạn 
Sáu căn tăm tối, 
Ra những ý nghĩ, 
Nhiều lớp điên đảo 
Mắt nhìn kinh văn, 
Tụng sai cú Pháp, 
Tiếng tụng nặng nhẹ, 
Lòng lại chấp nệ, 
Theo sự bỏ lý, 
Vào trong kinh điển, 
Ngồi đứng chẳng yên, 
Bỏ mất thứ tự, 
Sinh ra biếng nhác, 
Lòng nổi sân hận. 
Làm cho ô uế 
Khinh lờn dễ dãi, 
Y phục chẳng ngay, 
Kinh sách nghiêng ngữa, 
Đổ rớt nhơ nhớp, 
Bất chuyên bất kỉnh. 
Hết lòng sợ hãi. 
Cúi xin chư Phật, 
Tất cả thánh chúng. 
Thiện thần, Hộ-pháp, 
Mở lượng Từ-bi, 
Các tội lỗi lầm. 
Kỉnh thành sám hối, 
Trì kinh tụng chú, 

Đệ-tử chúng con, 
Lo sự phiên dịch, 
Hoặc kẻ thừa truyền, 
Âm thích nhầm lẫn, 
Hoặc vì sửa đổi, 
Hoặc các vị thầy, 
Con nay thảy đều, 
Nhờ thần lực Phật, 
Sớm được tiêu trừ 
Cứu vớt hữu tình 
Tụng kinh trì chú, 
Thánh thần ba cõi, 
Cầu bao phước thiện, 
Vô thượng Bồ-đề, 
Đều được chung vào, 
Pháp giới Bồ Tát 
Khắp cõi hư không, 
Thiên Long Bát-bộ. 
Xót thương tha thứ, 
Con xin thành tâm, 
Khiến cho công đức, 
Viên mãn tròn đầy. 
Tâm nguyện hồi hướng, 
Sai lầm chú giải, 
Có điều sai lạc, 
Những tội lỗi lầm : 
In, khắc, biên, chép, 
Hay những người khác, 
Cầu xin sám hối. 
Khiến cho các tội, 
Xe pháp thường luân 
Hết thảy công đức, 
Thành tâm hồi hướng, 
Giữ chốn già-lam, 
Trang nghiêm chánh đạo, 
Khắp nguyện chúng sanh 
Vào Biển tánh chư Phật. 
Nguyện tiêu ba chướng và phiền não 
Nguyện được trí-tuệ tỏ chơn-minh 
Nguyện bao tội chướng đều tiêu diệt 
Kiếp kiếp thường tu hạnh Bồ-Tát 
Nguyện về cõi tịnh Phật Tây phương, 
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ, 
Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh, 
Các bậc Bồ-Tát là bạn hữu,

Chúng sanh vô biên thề độ hết . 
Phiền não vô tận thề dứt sạch. 
Pháp môn vô lượng thề tu học, 
Đạo Phật vô thượng thề viên thành, 
Công đức tối thắng tụng kinh nầy, 
Bao nhiêu phước lớn xin hồi hướng, 
Khắp nguyện đền đáp bốn trọng ân 
Mau về cõi Phật vô lượng quang.

- Nhứt tâm đảnh lễ, tiên báo nhị thân ân, hậu thành chánh giác chư Bồ-Tát. (3 lạy)

ĐẢNH LỄ BA TỰ QUY-Y

- Tự quy y Phật, nguyện khắp chúng sanh, hiểu được đạo cả, phát lòng vô thượng. 
- Tự quy y Pháp, nguyện khắp chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. 
- Tự quy y Tăng, nguyện khắp chúng sanh, suốt cùng đại chúng, thảy đều không ngại. 

Nguyện đem công đức này 
Trải khắp cho tất cả 
Con cùng với chúng sanh 
Con cùng với cha mẹ 
Đều trọn thành Phật đạo.

NAM MÔ LONG HOA GIÁO CHỦ ĐƯƠNG LAI TỪ THỊ DI-LẶC TÔN PHẬT LONG HOA HỘI LONG HOA TAM HỘI ĐỆ-TỬ NGUYỆN TƯƠNG PHÙNG. (TAM BÁI). 

--- HẾT ---


Xem dưới dạng văn bản thuần túy