× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Niết Bàn



Quyển thứ 34: Phẩm thứ 24: Bồ Tát Ca Diếp (2)

     Này thiện nam tử! Ðã vào định rồi, ba mươi bảy phẩm có thể giỏi phân biệt tất cả pháp tướng. Vậy nên lấy định làm dẫn đường. Ba mươi bảy phẩm này phân biệt pháp tướng thì trí là tối thắng. Vậy nên lấy tuệ làm thắng. Như vậy trí tuệ biết phiền não rồi thì nhờ lực trí tuệ nên phiền não tiêu diệt. Như trong thế gian, bốn binh phá hoại oán tặc, hoặc một, hoặc hai người dũng kiện có thể phá. Ba mươi bảy phẩm cũng lại như vậy, lực trí tuệ có thể phá hoại phiền não. Vậy nên dùng tuệ làm thắng.

            Này thiện nam tử! Tuy nhân tu tập ba mươi bảy phẩm chứng được tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là Thật. Nếu khi phá hoại phiền não chứng được giải thoát thì mới gọi là Thật. Nhân ba mươi bảy phẩm này phát tâm tu đạo tuy dược thế lạc và xuất thế lạc, bốn quả Sa môn và cả Giải thoát nhưng cũng chẳng được gọi là rốt ráo. Nếu có thể đoạn trừ việc sở hành của ba mươi bảy phẩm thì đó gọi là Niết Bàn. Vậy nên ta nói rằng rốt ráo thì tức là Ðại Niết Bàn.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Lòng ái niệm thiện tức là dục vậy. Nhân ái niệm thiện mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc. Ðó gọi là nhân. Nhân gần gũi bạn lành nên gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Nhân gần gũi bạn lành có thể thiện tư duy nên gọi là tăng thêm. Nhân bốn pháp này có thể sinh trưởng đạo như là dục, niệm, định trí. Ðó tức gọi là chủ, đạo, thắng vậy. Nhân ba pháp này được hai giải thoát, đoạn trừ ái nên được tâm giải thoát, cắt đứt vô minh nên được tuệ giải thoát. Ðó gọi là thật. Như vậy tám pháp rốt ráo được quả gọi là Niết Bàn nên gọi là rốt ráo.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Dục tức là phát tâm xuất gia, Xúc tức là bạch bốn yết ma. Ðó gọi là nhân. Nhiếp tức là thọ hai thứ giới: Một là Ba la đề mộc xoa giới, hai là tịnh căn giới. Ðó gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Tăng thêm tức là tu tập bốn thiền, chủ tức là quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, đạo tức là quả A na hàm, thắng tức là quả A la hán, thật tức là quả Bích Chi Phật, rốt ráo tức là quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Dục gọi là thức, xúc gọi là lục nhập, nhiếp gọi là thọ, tăng thêm gọi là vô minh, chủ gọi là  danh sắc, đạo gọi là ái, thắng gọi là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo gọi là sinh già bệnh chết.

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Thưa đức Thế Tôn! Căn bản nhân, tăng thêm ba pháp như vậy làm sao có khác ? Này thiện nam tử! Cái gọi là căn tức là mới phát, nhân tức là tương tợ chẳng đoạn, tăng thêm tức là diệt tướng tợ rồi có thể sinh ra tương tợ.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là tác, nhân tức là quả, tăng thêm tức là có thể dùng. Này thiện nam tử! Ðời vị lai tuy có quả báo nhưng do chưa thọ nên gọi là nhân và khi thọ quả ấy thì đó gọi là tăng thêm.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là cầu, được tức là nhân, dùng tức là tăng thêm. Này thiện nam tử! Trong Kinh này thì căn tức là thấy đạo, nhân tức là tu đạo, tăng thêm tức là đạo vô học.

            Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là chánh nhân, nhân tức là phương tiện nhân. Từ hai nhân này thu hoạch được quả báo gọi là tăng trưởng.

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, rốt ráo tức là Niết Bàn. Như vậy Niết Bàn làm sao có thể được ?

            - Này thiện nam tử! Nếu Ðại Bồ tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có thể tu mười tưởng thì phải biết người đó có thể được Niết Bàn. Những gì là mười tưởng ? Một là vô thường tưởng. Hai là khổ tưởng. Ba là vô ngã tưởng.Bốn là yểm ly thực tưởng. Năm là tưởng tất cả thế gian chẳng thể vui. Sáu là tử (chết) tưởng. Bảy là tưởng nhiều tội lỗi. Tám là ly (lìa) tưởng. Chín là diệt tưởng. Mười là vô ái tưởng. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tu tập mười thứ tưởng như vậy thì người đó rốt ráo quyết định được Niết Bàn, chẳng theo lòng người khác mà tự có thể phân biệt thiện hay bất thiện.v.v... Ðó gọi là chân thật xứng với nghĩa của Tỳkheo... cho đến được xứng với nghĩa của Ưu bà di.

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Bồ tát ... cho đến Ưu bà di.v.v... tu vô thường tưởng ?

            Này thiện nam tử! Bồ tát có hai thứ: Một là mới phát tâm, hai là đã hành đạo. Vô thưởng tưởng cũng lại có hai thứ: Một là thô, hai là tế (nhỏ). Bồ tát mới phát tâm khi quan sát được vô thường tưởng tác khởi suy nghĩ này: “Vật của thế gian có hai thứ, một là nội, hai là ngoại. Như vậy nội vật vô thường biến dị. Ta thấy lúc sinh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc trai trẻ, lúc già lão, lúc chết... những thời tiết này mỗi mỗi đều chẳng đồng. Vậy nên phải biết nội vật vô thường”. Bồ tát lại khởi ý niệm này: “Ta thấy chúng sinh, hoặc có người béo tốt, đầy đủ sắc lực, đi lại tiến dừng tự tại không trở ngại. Hoặc thấy bệnh khổ, sắc lực tiều tụy, nhan mạo hao tổn, chẳng được tự tại. Hoặc thấy của cải giàu có, kho tàng đầy ắp. Hoặc thấy nghèo cùng, đụng việc thì thiếu thốn. Hoặc thấy thành tựu vô lượng công đức. Hoặc thấy đầy đủ vô lượng pháp ác.... Vậy nên quyết định biết nội pháp vô thường”. Bồ tát lại quan sát ngoại pháp: Khi hạt, khi mầm, khi thân, khi lá, khi hoa, khi quả... như vậy những thời tiết mỗi mỗi đều chẳng đồng. Như vậy ngoại pháp hoặc có đầy đủ, hoặc chẳng đầy đủ. Vậy nên phải biết tất cả ngoại vật quyết định là vô thường. Ðã quan sát thấy pháp là vô thường rồi thì lại quan sát pháp nghe: Ta nghe chư thiên thành tựu đầy đủ khoái lạc cực diệu, thần thông tự tại mà cũng có năm tướng. Vậy nên phải biết tức là vô thường. Lại nghe kiếp ban đầu có các chúng sinh, mỗi mỗi đều đầy đủ công đức thượng diệu, ánh sáng thân tự chiếu soi chẳng nhờ mặt trời, mặt trăng. Nhưng do lúc vô thường nên ánh sáng diệt, đức tổn. Lại nghe: Ngày xưa có vị Chuyển Luân Thánh Vương thống lĩnh bốn thiên hạ, thành tựu bảy báu, được đại tự tại nhưng mà chẳng thể phá hoại tướng vô thường. Bồ tát lại quan sát đại địa: Thuở xưa, là chỗ yên, bố trí vô lượng chúng sinh, vùng không chỗ trống như vừng bánh xe, sinh trưởng đầy đủ tất cả diệu dược, rừng rậm, cây cối hoa trái sum suê. Nhưng chúng sinh bạc phước khiến cho đại địa này không còn thế lực, vật sở sinh trở nên hư hao. Vậy nên phải biết pháp trong ngoài, tất cả vô thường. Ðó thì gọi là thô vô thường vậy. Ðã quan sát thô rồi thì Bồ tát tiếp đến quan sát  tế. Sao gọi tế ? Ðại Bồ tát quan sát tất cả vật nội ngoại cho đến vi trần ở tại thời vị lai đã là vô thường. Vì sao vậy ? Vì thành tựu đầy đủ tướng phá hoại. Nếu sắc vị lai vô thường thì chẳng được nói rằng, sắc có mười thời sai khác. Nhnữg gì là mười ? Một là mô thời, hai là bào thời, ba là bào thai thời, bốn là nhục đoàn thời, năm là chi thời, sáu là anh hài thời, bảy là đồng tử thời, tám là thiếu niên thời, chín là thạnh tráng thời, mười là suy lão thời. Bồ tát quan sát mô, nếu chẳng phải vô thường thì chẳng nên đến bào... cho đến thạnh tráng nên chẳng phải vô thường thì nhất định chẳng đến lão. Nếu những thời đó chẳng phải từng niệm từng niệm diệt thì nhất định chẳng lớn dần mà nên phải một lúc trở thành lớn đầy đủ. Do việc này vậy nên phải biết là quyết định có từng niệm từng niệm vi tế vô thường. Lại thấy có người với các căn đầy đủ, nhan mạo rực rỡ mà về sau thấy khô khốc tiều tụy, lại tác khởi ý niệm này: “Người đó quyết định có từng niệm từng niệm vô thường”. Lại quan sát bốn đại và bốn oai nghi, lại quan sát trong ngoài đều có hai nhân của khổ là đói khát, nóng lạnh, lại quan sát là bốn. Nếu không niệm vi tế vô thường thì cũng chẳng thể được nói bốn khổ như vậy. Nếu có Bồ tát có thể tác khởi ý niệm này thì đó gọi là Bồ tát quan sát tế vô thường. Như nội ngoại sắc, tâm pháp cũng vậy. Vì sao vậy ? Vì hành lục xứ. Khi hành lục xứ thì hoặc sinh ra hỷ tâm, hoặc sinh ra sân tâm, hoặc sinh ra ái tâm, hoặc sinh ra tham tâm...lần lượt sinh ra khác , chẳng được một thứ. Vậy nên phải biết, tất cả sắc pháp và chẳng phải sắc pháp đều là vô thường. Này thiện nam tử! Bồ tát nếu có thể ở trong một niệm thấy tất cả pháp sinh diệt vô thường thì đó gọi là Bồ tát đủ vô thường tưởng. Này thiện nam tử! Kẻ trí tu tập vô thường tưởng rồi thì xa lìa thường mạn, thường đảo, tưởng đảo.

            Tiếp đến tu khổ tướng. Vì nhân duyên gì nên có khổ như vậy ? Biết sâu khổ này nhân ở vô thường. Nhân vô thường nên thọ sinh, già, bệnh, chết. Sinh già bệnh chết nhân duyên nên gọi là vô thường. Vô thường nhân duyên nên thọ nội ngoại khổ. Ðói khát, nóng lạnh, đánh đập, nhục mạ.v.v.... những khổ như vậy đều nhân vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát sâu thân này tức là đồ đựng vô thường. Ðồ đựng vô thường tức là khổ. Do đồ đựng khổ nên pháp được chứa đựng cũng lại là khổ. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát, sinh tức là khổ, diệt tức là khổ. Khổ sinh diệt nên tức là vô thường, chẳng phải ngã và ngã sở, tu vô ngã tưởng. Kẻ trí lại quan sát khổ tức là vô thường, vô thường tức là khổ. Nếu khổ vô thường thì người trí làm sao nói rằng, có ngã ? Khổ chẳng phải là ngã,vô thường cũng vậy. Như vậy năm ấm cũng khổ vô thường thì chúng sinh làm sao nói rằng có ngã ? Lại nữa, quan sát tất cả pháp có hòa hợp khác, chẳng từ một hòa hợp sinh ra tất cả pháp, cũng chẳng phải một pháp là quả của tất cả hòa hợp. Tất cả hòa hợp đều không tự tính, cũng không một tính, cũng không tính khác, cũng không tính của vật, cũng không tự tại. Các pháp nếu có những tưởng như vậy thì người trí làm sao nói rằng có ngã. Lại tác khởi ý niệm này: Trong tất cả pháp không có một pháp có thể làm tác giả. Nếu giả sử một pháp chẳng thể làm thì mọi pháp hòa hợp cũng chẳng thể làm. Tính của tất cả các pháp nhất định chẳng thể một mình sinh một mình diệt mà hòa hợp nên diệt, hòa hợp nên sinh. Pháp này sinh ra rồi thì chúng sinh điên đảo tưởng nói rằng, hòa hợp này từ hòa hợp sinh ra. Tưởng của chúng sinh điên đảo, không có chân thật thì làm sao mà có ngã chân thật được ? Vậy nên kẻ trí quan sát vô ngã. Lại nữa, quan sát kỹ càng vì nhân duyên gì mà chúng sinh nói có ngã ? Ngã này nếu có thì nên một hay nên nhiều ? Ngã nếu một thì làm sao mà có Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà, người, trời, địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, lớn nhỏ, già trẻ.... vậy nên biết ngã chẳng phải là một. Ngã nếu nhiều thì làm sao nói rằng, ngã của chúng sinh là một, là khắp cùng, không có bờ cõi. Hoặc một, hoặc nhiều cả hai đều không có ngã.

            Người trí quan sát vô ngã như vậy rồi, tiếp đến lại quan sát yếm ly thực tưởng, Bồ tát khởi ý niệm rằng: “Nếu tất cả pháp vô thường, khổ, không, vô ngã thì làm sao thực (ăn) khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý ? Nếu có chúng sinh vì tham ăn nên khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý thì việc được của cải mọi người đều chung được đó, nhưng về sau chịu quả báo khổ thì không chung phần”. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát tất cả chúng sinh vì ăn uống nên thân tâm chịu khổ. Nếu từ mọi khổ mà được ăn thì ta phải làm sao ở trong ăn này mà sinh ra tham trước? Vậy nên đối với cái ăn chẳng sinh ra lòng tham. Lại nữa, kẻ trí phải quan sát, nhân ăn uống mà thân được tăng trưởng, ta nay xuất gia, thọ giới, tu đạo vì muốn xả thân, nhưng nay tham cái ăn này thì làm sao sẽ được xả thân này vậy? Quán như vậy rồi, tuy lại thọ ăn giống như quỉ Khoáng Dã ăn thịt của con mình, nhưng lòng người ấy chán ghét đều thấy chẳng ngon lành. Quan sát sâu đoàn thực có lỗi như vậy. Tiếp đến quan sát xúc thực như trâu bị mỗ bị vô lượng trùng bu ăn. Tiếp đến quan sát tư thực như đám lửa lớn, thức thực giống như ba trăm cái dùi, cái mâu. Này thiện nam tử! Người trí quan sát bốn thứ ăn như vậy rồi thì đối với ăn nhất định chẳng sinh tham lạc tưởng. Nếu còn sinh tham thì phải quán bất tịnh. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi tham ái nên đối với tất cả loại ăn giỏi có thể phân biệt tưởng bất tịnh, tùy theo các bất tịnh mà khiến cho cùng tương tợ. Quán như vậy rồi, nếu được đồ ăn ngon và cả đồ ăn dở thì khi thọ giống như bôi thuốc lên ung nhọt, nhất định chẳng sinh ra lòng tham ái. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể quan sát như vậy thì đó gọi là thành tựu được yếm ly thực tưởng.

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Thưa đức Thế Tôn! Kẻ trí quan sát  ăn tạo tác bất tịnh tưởng là chính là quán chân thật hay quán hư giải vậy ? Nếu chính là quan sát chân thật thì cái ăn được quan sát thật chẳng phải bất tịnh. Nếu chính là hư giải thì pháp đó sao gọi là thiện tưởng.

            Ðức Phật dạy rằng:

            - Này thiện nam tử! Người quan sát như vậy cũng là thực quán, cũg là hư giải. Có thể phá hoại được lòng tham ăn nên gọi là thật. Chẳng phải là trùng mà thấy trùng nên gọi là hư giải. Này thiện nam tử! Tất cả hữu lậu đều gọi là hư mà cũng có thể được thật. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo phát tâm xin ăn mà tác khởi ý niệm rằng: “Ta sẽ xin ăn, nguyện được của ngon, chớ được đồ thô ác! Nguyện ắt được nhiều, chứ khiến cho ít quá! Cũng nguyện cho mau được chớ khiến cho chậm trễ!” Tỳkheo như vậy chẳng gọi là đối với ăn được tư tưởng chán lìa mà việc tu tập pháp thiện ngày đêm hao suy, pháp bất thiện sẽ tăng trưởng dần.

            Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo khi muốn xin ăn thì trước phải nguyện rằng: “Nguyện cho những người xin ăn đều được no đủ và người cho đồ ăn kia được phước không lường. Ta nếu được ăn là để trị liệu thân độc hại, tu tập pháp lành, lợi ích cho thí chủ”. Khi tác khởi nguyện này thì sự tu hành thiện pháp ngày đêm tăng trưởng, pháp bất thiện sẽ tiêu diệt dần.             Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo có thể tu như vậy thì phải biết người đó chẳng ăn của luống dối đối với tín thí nơi trung tâm quốc gia.

            Này thiện nam tử! Kẻ trí đầy đủ bốn tưởng như vậy thì có thể tu thế gian bất khả lạc tưởng (tư tưởng thế gian chẳng thể vui). Kẻ trí tác khởi ý niệm này: “Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sinh, lão, bệnh, tử, mà thân người của ta không chỗ nào chẳng sinh ra. Nếu trong thế gian không có một chỗ sẽ được lìa khỏi sinh già bệnh chết thì ta sẽ làm sao mà vui với thế gian. Tất cả thế gian không có gì tiến được mà chẳng lùi mất. Vậy nên thế gian quyết định vô thường. Nếu là vô thường thì làm sao mà kẻ trí vui với đời được ? Mỗi một chúng sinh trải qua cùng khắp tất cả thế gian thọ đủ khổ vui. Tuy lại được thọ thân Phạm thiên cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng mạng chung rồi trở lại rơi vào trong ba đường ác. Tuy làm thân Tứ Thiên Vương cho đến thân trời Tha Hóa Tự Tại, nhưng khi mạng chung rồi sinh ra trong đường súc sinh, hoặc làm sư tử, hổ báo, sài lang, voi ngựa, trâu lừa. Tiếp đến Bồ tát quan sát thân của Chuyển Luân Thánh Vương, thống lĩnh bốn thiên hạ, giàu sang tự tại, nhưng khi phước hết nghèo cùng khốn khó, ăn mặc chẳng cung cấp đủ. Người trí quan sát sâu những việc như vậy rồi thì thấy sinh ra ở thế gian chẳng thể lạc tưởng. Kẻ trí quan sát hữu pháp của thế gian như là nhà cửa, quần áo, ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang, hương hoa, chuỗi ngọc, đủ thứ kỹ nhạc, của cải, vật báu... Những việc như vậy đều vì để lìa khỏi khổ mà những vật thể đó tức là khổ thì làm sao dùng khổ mà muốn lìa khỏi khổ ?

            Này thiện nam tử! Người trí quan sát như vậy rồi thì đối với vật của thế gian chẳng sinh ra ái lạc mà tạo tác lạc tưởng.

            Này thiện nam tử! Ví như có người thân mắc bệnh nặng, tuy có đủ thứ âm nhạc, xướng kỹ, hương hoa, chuỗi ngọc... nhưng nhất định không đối với những vật ấy sinh ra tham ái lạc. Người trí quan sát rồi cũng lại như vậy.

            Này thiện nam tử! Người trí quan sát sâu, tất cả thế gian chẳng phải chỗ qui y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỗ khả ái, chẳng phải chỗ bờ kia, chẳng phải pháp Thường Lạc Ngã Tịnh.... Nếu ta tham lạc thế gian như vậy thì ta làm sao được lìa khỏi pháp đó. Như người chẳng ưa chỗ tối tăm mà cầu ánh sáng, lại trở lại về với tối tăm. Tối tăm tức là thế gian, ánh sáng tức là xuất thế gian. Nếu ta ưa thế gian thì tăng trưởng tối tăm, xa lìa ánh sáng. Tối tức là vô minh, ánh sáng tức là trí minh (trí sáng). Nhân của trí minh này tức là thế gian bất khả lạc tưởng. Tất cả tham kết tuy là ràng buộc nhưng hôm nay tham đối với trí minh thì chẳng tham thế gian. Kẻ trí quan sát sâu pháp như vậy rồi thì đầy đủ thế gian bất khả lạc tưởng.

            Này thiện nam tử! Người có trí đã tu tập Thế gian bất khả lạc tưởng rồi, tiếp đến tu tử tưởng (tư tưởng chết). Quan sát thọ mạng này thường bị sự nhiễu hại của vô lượng oán thù, từng niệm từng niệm tổn giảm, không có tăng trưởng giống như nước chảy xiết từ núi xuống chẳng được trụ dừng, cũng như móc buổi sớm thế chẳng dừng lâu, như người tù dẫn đến chợ mỗi bước mỗi bước gần với cái chết, như dắt trâu, dê đi đến chỗ giết thịt.

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Thưa đức Thế Tôn! Làm sao kẻ trí quan sát từng niệm từng niệm diệt ?

            - Này thiện nam tử! Ví như bốn người đều giỏi thuật bắn tên tụ lại ở một chỗ, đều bắn về một phương, đều tác khởi ý niệm này: “Bốn người chúng ta đều phát ra, đều rơi xuống!” Lại có một người tác khởi ý niệm rằng: “Như vậy bốn mũi tên kịp khi chúng chưa rơi xuống, ta có thể cùng một lúc dùng tay bắt lấy hết!” Này thiện nam tử! Người như vậy có thể nói là nhanh không ?

            Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:

            - Ðúng vậy! Thưa đức Thế Tôn!

            Ðức Phật dạy rằng:

            - Này thiện nam tử! Quỉ địa hành nhanh lại là nhanh hơn người, có quỉ phi hành lại nhanh hơn quỉ địa hành, nhanh của Tứ Thiên Vương lại nhanh hơi quỉ phi hành, thiên thần mặt trời mặt trăng lại nhanh hơn bốn vua trời, Hành Kiên thiên lại nhanh hơn mặt trời mặt trăng. Thọ mạng của chúng sinh lại nhanh hơn trời Kiên Tật. Này thiện nam tử! Một hơi thở, một nháy mắt mà thọ mạng của chúng sinh bốn trăm lần sinh diệt. Kẻ trí nếu có thể quan sát mạng như vậy thì đó gọi là có thể quan sát niệm niệm sinh diệt vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát mạng hệ thuộc tử vương (vua thần chết): Ta nếu có thể lìa khỏi tử vương như vậy thì được vĩnh viễn đoạn trừ thọ mạng vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát thọ mạng này giống như bờ sông đến cây lớn cao vút, cũng như có người tạo tội đại nghịch và người ấy chịu tội chết không ai thương tiếc, như khi vua sư tử đói khát cùng khốn, cũng như khi độc xà hút gió lửa, giống như con ngựa khát hộ tiếc nước, như con ác quỉ lớn khi sân nhuế phát khởi, vua chết của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể tạo tác sự quan sát như vậy thì đó gọi là tu tập tử tưởng. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát: Ta nay xuất gia, giả sử được thọ mạng, bảy ngày bảy đêm thì ta sẽ ở trong thời gian đó, tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích cho chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí tu tử tưởng. Lại cho dùng bảy ngày bảy đêm là nhiều thì nếu được sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ... cho đến khoảnh khắc thở hít vào... ta cũng sẽ ở trong thời gian đó tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí giỏi tu tử tưởng. Kẻ trí đầy đủ sáu tưởng như trên thì liền được bảy tưởng nhân. Những gì là bảy ? Một là thường tu tưởng. Hai là ưa tu tưởng. Ba là vô sân tưởng. Bốn là vô tật đố tưởng. Năm là thiện nguyện tưởng. Sáu là vô mạn tưởng. Bảy là Tam muội tự tại tưởng. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo đầy đủ bảy tưởng thì đó gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, đó gọi là tịch tịnh, đó gọi là tịnh khiết, đó gọi là giải thoát, đó gọi là người trí, đó gọi là chính kiến, gọi là đến bờ kia, gọi là Ðại y vương, đó là đại thương chủ, đó gọi là giỏi hiểu bí mật của Như Lai. Tỳkheo này cũng biết bảy thứ lời nói của chư Phật, gọi là chánh kiến, biết đoạn trừ lưới nghi sở sinh trong bảy thứ lời nói. Này thiện nam tử! Nếu người đầy đủ sáu tưởng như trên thì phải biết là người đó có thể quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, diệt trừ ba cõi, ở trong ba cõi mà chẳng sinh ra ái trước. Ðó gọi là kẻ trí đầy đủ mười tưởng. Nếu có vị Tỳkheo đầy đủ mười tưởng thì liền được xứng đáng tướng Sa môn.

            Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp liền ở trước đức Phật, dùng kệ khen ngợi đức Phật rằng:

                        Ðại Y vương thương xót thế gian

                        Thân và trí tuệ đều tịch tịnh

                        Trong pháp vô ngã có pháp chân

                        Vậy nên kính lễ đấng Vô Thượng!

                        Phát tâm “hai chẳng biệt” rốt cùng

                        Như vậy hai tâm, tâm trước khó

                        Tự chưa được độ, độ người tiên (trước)

                        Nên con lễ đấng lòng mới phát!

                        Mới phát rồi làm thầy nhân thiên

                        Thắng hơn Thanh Văn và Duyên Giác

                        Hơn ba cõi như vậy phát tâm

                        Vậy nên được gọi Tối Vô Thượng!

                        Cứu thế yêu cầu, sau được thành

                        Như Lai không thỉnh, làm thầy dẫn

                        Phật như con nghé theo thế gian

                        Vậy nên được gọi Ngưu Bi (trâu từ bi) lớn

                        Như Lai công đức đầy mười phương

                        Phàm phu vô trí chẳng khen ngợi

                        Con nay tán thán Từ Bi tâm

                        Ví báo thân miệng hai thứ nghiệp.

                        Tự lợi ích, thường lạc thế gian

                        Như Lai trọn chẳng làm việc đó

                        Hay đoạn (quả) báo thế giới chúng sinh

                        Nên con lễ đấng Tự Tha Lợi!

                        Làm ích dày, người đời theo thân (thân tình)

                        Như Lai lợi ích không thân, oán

                        Phật không tưởng này như thế nhân

                        Nên tâm Phật không hai, bình đẳng

                        Nói khác làm khác là thế gian

                        Như Lai nói như làm không khác

                        Phàm tu là đoạn các hạnh liền          

                        Trước đã biết rõ lỗi phiền não

                        Thị hiện khắp nơi vì chúng sinh

                        Nên được gọi là Như Lai vậy.

                        Giải thoát rồi, ở mãi thế gian

                        Vì từ bi ưa ở sinh tử

                        Tuy hiện thiên thân và nhân thân

                        Từ bi theo đuổi như trâu nghé!

                        Như lai tức là mẹ chúng sinh

                        Lòng từ tín là trâu nghé vậy

                        Tự thọ mọi khổ vì chúng sinh

                        Khi niệm mẫn bi lòng chẳng hối

                        Chẳng biết khổ, lân mẫn đầy lòng

                        Nên con cúi lạy đấng Bạt Khổ!

                        Như Lai tuy làm phước không lường

                        Nghiệp thân miệng ý hằng thanh tịnh

                        Thường vì chúng sinh, chẳng vì mình

                        Nên con lễ đấng Thanh Tịnh Nghiệp!

                        Như Lai thọ khổ, khổ chẳng màng

                        Thấy chúng sinh khổ như mình khổ

                        Tuy ở địa ngục vì chúng sinh

                        Chẳng sinh tưởng khổ và lòng hối.

                        Thọ khác khổ của mọi chúng sinh

                        Ðều chính Như Lai, một người khổ

                        Biết rồi lòng ấy chuyển vững bền

                        Nên hay siêng tu đạo Vô Thượng.

                        Phật đủ một vị (mùi vị) đại từ tâm

                        Thương nghĩ chúng sinh như tử tưởng (tưởng con)

                        Chúng sinh chẳng biết Phật cứu mình

                        Nên bài báng Phật, Pháp, Tăng bảo.

                        Thế gian tuy đủ mọi não phiền

                        Cũng có vô lượng những lỗi ác

                        Như vậy mọi kết và tội khiên

                        Mới phát tâm Phật đã hay hoại.

                        Chỉ có chư Phật khen Thế Tôn (Phật)

                        Trừ Phật không ai hay khen ngợi

                        Con nay chỉ dùng một pháp khen

                        Là lòng từ đi khắp cõi thế.

                        Từ là đại pháp của Thế Tôn

                        Từ này cũng hay độ sinh chúng

                        Là Vô Thượng Giải thoát thật chân

                        Giải thoát tức là Ðại Niết Bàn.

           

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN 

- Quyển thứ ba mươi tư hết -

--- o0o ---

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy