× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



VII. PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM THỨ BẢY 4

- Lại nầy Vô Biên Huệ! Lúc chư Đại Bồ Tát quan sát tất cả pháp như vậy, thì ở nơi các pháp được ánh sáng pháp. Chẳng ở trong không mà thấy không, cũng chẳng rời ngoài không mà thấy không, chẳng thấy có chút pháp tương ưng với không. Nếu đã chẳng tương ưng, thì chẳng đem không để không, chẳng thấy không cũng chẳng thấy chẳng không, cũng chẳng dùng thấy để quan sát tất cả pháp.

Lúc thấy như vậy, thì chẳng ở vô tướng mà thấy vô tướng, chẳng ngoài vô tướng mà thấy vô tướng, cũng không có chút pháp cùng vô tướng tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng ở vô tướng dùng vô tướng để thấy. Chẳng ở hữu tướng dùng hữu tướng để thấy. Chẳng phải hữu tướng để thấy, chẳng phải vô tướng để thấy.

Vô sanh và vô tác cũng như vậy.

Chẳng ở trong tận mà thấy tận, cũng chẳng khác tận mà thấy tận. Chẳng thấy có chút pháp cùng với tận tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng tận để thấy. Cũng chẳng ở nơi tận mà dùng vô tận để thấy. Chẳng tận để thấy, chẳng phải vô tận để thấy.

Lúc quan sát như vậy, chư Đại Bồ Tát không có chút pháp hoặc thấy được hoặc chẳng thấy được, hoặc hiển rõ được hoặc chẳng hiển rõ được, hoặc hướng đến được hoặc chẳng hướng đến được, hoặc biết rõ được hoặc chẳng biết rõ được.

- Nầy Vô Biên Huệ! Đó là Đại Bồ Tát an trụ nơi ánh sáng đại pháp của đạo ấy.

Vì ánh sáng đại pháp nên thấy tất cả pháp đều không có ngằn mé, đối với mé với giữa cung không có chấp kiến.

Vì không chấp kiến nên ở trong Phật pháp mà hướng đến vậy".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Chẳng nơi không thấy không

Chẳng khác không thấy không

Người thấy được như vậy

Gọi đó là thấy không

Chẳng an trụ chút pháp

Cũng chẳng thấy chút pháp

Tương ưng với không ấy

Hoặc là chẳng tương ưng

Không do tự tánh không

Nơi không vô sở thủ

Do vì vô sở thủ

Biết được tất cả pháp

Nơi thấy vô sở thủ

Nơi quán vô sở thủ

Biết được thấy và quán

Cả hai đều chẳng thọ

Nơi thấy đều thanh tịnh

Nơi quán bất khả đắc

Quán các pháp như vậy

Rốt ráo vô sở chấp

Chẳng dùng vô tướng thấy

Chẳng dùng vô tường quán

Cũng chẳng ở vô tướng

Mà quán là vô tướng

Vô tướng vô sở hiển

Vô nguyện bất khả đắc

Không có chút pháp thể

Để mà tu tập được

Chẳng niệm nơi vô tướng

Cũng chẳng niệm vô nguyện

Vô phân biệt như vậy

Hiển rõ tướng vô tướng

Chẳng hướng đến vô tướng

Cũng chẳng vào vô tướng

Không đến không chỗ vào

Hiển rõ bình đẳng trụ

Người trí chẳng thấy tướng

Cũng chẳng thấy vô tướng

Chẳng thấy chẳng tư duy

Tất cả không hiển rõ

Nếu người thường tư duy

Không tư không hiển rõ

Nơi tư và hiển rõ

Mà an trụ bình đẳng

Như ở nơi vô tướng

Vô tác cũng như vậy

Dầu hiển không chỗ hiển

Vì tư duy biết rõ

Vô sanh cũng như vậy

Không có chút pháp sanh

Tự tánh vô sở hữu

Hiển rõ mà không thể

Hoặc sanh hoặc vô sanh

Hoặc tác hoặc vô tác

Cũng không chút chấp kiến

Người trí chẳng phân biệt

Niệm huệ không động lay

Hiển rõ không nghĩ chọn

Là có hay không thể

Bình đẳng rời các tánh

Chẳng nơi tận thấy tận

Cũng chẳng thấy vô tận

Hiển rõ không chỗ thấy

Tận trí không gì trên

Hoặc tận hoặc vô tận

Cả hai chẳng phân biệt

Do vì vô phân biệt

Trụ vô niệm bình đẳng

Nơi tận thấy vô tận

Cũng không thấy vô tận

Như vậy lúc thấy tận

Chẳng chấp tận vô tận

Nếu nơi tận vô tận

Tất cả không chỗ chấp

Do vì không chổ chấp

Nên tận trí thường tỏ

Cảnh giới của tận trí

Sở đắc của vô úy

Vì hiển rõ pháp ấy

Bồ Tát khéo an trụ".

Lúc ấy đại chúng lại có Đại Bồ Tát tên là Thắng Huệ từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát vì muốn nhiếp lấy nhứt thiết trí mà khởi công tu hành. Vì khởi công tu hành nên được ánh sáng đại pháp. Ở nơi ánh sáng đại pháp không có chút pháp ấy được.

Vì ánh sáng pháp ấy nên biết rõ tất cả pháp, nào là hữu vi vô vi, thế gian xuất thế gian, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc hí luận hoặc không hí luận.

Bạch Đức Thế Tôn! Ánh sáng pháp ấy, đâu phải chư Đại Bồ Tát chẳng tu hành mà sẽ được".

Đức Phật phán: "Nầy Thắng Huệ! Chư đại Bồ Tát không có chút tu hành, không có thắng tu hành, chẳng tùy tu hành, chẳng biến tu hành mà có thể được vô biên ánh sáng đại pháp.

Chư đại Bồ Tát còn bất khả đắc, còn bất khả kiến thay, huống là Bồ Tát hạnh sẽ có được sẽ thấy được ư! Thế sao lại thấy bao nhiêu kiếp tu hành có thể được ánh sáng đại pháp.

Tất cả hành huệ của Đại Bồ Tát, sở hành thanh tịnh được ánh sáng pháp. Công hạnh của ánh sáng pháp chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng thì từ đâu thi thiết tất cả các công hạnh. Nhưng chỗ tu hành dầu chẳng phải thi thiết công hạnh mà cũng chẳng rời lìa.

- Nầy Thắng Huệ! Lúc an trụ nơi hạnh ấy, chư đại Bồ Tát xả bỏ tất cả hạnh không chỗ chấp lấy. Người đủ công hạnh ấy, chẳng phải công hạnh số lượng, chẳng phải công hạnh tùy tướng, không có tướng không có hành mới có thể được ánh sáng đại pháp ấy".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Bồ Tát không chổ hành

Mà cũng không có hạnh

Được không có sở hành

Thì vô úy hướng đến

Chưa từng có thắng hạnh

Cũng không có biến hạnh

Không hạnh không thắng hạnh

Thì bìNg đẳng hướng đến

Hạnh ấy không thị hiện

Cũng không có các tướng

Không có tướng không hành

Đây là tướng của hành

Bồ Tát vô tướng hành

Chẳng trụ ở các sự

Không hành không chỗ trụ

Người trí mới thành tựu

Không hành thì không động

Hạnh ấy là vô thượng

Làm được hạnh bất động

Dũng tiến mà hướng đến

Bồ Tát bất khả đắc

Hạnh cũng bất khả kiến

Cũng chẳng thấy sắc thân

Đây là người thiện thuận

Không sắc không hình tướng

Nên không tất cả hạnh

Nơi thấy không sở thủ

Đây là vô tỉ hạnh

Bồ Tát vô thượng hạnh

Chẳng tùy theo thi thiết

Cũng không có dời đổi

Trong ấy không sở chấp

Vì hạnh không thi thiết

Mới là hạnh vô thượng

Nếu được hạnh như vậy

Thì được ánh sáng pháp

Bồ Tát chỗ tu hành

Không lời không kiếp lượng

Hay dùng vô lượng kiếp

Nói rõ các công hạnh

Bồ Tát hạnh thanh tịnh

Thanh tịnh diệu an trụ

Xả bỏ tất cả hạnh

Không có người nhiếp thủ

Bồ Tát trụ nơi xả

Thủ hộ nơi các hạnh

Đã bỏ tất cả hạnh

Diệu an trụ nơi xả

Bồ Tát vô biên hạnh

Rời biên và vô biên

Hạnh kia không bị động

Gọi là vô thượng hạnh

Bồ Tát vô tướng hạnh

Hạnh ấy là vô thượng

Lúc tu hành hạnh ấy

Siêu việt các ma giới

Bồ Tát vô tướng hạnh

Sáng tỏ nơi vô tướng

Hoặc tướng và vô tướng

Đều không có sở y

Bồ Tát trụ trí ấy

Hạnh ấy khéo thành tựu

Không có chút sở hành

Gọi là người chẳng làm

Bồ Tát thường thanh tịnh

Nơi hạnh không e sợ

Chánh niệm mà hướng đến

Đây là khéo an trụ".

Ngài Thắng Huệ Đại Bồ Tát lại bạch rằng: ""Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát bao nhiêu sự tu hành rất là thậm thâm. Chẳng phải là chỗ tu hành của những kẻ ngu phu hữu tướng hữu vi mà có thể tu hành chút ít được.

Bạch Đức Thế Tôn! Không có chút pháp nào trong hạnh ấy, nên hạnh ấy là hạnh bình đẳng của đại Bồ Tát.

Công hạnh của Đại Bồ Tát, chẳng phải số lượng biên tế mà lường được".

Ngài Thắng Huệ Đại Bồ Tát nói kệ khen Đức Phật rằng:

"Đấng Đại Hùng Chánh Giác

Vô thượng Lưỡng Túc Tôn

Diễn thuyết hạnh thậm thâm

Lợi ích chư Bồ Tát

Thế Tôn diệu biện tài

Lượng ấy thiệt khó luờng

Đấng biện tài vô biên

Đại trượng phu tối thắng

Pháp Vương dứt nghị luận

Đây do Chánh Biến Tri

Vì chư đại Bồ Tát

Nói hạnh vô thượng ấy

Thế Tôn hay diễn thuyết

Về phương tiện diệt hành

Nơi hành đều vượt qua

Người trí sẽ hướng đến

Thế Tôn bất tư nghị

Cảnh giới trí vô biên

Chánh giác Lưỗng Túc Tôn

Khéo khai diệu hạnh ấy

Thế Tôn chỗ khai thị

Hạnh bất động tịch mặc

Hạnh ấy không động được

Nên gọi hạnh vô tỉ

Đại Hùng Đại Mâu Ni

Chỗ tu hành thuở xưa

Nói do nhiều kiếp hành

Không ai có thể đến

Bồ Tát nghe pháp ấy

Dầu ở tại thế gian

Mà ở nơi chủng trí

Chẳng bao lâu sẽ chứng

Chúng tôi thương chúng sanh

Sẽ ở trong mạt thế

Nơi pháp vô thượng ấy

Hay làm người hộ trì

Chúng tôi nghe pháp ấy

Sẽ ở trong mạt thế

Vì tất cả chúng sanh

Mà hay làm hay nói

Chúng tôi dùng ánh sáng

Sẽ ở trong mạt thế

Vì các người cầu pháp

Mà làm lợi ích lớn

Chúng tôi phát thệ nguyện

Sẽ ở trong mạt thế

Vì tất cả chúng sanh

Hộ trì mà kiến lập

Chúng tôi thường nghĩ nhớ

Sẽ ở trong mạt thế

Cúng dường biển chư Phật

Nguyện trì pháp vô thượng

Chúng tôi nơi pháp tạng

Sẽ làm thắng trượng phu

Nguyện trì pháp môn ấy

Thủ hộ khiến còn lâu

Chúng tôi nơi pháp thủy

Thệ nguyện đều uống hết

Mà với pháp môn ấy

Sẽ làm người thủ hộ

Chúng tôi nghe pháp rồi

Sẽ ở trong mạt thế

Nguyện làm đại trượng phu

Thọ trì Phật chánh pháp

Chúng tôi thà mất mạng

Chẳng bỏ pháp vô thượng

Nguyện ở trong pháp ấy

Mà làm người trì pháp

Chúng tôi trì pháp ấy

Chưa từng mừng là đủ

Khát ngưỡng nghe pháp ấy

Những thế kinh quyết định

Chúng tôi ở mạt thế

Vì những người cầu pháp

Sẽ diễn chánh pháp ấy

Khiến họ đều hoan hỉ

Pháp Vương chẳng nghĩ bàn

Hay làm nương dựa lớn

Xin thương gia hộ tôi

Nhớ tôi người trì pháp".

Đức Thế Tôn phán: "Này Thắng Huệ Lành thay, lành thayÔng có thể ở trong đời mạt thế sau, vì muốn hộ trì các háp ấy mà mặc đại giáp trụ. Cũng không khác thuở xưa chư đại Bồ Tã ở chỗ đấng Tối Thắng cúng dường phụng thờ trồng các cội lành, lâu dài tu phạm hạnh mặc đại giáp trụ hộ trì chánh pháp của chư Phật Thế Tôn".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Đời bố úy thuở sau

Ông sẽ trì pháp ấy

Vì lợi ích chúng sanh

Đem pháp ấy khai thị

Đời mạt thế thuở sau

Ông trì pháp tối thắng

Nếu ai nghe pháp này

Sd' sanh lònh ưa thích

Trong đời mạt thế sau

Ông làm người trì pháp

Ta nói pháp thậm thâm

Ông sẽ đều thọ trì

khế kinh bí mật ấy

Ông nghe phải ghi nhớ

Ở trong lý thú ấy

Chớ có lại nghi hoặc

Nghĩa quyết địng thậm thâm

Ông nghe phải ghi nhớ

Lợi ích các chúngsanh

Làm người trì pháp tạng

Đem pháp thí tất cả

Khắp nhuần các chúng sanh

Nghe xong khiến mừng vui

Khắp thân tâm hoan hỉ

Vì các đạo Bồ Tát

những lý thú sở hành

Và Tu Đa la ấy

Mà thọ trì trọn vẹn

Ông sẽ rộng độ được

Vô lượngc các chúng sanh

Trong tất cả thế gian

chẳng có thể độ được

Ông vì trì pháp ấy

Lợi ích các thế gian

Được những phước thù thắng

Do đây mà hướng đến

Nay ta nói pháp ấy

Ông đẻu phải thọ trì

Trong đời mạt thế sau

Vì người trí diễn nói

Đời nay và đời sau

Người trì được pháp ấy

Thì có thể thọ trì

Chánh pháp của ngàn Phật

Vì tất cả chúng sanh

Hộ trì pháp môn ấy

Ở đời mạt thế sau

Mà làm lợi ích lớn

Nếu người ở đời sau

Mà làm lợi ích lớn

Nếu người ở đời sau

Hộ trì được pháp ấy

Họ chẳng ở một Phật

Gần gủi mà cúng dường

Nếu người ở đòi sau

Hộ trì được pháp ấy

Họ đã phụng thờ nhiều

Đấng khéo nói pháp ấy

Được ở trong pháp ấy

Không có chút nghi hoặc

Mạt thế hộ trì pháp

Đây là người trí huệ

Mặc giáp lớn vô biên

Đấu chiến là thù thắng

Mà ở trong mạt thế

Mới trì được pháp ấy

Họ ở nơi chánh pháp

Lưới nghi đều đã trừ

Nghe pháp không chỗ sợ

Mới trì được pháp ấy".

Đức Phật phán tiếp:

"Này Thắng Huệ Nếu có thiện nam thiện nữ, người siêng cầu công đức lớn tối thắng, ở trong thời kỳ mạt thế vì pháp thậm thâm, phải mặc giáp trụ thọ trì đọc tụng giải thuyết nghĩa ấy.

- Lại này Thắng Huệ! Ta nhớ thuở xưa quá ; vô lượng kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là biến chiếu Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp ấy tên Siêu Thắng. Quốc độ ấy tên là Ly Cấu, mặt đất bằng phẳng rộng lớn trang nghiêm.

Trong các khu vườn ấy trần thiết nhiều đài ghế trang nghiêm, ao hồ đầy nước, bờ bực bằng các chất báu vòng quanh bỉnh chỉnh ra vào an ổn. Bên các bờ ao hồ, những cây thơm đẹp như trầm thủy, chiên đàn và đa mala rậm rợp ngay hàng.

Trongmỗi mỗi thành ấy, đều có mười ngàn câu chi nhơn dân. Vì tất cả nhơn dân ấy đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều đã thành tựu mười nghiệp lành nên tất cả đều hưởng thọ sự an lạc ấy.

Thuở ấy đức Biến Chiếu Như Lai ban đầu từ sơ kiếp siêu việt hai trăm kiếp mà xuất hiện trong ấy, vì thê nên kiếp ấy có tên là Siêu Thắng.

Trong kiếp ấy có năm trăm Đức Như Lai thứ đệ xuất hiện, mỗi mỗi quốc độ, chánh pháp trụ thế đều mười ngàn năm.

Năm trăm Đức Như Lai như vậy xuất hiện giáo hóa thế gian, có rất đông pháp hội Thanh Văn và Bồ Tát.

Mỗi mỗi pháphội đều có số câu chi na do tha vô lượng Bồ Tát hướng đến nhứt thừa đạo, được vô sanh pháp nhẫn.

Trong kiếp ấy có Chuyển Luân Vương tên là Dũng Mãnh Quân, trọn vẹn bảy báu trị bốn châu thiên hạ?

Ở Châu Diêm Phù Đề có một tòa thành ớn rộng sáu mươi do tuần, có tám mươi câu chi nhơn dân sống an ổn sung sướng giàu có đông đủc.

Đại thành ấy có bảy lớp tường hào, bảy lớp hanég câyn bảy lớp lâu đài, bảy lớp linhvõng, một ngàn khu vườn trangnghiêm bao quanh đại thành.

Mỗi mỗi khu vườn ngang rộng hai mươi do tuần, đểu có bảy lớp tường rào, bảy lớp mành lưới, nhiều thứ trang nghiêm, tất cả đều xinh đẹp, những trân ngoạn châu báu như thiên cung.

Mỗi khu vườn lại có một trăm ao hồ, bờ ao bằng báu tỳ lưu ly, thềm bực bằng ngọc mã não, tong ao nhiều hoa đẹp, trên ao cây báu bày hàng.

Trong đại thành, chánh điện của Luân Vương lớn bảy do tuần, xây bằng hoàng kim và ngọc màu xanh, bao bọc băng trụ báu, trang sức bằng ngọc lưu ly, che trùm dùng lưới ma ni châu. Những cây đa la rậm rạp ngay thẳng. Trong ấy có hai mươi ao nước, đáy lót chơn kim, trên che lưới vàng, báu tạp lưu ly làm cầu, thềm đường thuần bằng hoàng kim, trong ao bốn màu hoa sen đua nở.

Chuyển Luân Vương Dũng Mãnh Quân có hai ngàn thể nữ, sáu vạn con trai.

Trong lúc cùng quyến thuộc hưởng vui ngũ dục nơi khu vườn ấy, Luân vương tự nghĩ rằng: những dục lạc đều vô thường sẽ mau biến hoại. Tôi phải quyết chí cầu Phật pháp. Nếu được nghe pháp rồi, tôi sẽ y theo tu hành để được lợi ích an vui mãi mãi.

Luân Vương vừa suy nghĩ xong, trên hư không bỗng có Thiên Tử hiện ra bảo rằng:

Lành thay, này Chuyển Luân Vương! Hiện nay có Biến Chiếu Như Lai xuất thế diễn thuyết chánh pháp, sơ trung hậu đều lành. Đại Vương nên đến chỗ Đức Như Lai ấy sẽ được nghe chánh pháp và sẽ mãi mãi được an lạc lợi ích, thành tựu trọn vẹn Phật Pháp.

Nghe lời chỉ bảo của Thiên Tử, Luân Vương vui mừng hớn hở liền đem quyến thuộc cùng đến chỗ đức Biến Chiếu Như Lai đảnh lễ chưn Phật mà bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Dùng những pháp gì có thể nhiếp được chư pháp thiện xảo phương tiện, có thể làm cho phạm hạnh được viên mãn, tôi sẽ tu hành.

Đức Biến Chiếu Như Lai vì Luân Vương mà khai thị rộng rãi các pháp.

Nghe pháp xong, Luân Vương và quyến thuộc cung kính cúng dường Đức Phật và đại chúng suốt hai muôn năm. Sau đó Luân Vương xuất gia trong chánh pháp của đức Biến Chiếu Như Lai.

Do vì nghe pháp, Tỳ Kheo Dõng Mãnh Quân được thiện căn thọ pháp, thiện căn trì pháp, thiện căn thuyết pháp. Có được nghe pháp gì đều ghi nhớ suy gẫm chẳng quên. Siêng năng tu tập vô lượng công đức phát nguyẹn rằng:

Nguyện thọ trì ba thời kỳ chánh pháp của Đức Như Lai, vì các hàng chúng sanh mà tuyên thuyết.

Đối với chư Như Lai trong kiếp Siêu Thắng, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân đều thân cận cúng dường thờ phụng, đều có thể thọ trì hiện tiền chánh pháp, trung thời chánh pháp và hậu thời chánh pháp của Như Lai ấy, giáo hóa thành thục bốn muôn tám ngàn câu chi na do tha chúnhg sanh hướng đến Vô Thượng Bồ Đề, phương tiện điều phục vô lượng chúng sanh an trụ Thanh Văn thừa và Bích Chi Phật Thừa.

Trong kiếp ấy, Đức Như Lai tối Thắng hiệu là Điện Quang.

Lúc nghe đức Điện Quang Như Lai thuyết pháp, Tỳ Kheo Dũng Mãnh Quân được vô sanh nhẫn.

Điện Quang Như Lai thọ ký rằng:

Ở đời vị lai, Ông Dũng Mãnh Quân cúng dường vô lượng ngàn Phật Thế Tôn, thọ trì ba thời chánh pháp của chư Như Lai, làm lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, an lập trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh nơi vô thượng bồ đề, vô lượng chúng sanh nơi Thanh Văn thừa.

Như vậy quá a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Đề hiệu là Vô Biên Tinh Tiến Quang Minh Công Đức Siêu Thắng Vương Như Lai. Cõi nước của Đức Phật ấy chứa họp vô lượng công đức thanh tịnh, an ổn giàu vui, nhơn dân đông nhiều, có đông chúng Thanh Văn và Bồ Tát. Đức Phật ấy thọ đến năm tiểu kiếp, giáo pháp lưu truyền khắp nơi được Trời Người thọ trì. Xá lợi, tháp miếu khắp các quốc độ.

- Nầy Thắng Huệ! Thế nên chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp thanh tịnh thậm thâm ấy phải tôn trọng thọ trì tu tập, dùng pháp trang cụ để trang nghiêm thân mình. Vì dùng pháp để trang nghiêm nên chứng được thân na la diên kiên cố do kim cương tạo thành của Đức Như Lai.

Giả sử khắp cõi Đại Thiên, tất cả chúng sanh tận lực muốn phá hoại thân kiên cố ấy cũng không thể xô ngã được.

Ở trong chúng Trời, Người, A Tu La diễn tả ánh sáng pháp, không có địch luận được.

Nếu có chúng sanh nào ở trong thâm pháp ấy thọ trì đọc tụng siêng năng tu tập, tùy theo ý thích của họ mà thọ sanh nơi nhà vọng tộc lớn thanh tịnh, nhẫn đến ngồi dưới cội Bồ Đề, đầy đủ tiếng danh, quốc độ đẹp lạ chẳng xen dị đạo. Còn không có tên phạm chí giá la ca, huống là có bọn ác kiến cầu tà. Các điều bất thiện cũng chưa từng nghe, đâu có người tập làm căn chẳng lành.

Có thể dùng ngón chưn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô biên tất cả thế giới. Các chúng sanh gặp ánh sáng ấy đều được an lạc sẽ chứng Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Thắng Huệ! Thế nên chư Đại Bồ Tát nếu ở trong pháp của ta mà siêng tu hành thì sẽ được công đức thù thắng như vậy?. Nếu ta nói cho đủ, dầu cùng kiếp cũng chẳng nói hết được".

Đức Thế Tôn lại phán với Ngài Vô Biên Huệ đại Bồ Tát rằng: "Này Vô Biên Huệ! Nếu có người an trụ nơi Bồ Tát đạo ấy, siêng tu thâm pháp thanh tịnh như vậy, tương ưng với không, tương ưng với tịch tịnh, thì được ánh sánh pháp.

Dùng ánh sáng pháp thấy tất cả pháp tự tánh không có khác.

Vì tánh không khác nên chỗ thấy thanh tịnh. Vì chỗ thấy thanh tịnh nên không có pháp kiến, cũng không có pháp rời lìa tự tánh để thấy. Pháp kiến thanh tịnh, cũng không có thanh tịnh, không có người thanh tịnh, không có thời gian thanh tịnh. Có thể được cảnh giới thanh tịnh trí. Thấy các pháp giới: Chẳng phải giới, chẳng phải phi giới? Giới kiến thanh tịnh xa rời các thứ tánh tưởng của các giới.

Vì rời tánh tưởng nên ở nơi giới lý thú bí mật ngôn từ có thể hiễu rõ, lại có thể biết khắp các pháp phi giới. Vì thấy pháp giới không sai biệt, bất khả hoại, bất biến dị nên được phương tiện thiện xảo nơi lý thú của tất cả pháp giới.

Do thiện phương tiện biết khắp được lý thú của pháp giới. Dùng sức đẳng trì ở nơi lý thú sai biệt của các pháp giới tùy thuận thẳng vào.

Lúc an trụ công hạnh ấy, dùng phương tiện thiện xảo đối với tất cả các pháp không trụ không trước.

Vì vô sở trước nên có thể ở nơi tất cả pháp giới lý thú, tùy chỗ thích ứng mà khai thị.

Vì sức đẳng trì lại có thể xuất sanh những tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, du hí thần thông biến một làm nhiều, biến nhiều làm một, với núi đá tường vách bay qua tự tại không vướng ngại.

Phương tiện thiện xảo biết được bốn giới hòa hiệp, chẳng ở nơi giới mà biết tất cả giới hiệp cùng không giới. Nơi không giới chẳng trước chẳng hệ.

Do trí ; thiện xảo giới hòa hiệp ấy mà ở nơi tất cả giới phương tiện tu tập.

Do tu tập mà quyết liễu thủy giới. Có thể ở nơi thủy giới hoặc làm cho lên khói hoặc phát lửa. Hoặc ở trong ấy làm cho khói lửa cháy phừng. Nhẫn đến nhiều thứ biến hiện để làm lợi ích cho các chúng sanh.

Vì có thể an trụ pháp giới lý thú thiện xảo phương tiện nên không động lay, tùy ý thích nơi Phật độ nào đó, có thể ở nơi các cõi chuyển hình thai tạng, thọ thân hóa sanh, thường thấy mười phương tất cả thế giới chư Phật Như Lai. Chư Như Lai ấy, danh hiệu như vậy, dòng họ như vậy, chúng hội như vậy, thuyết pháp như vậy đều biết rõ ràng".

Lúc đó trong chúng hội lại có Đại Bồ Tát tên Vô Biên Thắng tiến lên bạch Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chư đại Bồ Tát an trụ pháp gì mà có thể được công đức tối thắng như Đức Thế Tôn vừa nói?".

Đức Phật phán với Ngài Vô Biên Thắng Đại Bồ Tát: "Này Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát đối với đối với tất cả pháp không chỗ an trụ thì có thể được công đức tối thắng như ta đã nói.

- Nầy Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát nếu an trụ sắc thọ tưởng hành thức, nếu trụ nơi địa giới, thủy giới, phong Giới, không giới, nếu trụ nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, ở kinh này, ta chẳng nói được các công đức ấy.

Nhưng chư Đại Bồ Tát, ở nơi các pháp không chỗ trụ, chẳng vào chẳng ra, nên ta nói họ sẽ được biển lớn vô biên công đức.

Tại sao vậy?

Chư đại Bồ Tát không chút pháp có thể được có thể trụ. Cũng không có chút pháp vào đdược ra được. Ngài khéo an trụ được nơi lý thú của các pháp mà không chỗ đdộng lay.

Tại sao vậy?

Vì chư đại Bồ Tát không an trụ không động lay vậy.

Vì không động lay nên không có cao không có hạ.

Vì không cao hạ nên rời xa nơi cao, chẳng an trụ nơi hạ.

Vì chẳng an trụ nên gọi ; là khéo an trụ.

Người khéo an trụ thì không có chỗ an trụ thì không có an trụ. Người không có chỗ an trụ thì chẳng an trụ nơi chỗ.

Chư đại Bồ Tát chẳng ở nơi chút pháp nào hoặc có an lập, hoặc có tích tập, không xứ không trụ, không khởi không tác.

Tại sao vậy?

Vì nơi chỗ bất khả đắc. Vì không có nơi chỗ nên không có phân biệt. Vì không có phân biệt nên bất động xứ mà an trụ, như pháp giới mà an trụ. Không có xứ mà an trụ thì không có an trụ. Với xứ và không có xứ đều không có chấp trước. Gọi đó là thiện trụ.

- Nầy Vô Biên Thắng! Chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú mà an trụ. An lập như vây là an trụ nơi vô trụ, không có chỗ an trụ mà an trụ, thấy tất cả pháp không có phân biệt.

An trụ nơi hạnh vô phân biệt như vậy, dùng hạnh như vậy thấy tất cả pháp không có chỗ động thì an trụ nơi chơn như lý, thì tương ưng với chơn như lý động, thì tương ưng với chơn như lý bất thu.

Đức Thế Tôn:

"Bồ Tát chánh ức niệm

Nơi nghĩa khéo tư duy

Chẳng trụ trong các pháp

Gọi đó là người trí

Chưa từng có chút pháp

Làm được chỗ an lập

Vô úy mà hướng đến

Chẳng an lập nơi sắc

Cũng chẳng lập nơi thọ

Nơi các tưởng các hành

Bà nơi thức cũng vậy

Chẳng an trụ nơi uẩn

Các giới và các xứ

Hoặc xứ hoặc phi xứ

Cũng thường không chỗ trụ

Chẳng an trụ địa giới

Cũng chẳng an trụ thủy giới

Hỏa giới và phong giới

Cũng thường không chỗ trụ

Chẳng an trụ Dục giới

Sắc giới, Vô sắc giới

Vì được không an lập

Nên chẳng trụ tam giới

Và ở hư không giới

Nơi ấy không chỗ trụ

Vì không có chỗ trụ

Bình đẳng mà hướng đến

Vẫn không có chút pháp

Trong ấy an trụ được

Nếu được không chỗ trụ

Đây là người diệu trí

Diệu trí không chỗ trụ

Không trụ là thiện trụ

Được an trụ như vậy

Thì trụ trong pháp giới

Vì tương ưng vô trụ

Kia thường hay thiện trụ

Không trụ không y chỉ

Nơi pháp được an trụ

Nếu được không y chỉ

Thí thường không sở động

Chẳng nhập cũng chẳng xuất

Bình đẳng khéo an trụ

Nơi pháp trụ như vậy

Đây là người dũng mãnh

Tất cả pháp không cao

Tất cả pháp không tháp

Không sở động như vậy

Khéo an trụ pháp giới

Vì an trụ chẳng động

Thành tựu vô trụ xứ

Mà được thiện an trụ

Hoặc xứ hoặc phi cứ

Tất cả không sở động

Trụ ở bất động xứ

Mới gọi là bất động xứ

Nếu trụ bất đọng xứ

Tất cả không chỗ trụ

chẳng niệm xứ phi xứ

Thường trụ vô phân biệt

Vì chẳng trụ nơi xứ

Thì không có sở động

Nơi xứ không sở động

Tất cả được vô trụ

Nếu được vô trụ xứ

Xứ phi xứ chẳng động

Nếu nơi xứ chẳng động

Là thiện trụ nơi xứ

Thiện trụ xứ an trụ

Thì trụ vô sở trụ

Hay thấy tất cả pháp

Trụ tương ưng trụ pháp

Thấy các pháp như vậy

Các thứ vô sở trụ

Vô trụ không an trụ

Thiện xảo nơi pháp trụ

Thường trụ ở các pháp

Mà không có phân biệt

Vì rời các phân biệt

Đây là người bất động

Nếu hay trụ bất động

Nơi hành vô phân biệt

Rời xa xứ phi xứ

Đây là người quan sát

Nếu hay quán bất động

Tất cả không sở động

Các pháp thường bình đẳng

Như vậy mà hướngđến

Trụ tương ưng chơn như

Chơn như mà bất động

Người đươc vô động xứ.

Thường trụ nơi vô xứ

Ngài Vô Biên Thắng Đại Bồ Tát lại bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Rất là hy hữu, Đức Thế Tôn có thể an lập chư đại bồ Tát ở nơi pháp lý thú không có hệ phược, không có giải thoát.

Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát ở nơi pháp lý thú khéo an lập chẳng cùng với chút pháp hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng, hoặc hòa hiệp hoặc chẳng hòa hiệp, hoặc nhiếp thủ hoặc chẳng nhiếp thủ, hoặc có sở quy hoặc không có sở quy, hoặc tham hoặc ly tham, hoặc sân hoặc ly sân.

Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát ở trong tất cả pháp lý thú thiện xảo an lập.

Giả sử có chúng sanh dúng dường cung kính, Đại Bồ Tát ấy chẳng có lòng tham ái. Chúng sanh hủy nhuc bức não, Đại Bồ Tát ấy cũng chẵng sân hận.

Chư đại bồ tát ấy không có các thứ tưởng, rời tất cả pháp, chẳng thấy có chút pháp có thể cùng với chút pháp tương ưng hoặc chẳng tương ing, vì siêu quá tương ung và chẳng tương ưng vậy.

Các Ngài rời xa tưởng tương ưng chẳng tương ung, biết rõ tương tương ưng chẳng tương ưng, siêu quá biết rõ, chắng ở nơi chút pháp hoặc tiến hoặc thối hoặc có chỗ hướng đến hoặc không có chỗ hướng đến mà làm tương ưng.

Ở trong tất cả pháp lý thú, các Ngài không có vọng niệm cũng không có sở thủ, dùng thiện phương tiện chẳng hoại pháp tánh.

Bạch Đức Thế Tôn! Lúc an trụ nơi tất cả pháp như vậy, chư Đại Bồ Tát có thể dùng thiện xảo tuyên nói tất cả pháp giới lý thú, tất cả Phật Pháp mau được viên mãn".

Đức Thế Tôn phán với Ngài Vô Biên Huệ Đại Bồ Tát rằng: "Này Vô Biên Huệ! Ở trong Phật Pháp, lúc chư Đại Bồ Tát không chỗ an lập không chỗ an trụ thì thấy Phật Pháp, không có an lập không có sở trụ, cũng không thắng trụ, cũng không biến trụ, thấy Phật Pháp trụ. Tại sao vậy? Vì chẳng khuynh động, vì chẳng lưu chuyển vì chẳng biến dị vậy.

Tương ưng với tất cả pháp giới mà an trụ mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong Phật pháp, chư đại Bồ Tát không trụ, không thắng trụ, không biến trụ, không phi xứ trụ, cũng không sở động, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát chẳng thấy chút pháp có thể cùng chút pháp mà làm an lập, cũng chẳng thấy có tất cả pháp xứ làm thắng an lập, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt, mới gọi là tất cả pháp giới lý thú thiện xảo an lập.

- Nầy Vô biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát chẳng thấy chút pháp hoặc trụ hoặc khứ, cũng không phân biệt, không thắng phân biệt, không biến phân biệt. Các Ngài thấy tất cả pháp như tịnh hư không ánh sáng chiếu suốt rời xa phiền não, vì ánh sáng chiếu tất cả pháp, nên mới gọi là được thiện xảo phương tiện nơi tất cả pháp giới lý thú, chẳng dùng an lập để quán pháp giới. Tại sao vậy? Vì chẳng ở nơi pháp giới có chút an lập vậy.

Ví như hư không và phong giới không có xứ sở cũng không thấy được, không chỗ an lập không chỗ y chỉ, không hiện bày được.

Pháp giới cũng như vậy, không chỗ vào được, không chỗ thấy được, không chỗ an lập, không chỗ y chỉ, không hiện bày được.

Pháp giới cũng như vậy, không chỗ vào đươc, không chỗ thấy được, không chỗ an lập, không chỗ y chỉ, cũng không liễu tri cũng không hiện bày.

Chư đại Bồ Tát vì không hiện bày nên tương ưng với như như giới mà an trụ.

- Nầy Vô Biên Huệ! Tất cả pháp giới không sanh không mạng, không lão không tử, không thăng không trầm, không hiện bày giới đó là pháp giới, không biến dị giới đó là pháp giới, mà pháp giới ấy khắp tất cả chỗ.

- Nầy Vô Biên Huệ! Pháp giới không khứ, cũng không chỗ khứ? Vì không chỗ khứ nên mới gọi là tương ưng với pháp giới mà an trụ.

Trong như như pháp giới không có xứ cũng không có phi xứ. Tại sao vây? Vì như như pháp giới như như tự tánh vô sở hữu vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! chư Đại Bồ Tát nghe ta nói đây thì ở nơi tất cả pháp giới lý thú được vô biên ánh sáng đại pháp. Do ánh sáng pháp được vô sanh nhẫn, chóng viên mãn Phật thập lực mười tám pháp bất cộng.

Vì muốn thành thục tất cả chúng sanh thiện căn rộng lớn tư lương thù thắng vì muốn chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt nên mau đến đạo tràng chuyển pháp luân, che khuất cung ma, xô dẹp dị luận, làm đại sư tử hống mà vì chúng sanh diễn thuyết diệu pháp tùy theo sở thích của họ, tùy theo chí nguyện của họ, tùy theo chỗ hướng đến chánh giải thoát của họ, đếu làm cho tất cả đều đến Vô Thượng Bồ để.

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy