× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Niết Bàn



Quyển thứ 32: Phẩm thứ 24: Bồ Tát Ca Diếp (2)

    Này thiện nam tử ! Bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức. Những gì là bốn ? Ðó là mắt, sắc, ánh sáng và dục. Tính của nhãn thức này chẳng phải mắt, chẳng phải sắc, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải dục mà từ sự hòa hợp nên liền được sinh ra. Như vậy nhãn thức trước không nay có mà có rồi lại hoàn không. Vậy nên phải biết không có bản tính. Tính của cao sữa trong sữa cũng lại như vậy. Nếu có người nói rằng, nước không tính của cao sữa nên chẳng sinh ra cao sữa vậy nên trong sữa quyết định có tính của cao sữa thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp khác nhân khác quả, cũng chẳng phải một nhân sinh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh ra. Này thiện nam tử ! Như từ bốn việc sinh ra nhãn thức thì chẳng thể lại nói từ bốn việc này ứng sinh ra nhĩ thức. Này thiện nam tử ! Lìa khỏi phương diện, trong sữa được cao sữa, cao sữa sinh ra váng sữa chăng ? Hay được như vậy cần phải có phương tiện ? Này thiện nam tử ! Kẻ trí chẳng thể thấy, lìa khỏi phương tiện mà từ sữa được cao sữa nghĩa là được sinh ra tô cũng nên lìa khỏi phương tiện như vậy để được ! Này thiện nam tử ! Vậy nên, ở trong kinh này, ta nói : Nhân sinh nên pháp có, nhân diệt nên pháp diệt ! Này thiện nam tử ! Như tính của muối là mặn, có thể khiến cho chẳng phải mặn hay khiến cho mặn. Nếu vật chẳng phải mặn trước có tính mặn thì người đời vì sao lại cầu mặn vậy ? Nếu trước không tính mặn thì phải biết là trước không nay có, do duyên khác mà được mặn vậy. Nếu nói tất cả vật chẳng mặn đều có tính mặn mà vì nhỏ nên chẳng biết nên do tính mặn nhỏ này có thể khiến cho mặn. Nếu vốn không tính mặn thì tuy lại có muối nhưng chẳng thể khiến cho nó mặn được. Ví như hạt giống tự có bốn đại duyên với bốn đại bên ngoài mà được tăng trưởng mầm chồi, thân cây, cành lá. Tính của muối cũng vậy thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì vật chẳng mặn trước có tính mặn thì muối cũng nên có tính chẳng mặn nhỏ. Muối này nếu có hai tính như vậy thì vì nhân duyên gì mà lìa khỏi vật chẳng mặn, chẳng thể một mình dùng? Vậy nên biết là muối vốn không hai tính. Như muối tất cả vật chẳng mặn cũng lại như vậy. Nếu nói ngoài bốn đại chủng bên ngoài, sức hạt giống có thể tăng trưởng bốn đại bên trong thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì nói theo thứ lớp vậy. Chẳng từ phương tiện mà trong sữa được cao sữa, rồi sinh váng sữa cho đến tất cả các pháp đều như vậy, chẳng phải do phương tiện mà được. Bốn đại cũng lại như vậy. Nếu nói từ bốn đại bên ngoài tăng trưởng bốn đại bên trong, chẳng thấy từ bốn đại bên trong tăng trưởng bốn đại bên ngoài. Như trái cây Thi Lợi Sa, trước không hình chất nhưng khi có sao Mão thì trái sinh ra lớn đủ năm tấc (thốn). Quả (trái) như vậy thì thật chẳng nhân vào bốn đại bên ngoài mà lớn.

 

            Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, mười hai bộ Kinh, hoặc ta theo ý mình mà nói, hoặc theo ý người khác mà nói, hoặc theo ý mình và ý người mà nói.

            Sao gọi là theo ý mình nói ? Như năm trăm vị Tỳkheo hỏi ông Xá Lợi Phất : “Thưa đại đức ! Ðức Phật nói, nhân của thân là gì đó vậy ?”. Ông Xá Lợi Phất nói rằng : “Này các Ðại đức ! Các ông cũng đều được Chánh giải thoát thì tự nên biết ! Vì duyên gì mới hỏi như vậy ?”. Có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Khi tôi chưa chứng được Chánh Giải thoát thì cho là Ý vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi tạo tác sự quan sát này thì được quả A la hán”. Lại có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Khi tôi chưa chứng được giải thoát  chân chính thì cho là Ái vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi tác khởi sự quan sát này thì được quả A la hán. Hoặc có vị nói rằng, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, ẩm thực, ngũ dục... tức là nhân của thân. Lúc bấy giờ năm trăm vị Tỳkheo, mỗi mỗi đều tự nói sự hiểu biết của mình, rồi cùng chung đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu dưới chân của đức Phật, đi quanh về bên phải ba vòng. Lễ bái xong rồi họ lui về ngồi một bên, đều đem ý nghĩa hiểu biết của mình như trên, hướng về đức Phật mà nói. Ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Những người như vậy thì ai nói đúng ? Ai nói chẳng đúng ?”. Phật bảo rằng : “ Này Xá Lợi Phất ! Hay thay ! Hay thay ! Mỗi một vị Tỳkheo đâu chẳng phải chánh thuyết !”. Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Ý đức Phật thế nào ?”. Phật dạy rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Ta vì chúng sinh cõi Dục nói rằng, cha mẹ tức là nhân của thân !”. Những kinh như vậy gọi là theo ý của mình mà nói.

            Sao gọi là theo ý người khác nói ? Như ông trưởng giả Ba Sấc La đi đến chỗ của ta nói lên rằng : “Thưa ngài Cù Ðàm ! Ngài biết huyễn không ? Nếu ngài biết huyễn thì tức là người đại huyễn. Nếu ngài chẳng biết thì chẳng phải Nhất Thiết Trí !”. Ta nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Người biết huyễn gọi là người huyễn sao ?” Ông trưởng giả nói rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Người biết huyễn tức là người huyễn!” Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Bên trong nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc, có người Chiên đà la tên là Khí Hư. Ông có biết không ?” Ông trưởng giả đáp rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi biết ông đó đã lâu !” Ðức Phật nói rằng : “Ông biết lâu thì có thể trở thành Chiên đà la không ?”. Ông trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi tuy biết người Chiên đà la đó nhưng thân này của tôi chẳng phải Chiên đà la !”. Ðức Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Ông được nghĩa này, biết Chiên đà la thì chẳng phải là Chiên đà la. Ta nay vì sao chẳng được biết huyễn mà chẳng phải huyễn ư ? Này ông trưởng giả ! Ta thật biết huyễn, biết người huyễn, biết quả báo huyễn, biết kỹ thuật huyễn. Ta biết giết, biết giết người, biết giết quả báo, biết giết giải thoát... cho đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến. Này ông trưởng giả ! Nếu nói người chẳng phải huyễn gọi là người huyễn, người chẳng phải tà kiến nói là người tà kiến thì bị tội không lường”. Ông trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Như lời ông nói thì tôi bị tội lớn. Sở hữu của tôi hôm nay đều đem dâng lên ngài, mong ngài chớ cho vua Ba Tư Nặc kia biết việc này của tôi !”. Ðức Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Nhân duyên của tội đó chẳng nhất định mất của cải mà còn sẽ nhân đó bị rơi vào ba đường ác!”. Khi đó ông trưởng giả nghe đến tên ác đạo thì lòng sinh kinh sợ mà bạch Phật rằng : “Thưa đức Thánh nhân ! Tôi nay thất ý chuốc lấy tội lớn ! Thưa đức Thánh nhân ! Ngài nay chính là đấng Nhất Thiết Trí nên phải biết rõ, chứng được giải thoát ! Tôi phải làm sao để được thoát khỏi địa ngục, ngã quỉ, súc sinh ?”. Bấy giờ ta vì ông đó nói bốn chân đế. Ông trưởng giả nghe rồi thì được quả Tu đà hoàn, lòng sinh tàm quí (xấu hổ), hướng về đức Phật sám hối rằng : “Con vốn ngu si, đức Phật chẳng phải người huyễn mà nói là huyễn ! Con từ hôm nay quy y Tam bảo !”. Phật dạy rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Này ông trưởng giả !” Ðó gọi là theo ý người khác nói.

            Sao gọi là theo ý mình ý người khác nói ? Như lời ta nói, tất cả kẻ trí của thế gian nói Có thì ta cũng nói Có. Kẻ trí nói Không thì ta cũng nói Không. Người trí thế gian nói năm dục lạc có vô thường, khổ, vô ngã, có thể đoạn thì ta cũng nói là Có. Người trí thế gian nói năm dục lạc có Thường ngã tịnh, không có điều đó. Ta cũng nói như vậy, không có điều đó. Ðó gọi là theo ý mình ý người mà nói. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, Bồ tát Thập Trụ thấy ít Phật tính. Ðó gọi là theo ý người khác nói. Vì sao gọi là thấy ít ? Vì Bồ tát Thập Trụ được Thủ Lăng Nghiêm tam muội.v.v... ba ngàn pháp môn. Vậy nên tự biết rõ ràng họ sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà chẳng thấy tất cả chúng sinh quyết định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói, Bồ tát Thập Trụ thấy phần ít Phật tính. Này thiện nam tử ! Ta thường tuy nói rằng, “tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Ðó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh chẳng đoạn chẳng diệt... cho đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Ðó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì phiền não che nên chẳng thể được thấy”, ta nói như vậy, ông nói cũng vậy. Ðó gọi là theo ý mình ý người mà nói.

            Này thiện nam tử ! Như Lai, hoặc khi vì một pháp nên nói vô lượng pháp, như  trong Kinh nói, tất cả Phạm hạnh nhân Thiện tri thức. Nhân của tất cả phạm hạnh tuy không lường, nhưng nói Thiện tri thức thì đã thu nhiếp hết. Như lời ta nói, tất cả ác hạnh thì tà kiến là nhân. Nhân của tất cả ác hạnh tuy không lường nhưng nếu nói tà kiến thì đã thâu nhiếp hết. Hoặc nói : Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ Ðề này tuy lại không lường nhưng nếu nói tín tâm thì đã thâu nhiếp hết. Này thiện nam tử ! Như Lai tuy nói vô lượng những pháp lấy làm Phật tính, nhưng chẳng lìa khỏi ấm nhập và giới (năm ấm, sáu nhập, mười tám giới) vậy.

            Này thiện nam tử ! Như Lai nói pháp vì chúng sinh nên có bảy thứ lời nói (ngữ) : Một là nhân ngữ, hai là quả ngữ, ba là nhân quả ngữ, bốn là dụ ngữ, năm là bất ứng thuyết ngữ (lời chẳng nên nói), sáu là thế lưu bố ngữ (lời lưu bố ở đời), bảy là như ý ngữ.

            Sao gọi là nhân ngữ ? Trong nhân hiện tại nói quả vị lai. Như lời ta nói : “Này thiện nam tử ! Ông thấy chúng sinh ưa giết hại cho đến ưa hành tà kiến, thì phải biết là người đó tức là người của địa ngục. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh chẳng ưa giết hại... cho đến tà kiến thì phải biết người đó tức là người trời. Ðó gọi là nhân ngữ.

            Sao gọi là quả ngữ ? Trong quả hiện tại nói nhân quá khứ. Như trong Kinh nói rằng : “Này thiện nam tử ! Như ông đã thấy, chúng sinh nghèo cùng, hình dung xấu xí, chẳng được tự tại, thì phải biết người đó quyết định có phá giới, lòng tật đố, lòng sân hận, lòng không tàm quí. Nếu thấy chúng sinh nhiều của cải, giàu to, các căn đầy đủ, uy đức tự tại thì phải biết người đó có trì giới, bố thí, tinh cần, tàm quí, không có tật đố, sân hận”. Ðó gọi là quả ngữ.

            Sao gọi là nhân quả ngữ ? Như trong Kinh nói rằng : “Này thiện nam tử ! Nhân tiếp xúc sáu nhập của chúng sinh hiện tại thì đó gọi là nghiệp quả quá khứ. Như Lai cũng nói, tên đó là nghiệp. Nhân duyên của nghiệp nay được quả vị lai. Ðó gọi là nhân quả ngữ.

            Sao gọi là dụ ngữ ? Như nói : Vua Sư Tử thì tức là dụ cho thân ta. Ðại Tượng vương, Ðại Long vương, cây Ba lợi chất đa la, Thất bảo tụ, Ðại hải, Tu Di sơn, Ðại địa, mưa lớn, Thuyền sư, Ðạo sư, Ðiều ngự, Trượng phu, Lực sĩ, Ngưu Vương, Bà la môn, Sa môn, Ðại thành, cây Ða la.v.v... những dụ như vậy, Kinh gọi là Dụ ngữ.

            Sao gọi là Bất ứng ngữ ? - Trong Kinh ta nói : “Trời đất có thể hợp lại, sông chẳng chảy vào biển”. Như vì vua Ba Tư Nặc nói rằng : “Bốn phương núi đến !” Như vì Ưu bà di Lộc Mẫu (mẹ nai) nói rằng : “Nếu cây Ta La có thể thọ tám giới thì được thọ hưởng niềm vui của người trời !” Như nói : “Thà nói Bồ tát Thập Trụ có lòng thoái chuyển, chẳng nói Như Lai có hai thứ lời nói. Thà nói người Tu đà hoàn đọa ba đường ác, chẳng nói Bồ tát Thập trụ có lòng thoái chuyển”. Ðó gọi là bất ứng ngữ.

            Sao gọi là thế lưu bố ngữ ? - Như lời Phật nói : Trai gái, lớn nhỏ, đi lại ngồi nằm, xe cộ, phòng xá, bình, áo, chúng sinh, Thường Lạc Ngã Tịnh, quân đội, rừng, thành, ấp, huyễn hóa, hợp tan... Ðó gọi là thế lưu bố ngữ.

            Sao gọi là như ý ngữ ? Như ta quở trách người hủy cấm khiến cho người đó tự trách mà hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi người Tu đà hoàn khiến cho các phàm phu sinh ra lòng thiện. Ta khen ngợi Bồ tát khiến cho chúng sinh phát tâm Bồ Ðề. Ta nói sự khổ não của ba đường ác vì khiến mọi người tu tập các pháp thiện. Ta nói tất cả đốt cháy là chỗ vì tất cả pháp hữu và vô ngã cũng vậy. Ta nói, các chúng sinh đều có Phật tính là vì khiến cho tất cả chẳng buông lung (phóng dật). Ðó gọi là Như Ý ngữ.

            Này thiện nam tử ! Như Lai lại có lời nói theo ý mình : Phật tính của Như Lai thì có hai thứ, một là có, hai là không. Có thì nghĩa là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, Ðại từ Ðại bi, Thủ lăng nghiêm.v.v... vô lượng tam muội, Kim cương.v.v... vô lượng tam muội, phương tiện.v.v... Vô lượng tam muội Ngũ trí ấn.v.v... vô lượng tam muội. Ðó gọi là Có. Không thì nghĩa là các thiện, chẳng thiện, vô ký quá khứ của Như Lai, nghiệp nhân quả báo, phiền não, năm ấm, mười hai nhân duyên. Ðó gọi là không.    

            Này thiện nam tử ! Như có không, thiện chẳng thiện, có lậu không lậu, thế gian chẳng phải thế gian, Thánh chẳng phải Thánh, hữu vi vô vi, thật chẳng thật, tịch tịnh chẳng phải tịnh tịnh, tranh (cãi) chẳng phải tranh, cõi chẳng phải cõi, phiền não chẳng phải phiền não, thủ (lấy) chẳng phải thủ, thọ ký chẳng phải thọ ký, có chẳng phải có, ba đời chẳng phải ba đời, thời chẳng phải thời, thường vô thường, ngã vô ngã, lạc vô lạc, tịnh vô tịnh, sắc thọ tưởng hành thức chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập chẳng phải nội nhập, ngoại nhập chẳng phải ngoại nhập, mười hai nhân duyên chẳng phải mười hai nhân duyên. Ðó gọi là Có Không của Phật tính Như Lai... cho đến Phật tính của nhất xiển đề có không cũng lại như vậy.

            Này thiện nam tử ! Ta tuy nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà chúng sinh chẳng lý giải được những lời nói theo ý mình như vậy của đức Phật.

            Này thiện nam tử ! Những lời nói như vậy thì Bồ tát thân sau còn chẳng thể lý giải huống là đối với hàng nhị thừa và các hạng Bồ tát còn lại. Này thiện nam tử ! Một lúc xưa, ta ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với Bồ tát Di Lặc chung luận bàn thế đế. Ông Xá Lợi Phất.v.v...năm trăm Thanh Văn đối với việc này đều chẳng hay biết, huống gì là Ðệ nhất nghĩa đế của đạo Xuất thế.

            Này thiện nam tử ! Hoặc có Phật tính mà nhất xiển đề thì có, người thiện căn thì không. Hoặc có Phật tính mà người thiện căn có, nhất xiển đề không. Hoặc có Phật tính mà cả hai người đều có. Hoặc có Phật tính mà cả hai người đều không.

            Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nếu lý giải được ý nghĩa của bốn câu như vậy thì chẳng nên nạn vấn rằng, người nhất xiển đề quyết định có Phật tính, quyết định không Phật tính. Nếu nói chúng sinh đều có Phật tính thì đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như Lai. Tùy tự ý ngữ như vậy của Như Lai thì chúng sinh làm sao lý giải một hướng được ?

            Này thiện nam tử ! Như trong sông Hằng có bảy chúng sinh : Một là thường chìm, hai là tạm ra rồi trở lại chìm, ba là ra rồi thì trụ lại, bốn là ra rồi quan sát khắp bốn phương, năm là quan sát khắp rồi đi, sáu là đi rồi lại trụ, bảy là trên nước trên đất đều đi. Rằng chúng sinh thường chìm là gọi loài cá lớn thọ nghiệp ác lớn, thân nặng ở sâu. Vậy nên thường chìm. Chúng sinh tạm ra rồi chìm trở lại là loài cá lớn thọ ác nghiệp, thân nặng ở cạn, tạm thấy ánh sáng. Nhân ánh sáng nên nó tạm ra nhưng vì nặng nên trở lại chìm. Chúng sinh ra rồi liền trụ là gọi loài cá Chỉ Di, thân ở nước cạn, ưa thấy ánh sáng nên ra rồi trụ lại. Chúng sinh trụ lại nhìn khắp bốn phương là gọi loài cá tích vì kiếm tìm đồ ăn nên quan sát khắp bốn phương. Chúng sinh quan sát rồi đi là gọi loài cá tích từ xa thấy vật khác cho là có thể ăn nên mau chóng đi đến đó. Chúng sinh quan sát rồi đi, đi rồi lại trụ là loài cá này đi đến rồi, đã được mồi có thể ăn thì liền dừng lại nên gọi là đi rồi lại trụ. Chúng sinh trên nước, đất đều đi thì tức là loài rùa.

            Này thiện nam tử ! Dòng sông Ðại Niết Bàn vi diệu như vậy, trong sông ấy cũng có bảy thứ chúng sinh : từ loài đầu tiên thường chìm cho đến loài thứ bảy hoặc vào hoặc ra. Nói rằng, thường chìm là có người nghe Kinh Ðại Niết Bàn này, Như Lai thường trụ không có biến dịch, Thường Lạc Ngã Tịnh, nhất định chẳng rốt ráo vào Niết Bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, người nhất xiển đề bài báng Kinh Phương Ðẳng, tạo tội ngũ nghịch phạm bốn trọng cấm nhất định sẽ được thành đạo Bồ Ðề, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích Chi Phật.v.v... nhất định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác... Nghe những lời nói này rồi, họ sinh ra lòng bất tín liền tác khởi ý niệm này. Tác khởi ý niệm này rồi thì họ liền nói rằng : “Kinh điển Niết Bàn này là sách ngoại đạo, chẳng phải là Kinh Phật”. Người này, bấy giờ xa lìa bạn tốt, chẳng nghe chính pháp. Tuy có lúc họ được nghe nhưng chẳng thể tư duy. Tuy họ lại tư duy nhưng chẳng tư duy thiện mà chẳng tư duy thiện nên như trụ ở ác pháp. Người trụ ở ác pháp có sáu thứ : Một là ác, hai là không thiện, ba là làm bẩn pháp, bốn là thêm có, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả báo ác. Ðó gọi là chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì không lòng thiện, thường làm ác, chẳng tu đối trị. Ðó gọi là chìm. Sở dĩ gọi rằng ác là bị thánh nhân quở trách, lòng sinh bố úy, người thiện xa lìa chẳng ích chúng sinh. Ðó gọi là ác. Nói rằng không thiện thì có thể sinh ra vô lượng quả báo ác, thường bị sự trói buộc nhiễu loạn của vô minh, ưa cùng người ác làm bạn bè, không có tu các phương tiện tốt, lòng họ điên đảo thường lầm lẫn. Ðó gọi là không thiện. Nói rằng làm bẩn pháp tức là thường làm bẩn thân miệng, làm bẩn chúng sinh thanh tịnh, tăng thêm nghiệp bất thiện, xa lìa thiện pháp. Ðó gọi là ô pháp. Nói rằng, tăng hữu (thêm có) tức là như pháp sở hành của ba người trên, có thể tăng thêm địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, nghiệp thân miệng ý chẳng chán các hữu. Ðó gọi là tăng hữu. Nói rằng, người não nhiệt thì tức là người làm đủ bốn việc như trên có thể khiến cho thân tâm có hai việc phiền não. Xa lìa tịch tịnh thì gọi là nhiệt. Thọ quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các chúng sinh nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các thiện pháp nên gọi là nhiệt. Này thiện nam tử ! Lòng tin thanh lương thì người này chẳng đủ. Vậy nên gọi là nhiệt. Nói rằng, người thọ quả báo ác thì tức là người đầy đủ năm việc trên, chết đọa vào địa ngục, ngã quỉ, súc sinh. Này thiện nam tử ! Có ba việc ác, lại gọi là quả báo ác : Một là phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác. Ðó gọi là thọ quả báo ác. Này thiện nam tử ! Người này đầy đủ sáu việc như trên thì có thể cắt đứt căn lành, tạo tác năm tội nghịch, có thể phạm bốn trọng cấm, có thể bài báng Tam Bảo, sử dụng vật của chúng Tăng, có thể làm đủ thứ việc phi pháp. Do nhân duyên này nên họ chìm đắm ở tại địa ngục A tỳ, phải thọ thân hình dọc ngang tám vạn bốn ngàn do diên. Nghiệp thân, miệng tâm của người này nặng nên chẳng thể được ra. Vì sao vậy ? Vì tâm người ấy chẳng thể sinh ra thiện pháp nên tuy có vô lượng những đức Phật ra đời mà họ chẳng nghe chẳng thấy nên gọi là thường chìm mất như con cá lớn trong dòng sông Hằng.

            Này thiện nam tử ! Ta tuy nói nhất xiển đề.v.v... gọi là thường mất nhưng lại có người thường chìm mất chẳng phải nhất xiển đề. Ðó là ai vậy? Như người vì có tu Thí, Giới, Thiện. Ðó gọi là thường chìm mất.

            Này thiện nam tử ! Có bốn việc thiện mà gặt lấy quả ác. Những gì là bốn ? Một là vì thắng người khác nên dọc tụng kinh điển, hai là vì lợi dưỡng nên thọ trì cấm giới, ba là vì lệ thuộc người khác mà làm bố thí, bốn là vì Phi tưởng phi phi tưởng xứ nên lắng lòng tư duy. Ðó là bốn việc thiện được quả báo ác. Nếu người tu tập bốn việc như vậy thì đó gọi là chìm rồi trở lại ra, ra rồi trở lại chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì ưa ba hữu vậy. Vì sao gọi là ra ? Vì do thấy ánh sáng vậy. Ánh sáng tức là nghe thí, giới, định. Vì sao trở lại chìm? Vì tăng trưởng tà kiến, sinh ra kiêu mạn vậy. Vậy nên ở trong Kinh ta nói kệ rằng :

                        Nếu có chúng sinh ưa các hữu

                        Vì hữu, nghiệp ác lành tạo nên

                        Người này liền mất Niết Bàn đạo

                        Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.

                        Ði trong biển sinh tử hắc ám

                        Tuy được giải thoát xen não phiền

                        Người này trở lại thọ quả ác

                        Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.

            Này thiện nam tử ! Như con cá lớn kia nhân thấy ánh sáng nên tạm được ra khỏi nước. Nhưng thân cá ấy nặng nên lại trở lại chìm đắm. Như hai người trên cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Lại hoặc có người ưa đam mê ba hữu thì đó gọi là chìm. Ðược nghe Kinh Ðại Niết Bàn này sinh ra lòng tin thì đó gọi là ra. Vì nhân duyên gì gọi đó là ra ? Vì nghe Kinh này rồi, xa lìa ác pháp, tu tập thiện pháp nên đó gọi là ra. Người này tuy tin nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân duyên gì mà tin chẳng đầy đủ ? Vì người này tuy tin Ðại Bát Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh nhưng nói thân Như Lai vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Như Lai thì có hai thứ Niết Bàn, một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Niết Bàn không Thường Lạc Ngã Tịnh, vô vi Niết Bàn có Thường Lạc Ngã Tịnh. Họ tuy tin Phật tính là chúng sinh có nhưng chẳng nhất định tất cả đều có Phật tính. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.

            Này thiện nam tử ! Tin có hai thứ, một là tin, hai là cầu. Người như vậy tuy lại có tin nhưng chẳng thể tìm cầu. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là từ nghe sinh ra, hai là từ nghĩ sinh ra. Lòng tin của người này từ nghe mà sinh ra, chẳng từ nghĩ sinh ra. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin có đạo, hai là tin người được đạo. Lòng tin người này chỉ tin có đạo, đều chẳng tin có người được đạo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin chánh, hai là tin tà. Nói có nhân quả, có Phật Pháp Tăng thì đó gọi là tin chánh. Nói không nhân quả, tính Tam Bảo khác, tin các lời nói tà bậy, phú lan na.v.v... thì đó gọi là tin tà. Người này tuy tin Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, nhưng chẳng tin Tam Bảo đồng một tính tướng. Họ tuy tin nhân quả nhưng chẳng tin người được quả báo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.

            Người đó thành tựu chẳng đầy đủ niềm tin, việc thọ cấm giới cũng chẳng đầy đủ thì vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì nhân  chẳng đủ nên sở đắc cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Lại vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì cấm giới có hai thứ, một là oai nghi giới, hai là tùng giới giới. Người đó tuy đầy đủ giới oai nghi nhưng chẳng đủ giới tùng giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Lại giới có hai thứ, một là tác giới, hai là không tác giới. Người đó chỉ đủ tác giới chẳng đủ không tác giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là từ thân miệng được chánh mạng, hai là từ thân miệng chẳng được chánh mạng. Người đó chỉ từ thân miệng chẳng được chánh mạng nên gọi đó là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là cầu giới, hai là xả giới. Người đó chỉ đủ giới cầu có, chẳng được xả giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là theo có, hai là theo đạo. Người đó chỉ đủ giới theo có, chẳng đủ giới theo đạo. Vậy nên gọi là Giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là thiện giới, hai là ác giới. Thân miệng ý thiện thì đó gọi là thiện giới. Giới của trâu, giới của chó thì đó gọi là ác giới. Người đó tin sâu hai thứ giới này đều có quả báo thiện. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ.

            Người đó chẳng tin đầy đủ hai việc của giới. Việc tu học đa văn cũng chẳng đầy đủ thì làm sao gọi là nghe chẳng đầy đủ ? Mười hai bộ Kinh mà Như Lai đã nói chỉ tin sáu bộ, chẳng tin sáu bộ. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Chỉ lại thọ trì sáu bộ Kinh này chẳng có thể đọc tụng, vì người khác giải nói, không có sự lợi ích. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Lại nữa, thọ nhận sáu bộ Kinh  này rồi vì luận nghị, vì hơn kẻ khác, vì lợi dưỡng, vì các hữu (có) nên thọ trì, đọc tụng, giải nói. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta nói, nghe chẳng đầy đủ thì thế nào là đầy đủ ? Nếu có Tỳkheo, thân miệng ý thiện, trước có thể cúng dường Hòa Thượng, các sư trưởng, người có đức. Những vị sư trưởng này.v.v... đối với người đó sinh lòng ái niệm. Do nhân duyên này nên các vị dạy trao kinh pháp, người đó hết lòng thọ trì, đọc tụng, tu tập. Thọ trì, đọc tụng, tu tập rồi thì thu được trí tuệ, được trí tuệ rồi thì có thể khéo suy nghĩ, theo đúng như pháp mà trụ. Khéo suy nghĩ rồi thì được chính nghĩa, được chính nghĩa rồi thì thân tâm tịch tịnh, thân tâm tịch tịnh rồi thì sinh lòng hoan hỷ. Nhân duyên lòng hoan hỷ thì tâm được định, nhân được định nên được Chánh tri kiến. Có Chánh tri kiến rồi thì đối với các hữu, lòng sinh nhàm chán, hối hận mà nhàm chán hối hận các hữu nên có thể được giải thoát. Người đó không có những việc như vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ.

            Người đó chẳng đủ ba việc như vậy thì Thí cũng chẳng đủ. Thí có hai thứ, một là tài thí, hai là pháp thí. Người đó tuy lại làm tài thí mà vì cầu có (hữu) nên tuy hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì sao vậy ? Vì còn giữ kín chẳng nói hết sợ người khác hơn. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Tài, pháp hai thứ thí đều có hai thứ, một là Thánh, hai là chẳng phải Thánh. Thánh thì thí rồi chẳng cầu quả báo. Chẳng phải Thánh thì thí rồi cầu quả báo. Bậc Thánh thí pháp làm tăng trưởng pháp. Kẻ chẳng phải Thánh thí pháp làm tăng trưởng các hữu. Những người như vậy vì thèm của cải mà làm tài thí, vì thêm các hữu mà hành pháp thí. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Lại nữa, người đó thọ nhận sáu bộ Kinh mà thấy người thọ pháp thì cung cấp, còn người chẳng thọ thì chẳng cung cấp. Ðó gọi là Thí chẳng đầy đủ.

            Người đó chẳng đủ bốn việc như trên thì việc tu trí tuệ cũng chẳng đầy đủ. Tính của trí tuệ là tính có thể phân biệt. Người đó chẳng thể phân biệt Như Lai là thường hay vô thường. Ở trong Kinh Niết Bàn này, Như Lai nói rằng, Như Lai tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là Giải thoát. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Phạm hạnh tức là Như Lai, Như Lai tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Từ, Bi, Hỷ, Xả tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt được Phật tính. Phật tính tức là Như Lai, Như Lai tức là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là pháp bất cộng... Ở trong nghĩa này họ chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt bốn đế : Khổ - Tập - Diệt - Ðạo. Chẳng thể phân biệt bốn chân đế nên chẳng biết Thánh hạnh, chẳng biết Thánh hạnh nên chẳng biết Như Lai, chẳng biết Như Lai nên chẳng biết Giải thoát, chẳng biết Giải thoát nên chẳng biết Niết Bàn. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ.

            Người đó chẳng đủ năm việc như vậy thì có hai thứ, một là tăng thiện pháp, hai là tăng ác pháp. Sao gọi là tăng trưởng ác pháp ? Người đó chẳng thấy mình chẳng đầy đủ mà tự nói đầy đủ và sinh ra lòng chấp trước, đối với người đồng hành tự cho mình hơn. Vậy nên họ thân cận bạn ác đồng với mình. Ðã thân cận rồi lại còn được nghe pháp chẳng đầy đủ, nghe rồi lòng vui mừng và lòng họ nhiễm trước khởi lên kiêu mạn, hành động nhiều phóng dật, rồi nhân phóng dật nên gần gũi với hàng tại gia, cũng ưa nghe nói việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh. Do nhân duyên này nên thêm lớn ác pháp, ác pháp tăng nên thân miệng ý.v.v... khởi tác nghiệp bất tịnh. Vì ba nghiệp bất tịnh nên thêm lớn quả báo địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Ðó gọi là tạm ra rồi trở lại chìm. Tạm ra rồi trở lại chìm thì trong Phật pháp của ta người ấy là ai vậy ? Là Ðề Bà Ðạt Ða, Tỳkheo Cù Dà Li, Tỳkheo Uyển Thủ, Tỳkheo Thiện Tinh, Tỳkheo Chỉ Xá, Tỳkheo Mãn Túc, Tỳkheo ni Từ Ðịa, Tỳkheo ni Khoáng Dã, Tỳkheo ni Phương, Tỳkheo ni Mạn, trưởng giả Tịnh Khiết, Ưu bà tắc Cầu Hữu, Xá Lặc Thích Chủng, Tượng trưởng giả, Ưu bà di Danh Xưng, Ưu bà di Quang Minh, Ưu bà di Nan Ðà, Ưu bà di Quân, Ưu bà di Linh.v.v... Những người như vậy gọi là tạm ra rồi trở lại chìm ví như con cá lớn thấy ánh sáng nên ra mà thân nặng nên chìm.

            Người thứ hai tự thấy biết sâu là hành động chẳng đầy đủ, chẳng đầy đủ nên cầu gần gũi bạn lành, gần gũi bạn lành nên ưa hỏi han điều chưa nghe, nghe rồi ưa thọ, thọ rồi ưa suy nghĩ tốt, suy nghĩ tốt rồi có thể đúng như pháp trụ, đúng như pháp trụ nên thêm lớn căn lành, thêm lớn căn lành nên nhất định chẳng chìm nữa. Ðó gọi là Trụ. Trong Phật pháp của ta, những người ấy là ai vậy ? Là Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, A Nhã Kiều Trần Như.v.v... năm vị Tỳkheo, Gia Xá.v.v... năm trăm vị Tỳkheo, A Nâu Lâu Ðà đồng tử, Ca Diếp, Maha Ca Diếp, Thập Lực Ca Diếp, Tỳ kheo ni Cù Ðàm Di, Tỳkheo ni Ba Sấc La Hoa, Tỳkheo ni Thắng, Tỳkheo ni Thật Nghĩa, Tỳkheo ni Ý, Tỳkheo ni Bạt Ðà, Tỳkheo ni Tịnh, Tỳkheo ni Bất Thoái Chuyển, vua Tần Bà Ta La, trưởng giả Úc Dà, trưởng giả Tu Ðạt Ða, Thích Ma Nam, Tu Ðạt Ða nghèo, con ông trưởng giả Thủ Lang, trưởng giả Danh Xưng, trưởng giả Cụ Túc, tướng quân Sư Tử, trưởng giả Ưu Ba Ly, trưởng giả Ðao (Dao), Ưu bà di Vô Úy, Ưu bà di Thiện Trụ, Ưu bà di Ái Pháp, Ưu bà di Dũng Kiện, Ưu bà di Thiên Ðắc, Ưu bà di Thiện Sinh, Ưu bà di Cụ Thân, Ưu bà di Ngưu Ðắc, Ưu bà di Khoáng Dã, Ưu bà di Ma Ha Tư Na.v.v.. Những Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di như vậy được gọi là trụ. Sao gọi là trụ ? Thường ưa nhìn thấy ánh sáng thiện. Do nhân duyên này nên nếu Phật ra đời, hoặc chẳng ra đời thì những người như vậy nhất định chẳng tạo ác. Ðó gọi là Trụ. Như loài cá Chỉ Di ưa thấy ánh sáng chẳng đắm chẳng chìm, những chúng như trên cũng lại như vậy. Vậy nên, ở trong Kinh ta nói kệ rằng :

                        Nếu người giỏi hay phân biệt quả

                        Hết lòng cầu đến quả sa môn

                        Nếu hay quở trách tất cả “hữu”

                        “Như pháp trụ”, người đó xưng tên.

                        Nếu hay cúng dường vô lượng Phật

                        Thì đã tu đạo, đời không lường

                        Nếu thọ thế lạc chẳng phóng dật

                        Thì “Như pháp trụ” người đó xưng

                        Thân cận bạn lành nghe chánh pháp

                        Trong khéo tư duy, trụ theo pháp

                        Tu tập đạo, ưa thấy quang minh

                        Chứng được giải thoát trụ yên ổn.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy