× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 61 LXI. PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT. - THỨ SÁU MƯƠI MỐT (5)

Thế nào là bốn?

Một là nghĩa vô ngại. Hai là Pháp vô ngại. Ba là Từ vô ngại. Bốn là Lạc thuyết vô ngại.

Thế nào là nghĩa vô ngại trí?

Ở trong các pháp biết đệ nhứt nghĩa đế, là tỉ trí, là nhơn trí, là duyên trí, là hoà hiệp trí, là ly biến trí, là chẳng trụ chung trí, là thập nhị duyên trí, là chẳng khác pháp tánh trí, là như thiệt trí, là chơn tế trí, là giác không không trí, là vô tướng tướng trí, là vô nguyện nguyện trí, là vô vi vi trí, là quán nhứt tướng trí, là quán vô ngã trí, là quán vô chúng sanh trí, là quán vô thọ mạng trí, là quán đệ nhứt nghĩa trí, là quán quá khứ vô ngại trí, là quán vị lai vô biên trí, là quán hiện tại Nhứt thiết chủng trí, là quán các ấm như oán tặc trí, là quán các giới như độc xà trí, là các nhập như xóm vắng trống trí, là quán nội pháp vĩnh tịch diệt trí, là quán ngoại pháp vô hành xứ trí, là quán sở duyên như ảo hoá trí, là quán niệm chánh trụ trí, là quán nhẫn chánh pháp trí, là quán tự thân trí, là quán chơn đế trí, là khổ chẳng hoà hiệp trí, là tập chẳng tạo tác trí, là diệt tự tánh trí, là đạo hay đến trí, là phân biệt các pháp trí, là quán chúng sanh các căn tâm hành tuỳ sở nhập trí, là các lực không gì phục được trí, là các giác như thiệt hiểu trí, là thiền định thọ trì trí, là huệ quang minh trí, là ảo hoá trang nghiêm trí, là sự muốn trông mộng trí, là tiếng vang cảnh sở duyên trí, là như tượng trong gương không có khứ lai trí, là các thứ tướng không có tướng trí, là ách ly ách trí, là thủ sanh ly sanh trí, là Thanh Văn thừa theo người nghe trí, là Duyên Giác thừa quán mười hai duyên trí, là Đại thừa đầy đủ các thiện căn trí. Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại trí.

Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:

Tư duy nghĩa tất cả pháp. Tại sao?

Tất cả pháp ấy không có ngã, nhơn, thọ mạng, chúng sanh. Như không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì gọi là nghĩa.

Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:

Là vô trụ thuyết. Là vô tận thuyết. Là đắc nhứt thiết pháp thuyết.

Nghĩa vô ngại như vậy được chư Phật hứa khả, là chơn thiệt nghĩa vô biệt vô dị, trí huệ phân biệt không có chướng ngại.

Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát pháp vô ngại trí?

Bồ Tát quán các pháp, những là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hắc, pháp bạch, pháp sanh tử, pháp Niết bàn. Trí ấy pháp tánh bình đẳng, trí ấy Bồ đề bình đẳng, trí ấy tánh bình đẳng, đây gọi là Pháp vô ngại trí.

Còn nữa, Pháp vô ngại trí ấy:

Quán các chúng sanh tâm hành đa dục, tâm hành thiểu dục, tâm hành sơ phát dục, tâm hành dục tướng, tâm hành hiện tại dục được duyên, tâm hành hiện tại dục nhơn duyên, có các chúng sanh nội có dục hành mà ngoại không có dục hành, hoặc ngoại có dục hành mà nội không có dục hành, hoặc nội ngoại đều có dục hành, hoặc nội ngoại đều không dục hành, hoặc sắc dục hành mà chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, hoặc thanh dục hành mà chẳng phải sắc, hương, vị, xúc, hoặc hương dục hành mà chẳng phải sắc thanh vị xúc, hoặc vị dục hành mà chẳng phải sắc, thanh, hương, xúc, hoặc có xúc dục hành mà chẳng phải sanh thanh, hương, vị. Nhập môn hành quán chúng sanh các dục hành như vậy. Dục hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Sân hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Si hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Đẳng phần hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Bồ Tát quán chúng sanh có tám vạn bốn ngàn hành như vậy, đều như thiệt biết rõ cả, biết rồi tuỳ sở ưng mà vì họ thuyết pháp.

Đây gọi là Bồ Tát Pháp vô ngại trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Từ vô ngại trí?

Nơi các âm thanh đều quán biết rõ:

Những là ngữ ngôn văn tự âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, Nhơn và Phi Nhơn thảy đều có thể biết cả. Ngũ đạo tạp loại chúng sanh như vậy, tuỳ theo chủng loại ấy mỗi mỗi ngữ ngôn văn tự âm thanh mà vì họ thuyết pháp. Đây gọi là Từ vô ngại trí.

Ngữ pháp văn tự như vậy, Bồ Tát tư duy hiểu rõ vô ngại.

Bồ Tát biết một ngôn ngữ, hai, ba ngôn ngữ nhẫn đến nhiều ngôn ngữ, ngôn ngữ của nam, của nữ, của phi nam nữ, ngôn ngữ quá khứ, vị lai, hiện tại đều biết rõ cả. Biết ngôn ngữ chứa một chữ đến nhiều chữ. Đây gọi là Từ vô ngại trí.

Từ vô ngại trí ấy, lúc nói không có sai lầm không có trệ ngại, lời nói vi diệu thông sướng chắc thiệt chánh trực không có thô, bao nhiêu văn từ đầy đủ trang nghiêm, thính chúng được nghe không ai là chẳng hoan hỷ. Các thứ âm thanh vi diệu như vậy, sâu xa rộng khắp trang nghiêm tục đế và đệ nhứt nghĩa đế. Dùng tên trí huệ khéo bắn tà kiến. Từ vô ngại ấy được chư Phật hứa khả, có thể làm cho chúng sanh đêu hoan hỷ.

Đây gọi là Bồ Tát Từ vô ngại trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là đại Bồ Tát Lạc thuyết vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận?

Diễn nói vô ngại, diễn nói chẳng trụ, diễn nói nhanh lẹ, diễn nói nhạy bén, như chỗ hỏi đáp, trả lời không có chướng ngại, trả lời không có chống trái, là trả lời tương ưng, trả lời trụ sức, nhẫn nhịn, trả lời y nơi hai đế, trả lời y nơi thí, giới, nhẫn, tiến, định, huệ, trả lời y nơi tất cả pháp chương cú, trả lời y nơi nghĩa thậm thâm của niệm, xứ, chánh cần, như ý, căn, lực, giác đạo, trả lời y nơi tịch diệt tư duy, đây là Lạc thuyết vô ngại trí.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy, nếu tất cả ngôn ngữ văn tự phân biệt chánh trực mà đáp. Đó là tất cả thiền định tam ma bạt đề chơn đế trí mà đáp, biện luận thông sướng ba thừa tuỳ tâm hành tất cả chúng sanh như chỗ sở ưng mà đáp, lời nói xảo diệu, chẳng phải như dê câm thô bạo điệu hí, không hề có những lời lẽ xấu dở như vậy. Lời nói ra tịch diệt được người thọ dụng. Lời nói oai đức không có triền phược, lời nói tương ưng không trái vi diệu nhu hoà. Lời nói không bị chê trách được thánh nhơn khen. Như lời dạy bảo của Phật Thế Tôn phạm âm trong suốt tất cả đều nghe.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy được Phật hứa khả vì chúng sanh khác mà nói pháp vi diệu, nghe pháp ấy được vui xuất thế dứt hết các khổ. Đây gọi là Lạc thuyết vô ngại trí vậy.

Thưa Tôn giả! Đây gọi là đại Bồ Tát tứ vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có bốn y pháp chẳng cùng tận.

Những gì là Bốn y?

Y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa và y pháp chẳng y nhơn.

Thế nào là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ?

Ngữ ấy, là nếu nhập vào trong thế pháp thì có chỗ nói. Nghĩa ấy là hiểu pháp xuất thế không có tướng văn tự.

Ngữ ấy, là nói bố thí điều phục ủng hộ. Nghĩa ấy, là biết thí, giới, nhẫn vào tánh bình đẳng.

Ngữ ấy, là xưng nói sanh tử. Nghĩa ấy, là biết sanh tử không có tánh.

Ngữ ấy, là nói Niết bàn vị. Nghĩa ấy, là biết Niết bàn không có tánh.

Ngữ ấy, là nói các thừa tuỳ chỗ an ở. Nghĩa ấy, là khéo biết các thừa nhập vào môn trí nhứt tướng.

Ngữ ấy, hoặc nói các xả thí. Nghĩa ấy, ba thứ thanh tịnh.

Ngữ ấy, là nói thân khẩu ý thọ trì tinh giới công đức oai nghi. Nghĩa ấy là tỏ thân khẩu ý đều không có sở tác mà có thể hộ trì tất cả tinh giới.

Ngữ ấy, nếu nói nhẫn nhục dứt trừ sân khuể, cống cao, kiêu mạn. Nghĩa ấy, tỏ thấu các pháp được Vô sanh nhẫn.

Ngữ ấy, nếu nói siêng tu tất cả thiện căn. Nghĩa ấy, an trụ tinh tiến không có chung thuỷ.

Ngữ ấy, nếu nói các thiền giải thoát tam muội. Nghĩa ấy, biết diệt tận định.

Ngữ ấy, đều có thể khai thị tất cả văn tự trí huệ thiện căn. Nghĩa ấy, biết nghĩa huệ ấy chẳng thể tuyên nói.

Ngữ ấy, nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nghĩa ấy, chánh biết tu hành các trợ đạo pháp hay chứng được quả.

Ngữ ấy, nói khổ tập đạo đế. Nghĩa ấy, chứng được diệt đế.

Ngữ ấy, nói vô minh căn bổn nhẫn đến sanh duyên lão tử. Nghĩa ấy, biết vô minh diệt nhẫn đến sanh lão tử diệt.

Ngữ ấy, nói pháp trợ định huệ. Nghĩa ấy, sáng trí giải thoát.

Ngữ ấy, nói tham khuể si. Nghĩa ấy, hiểu ba bất thiện căn tức là giải thoát.

Ngữ ấy, thoát pháp chướng ngại. Nghĩa ấy, được vô ngại giải thoát.

Ngữ ấy, xưng nói Tam bửu vô lượng công đức. Nghĩa ấy, Tam bửu công đức ly dục pháp tánh đồng tướng vô vi.

Ngữ ấy, nói từ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tu tập trang nghiêm Bồ đề công đức. Nghĩa ấy, dung một niệm huệ giác liễu tất cả pháp.

Tóm lại, có thể nói tám vạn bốn ngàn pháp trụ, đây gọi là ngữ. Biết các văn tự chẳng thể tuyên nói, đây gọi là nghĩa.

Đây gọi là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ.

Thế nào là Bồ Tát Y trí chẳng y thức?

Thức ấy có bốn xứ thức ở:

Thức ở nơi sắc, thức ở nơi thọ, thức ở nơi tưởng và thức ở nơi hành.

Người trí biết rõ tánh bốn thức không có chỗ ở.

Người thức, hoặc biết địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại. Người trí biết ở tứ đại pháp tánh không có khác.

Người thức, nhãn thức trụ nơi sắc, nhĩ thức trụ nơi thanh, tỷ thức trụ nơi hương, thiệt thức trụ nơi vị, thân thức trụ nơi xúc và ý thức trụ nơi pháp.

Người trí, nội tánh tịch diệt còn ngoại tánh thì vô sở hành, biết rõ các pháp không có ức tưởng.

Người thức, duyên lấy cảnh sở duyên để tư duy phân biệt.

Người trí, tâm không có cảnh sở duyên chẳng lấy tướng mạo, ở trong các pháp không có mong cầu.

Người thức, hành pháp hữu vi.

Người trí, biết pháp vô vi thức không có sở hành, vô vi pháp tánh không có thức tri.

Thức ấy, tướng sanh trụ diệt.

Trí ấy, không có tướng sanh trụ diệt.

Đây gọi là Bồ Tát Y trí chẳng y thức.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát y kinh liễu nghĩa mà chẳng Y kinh chẳng liễu nghĩa?

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, phân biệt tu tập đạo.

Kinh liễu nghĩa ấy, chẳng phân biệt quả.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, chỗ làm hành nghiệp tin có quả báo.

Kinh liễu nghĩa ấy, hết các phiền não.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, quở các phiền não.

Kinh liễu nghĩa ấy, tán thán pháp bạch tịnh.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, nói sanh tử khổ não.

Kinh liễu nghĩa ấy, sanh tử và Niết bàn một tướng không có hai.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, khen nói các thứ trang nghiêm văn tự.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói kinh thậm thâm khó thọ trì khó hiểu tỏ.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, phần nhiều vì chúng sanh nói tướng tội tướng phước, khiến người nghe pháp sanh lòng lo sợ hay ưa thích.

Kinh liễu nghĩa ấy, phàm pháp được nói làm cho người nghe tâm họ được điều phục.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, hoặc diễn nói ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, các thứ văn từ, các pháp không có thí giả, thọ giả mà vì chúng sanh nói có thí có thọ.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, không có tác giả, thọ giả, thường nói vô lượng môn giải thoát.

Đây gọi là Bồ Tát Y kinh liễu nghĩa mà chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Y pháp mà chẳng y nơi người?

Người ấy, nhiếp lấy nhơn, kiến, tác giả, thọ giả.

Pháp ấy, hiểu không có nhơn, kiến, thọ giả, tác giả.

Người ấy, phàm phu, người lành, tín hành nhơn, pháp hành nhơn, bát nhơn, người Tu Đà Hoàn, người Tư Đà Hàm, người A Na Hàm, bực A La Hán, bực Bích Chi Phật, bực Bồ Tát. Một người xuất thế thì làm cho nhiều người lợi ích nhiều người thọ lạc, thương xót chúng sanh phát lòng đại bi, ở trong nhơn thiên có nhiều tư nhuận, đó là đức Phật Thế Tôn. Các điều như vậy gọi là đức Phật y theo thế tục đế vì giáo hoá chúng sanh nên diễn nói pháp như vậy.

Nếu có người nhiếp lấy sự thấy biết như vậy thì gọi là y nhơn.

Đức Như Lai vì giáo hoá người nhiếp nhơn kiến ấy nên nói phải y nơi pháp mà chẳng y nơi nhơn.

Pháp tánh ấy, chẳng biến chẳng đổi, không tác không chẳng tác, không trụ không chẳng trụ, tất cả bình đẳng. Bình đẳng cũng bình đẳng, mà bất bình đẳng ấy cũng bình đẳng. Không có nhơn không có duyên được chánh quyết định, nơi tất cả pháp không có diệt không có dị, tánh tướng vô ngại dường như hư không, đây gọi là pháp tánh.

Nếu người y chỉ pháp tánh ấy thì trọn không hề rơi lìa pháp nhứt tướng. Người nhập môn ấy thấy tất cả pháp đồng nhứt pháp tánh. Vì vậy nên nói Bồ Tát y nơi tất cả pháp mà chẳng y nơi nhơn.

Đây gọi là Bồ Tát Tứ y vô tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập trợ đạo công đức trí huệ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập công đức vô tận?

Bồ Tát nếu bố thí trì giới tâm chỗ tu tập phát hành từ bi, tự có phạm tội thì phát lộ sám hối cũng thay thế chúng sanh mà phát lộ sám hối, đã làm sám hối rồi kế nên tuỳ hỉ.

Bồ Tát hạnh tuỳ hỉ thế nào?

Tất cả chúng sanh, bực hữu học vô học, bực Bích Chi Phật, Bồ Tát phát tâm người đã tu tập, bực kiên trụ bất thối, bực nhứt sanh bổ xứ, các người như vậy trong tam thế tích tập công đức, nên dùng nhứt tâm tuỳ họ hoan hỷ.

Lại ở nơi tam thế chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu thiện căn đều nhứt tâm tuỳ hỉ.

Bồ Tát tuỳ hỉ nầy cũng sẽ thành tựu tất cả công đức như vậy.

Tuỳ hỉ công đức xong rồi, kế nên khuyến thỉnh mười phương thế giới tất cả chư Phật mới thành đạo Vô thượng Bồ đề ấy chuyển pháp luân. Chư Phật Thế Tôn muốn nhập Niết bàn thì thỉnh ở lâu trong đời.

Lại cũng thỉnh tất cả Bồ Tát thánh nhơn thường vì chúng sanh mà trụ thế thuyết pháp.

Những thiện căn như vậy cùng tưởng như thiện căn, tất cả đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát ấy, nói với người chưa phát tâm thì khuyên họ phát tâm. Với người đã phát tâm thì vì họ mà nói các Ba la mật. Với kẻ bần cùng thì dùng tài vật cứu nhiếp họ. Với kẻ bịnh tật thì cho thuốc và tuỳ thời nghi chăm sóc. Với kẻ không thế lực thì khuyên họ nhẫn nhục. Với kẻ phạm cấm giới thì khuyên họ chớ giấu che. Với kẻ đã che giấu tội thì khuyên họ phát lộ. Nơi chư Phật hiện tại và đã Niết bàn đều cung kính cúng dường. Kính trọng bực Sư trưởng coi như Phật Thế Tôn. Lúc có cầu chánh pháp thì dầu mất mạng cũng chẳng biếng nhác. Nơi pháp bửu ấy tưởng như báu vô giá. Nơi người thuyết pháp tưởng như Phật.Vì nghe pháp dầu xa quá trăm do tuần mà tâm lực mạnh mẽ không có ý tưởng mệt nhọc. Khi diễn giảng chánh pháp không vì lợi dưỡng. Với cha mẹ thì biết ơn báo ơn, cúng dường hầu hạ không hề nhàm hối. Các công đức được làm không hề nhàm đủ. Giữ gìn thân khẩu ý không để có siểm khúc. Công đức xây dựng Phật pháp bằng với phước của Phạm Thiên khuyến thỉnh Phật. Tại sao? Vì đầy đủ các thứ tướng tốt mở cửa đại thí vậy, vì được tuỳ hình hảo tu các thiện căn vậy, vì trang nghiêm thân không có kiêu mạn vậy, vì trang nghiêm khẩu không có lỗi nơi miệng vậy, vì trang nghiêm ý không có trụ nơi pháp vậy, vì trang nghiêm Phật độ thần thông giáo hoá vậy, vì trang nghiêm pháp rời lìa các dục vậy, vì trang nghiêm Tăng vì không có lưỡng thiệt ác khẩu phá hoại người vậy, vì thuyết pháp hoan hỷ xưng tán thiện pháp vậy, vì công nghiệp được làm chẳng luống uổng vậy, vì lìa phú cái nên đến nghe pháp vậy, vì trang nghiêm cội Bồ đề nên đem vườn rừng cúng dâng cho Phật vậy, vì trang nghiêm đạo tràng mà thành tựu tất cả thiện căn vậy. Vì xuất sanh thanh tịnh chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô vậy. Được bửu thủ vì có thể xả bỏ tất cả vật được coi trọng vậy. Được vô tận vì đem vô lượng bửu tàng mà bố thí vậy. Người thấy vui mừng vì thường hoà vui vậy. Thể được pháp tánh vì tâm huệ quang minh chiếu khắp chúng sanh vậy. Trang nghiêm quang minh vì chẳng khinh kẻ chưa học mà khéo dìu dắt họ vậy. Đời đời thường thanh tịnh vì trì giới công đức đều thành tựu vậy. Ở trong thai thanh tịnh vì chẳng thấy tội người vậy. Sanh nhơn thiên vì thanh tịnh hành thập thiện vậy. Huệ sáng độc bộ vì người được giáo hoá chẳng sanh phân biệt vậy. Nơi pháp được tự tại vì pháp được mến trọng không lẫn tiếc vậy. Trong thế gian riêng mình thù thắng vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vi diệu giải thoát vì chẳng cầu ít phần pháp hành vậy. Hành tất cả công đức vì chẳng bỏ Nhứt thiết trí tâm vậy. Thất tài đầy đủ vì lấy tính làm căn bổn vậy. Nhiếp thủ chánh pháp vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Chẳng dối phỉnh thế gian vì đủ bổn nguyện vậy. Đầy đủ tất cả Phật pháp vì các thiện căn mỗi mỗi môn đều đã hành cả vậy.

Đây là lược nói Bồ Tát công đức. Nếu nói rộng ra thì dầu trải qua một kiếp hay hơn một kiếp nói cũng chẳng hết được.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát trí huệ vô tận?

Hoặc mỗi mỗi nhơn nghe trí huệ, hoặc mỗi mỗi duyên được trí huệ.

Thế nào là nhơn? Nội tăng thượng dục.

Thế nào là duyên? Ngoại cần cầu pháp.

Nhơn và duyên như vậy y nơi Phật trí huệ, chẳng phải y nơi trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác.

Bồ Tát ấy thân cận trí giả tâm không có kiêu mạn. Ở nơi người lòng tưởng như Phật. Các trí giả ấy biết người học pháp tâm đã hoà nhu nên vì họ nói trí huệ dạy họ y chỉ, tuỳ theo căn chánh khí mà nói pháp vô nhiễm. Người nghe pháp ở trong ấy siêng tu hành tụ tập trợ pháp tinh tiến, đây là trí huệ.

Thế nào là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến?

Bồ Tát không có mong cầu bỏ tuyệt sự vụ bớt ít nói chuyện. Nơi các thứ sở dục tâm thường biết đủ. Đầu hôm cuối đêm bớt ngủ nghỉ. Những pháp nghĩa được nghe hay khéo tư duy suy lường phân biệt, luôn cầu thiện pháp tâm không ái trược, trừ các ấm cái không bị chướng che, những lỗi lầm đã phạm liền hay trừ diệt, chánh hạnh kiên cố xu hướng ngưỡng mộ, tôn kính pháp hành đủ tinh tiến hành, cầu pháp chẳng trể như cứu đầu cháy, hành vô ngã hành chẳng trì hoãn, chẳng bỏ bổn hành, tâm tăng thượng hành, quở chúng ồn náo, thường thích riêng mình hướng a lan nhã để tư duy hành, thánh chủng tri túc hành, bất động đầu đà hành, ưa thích pháp hành, chẳng tư duy thế gian ngôn ngữ hành, cầu xuất thế gian pháp hành, chẳng mất chánh niệm hành, phát xuất các pháp nghĩa hành, chơn chánh đạo hành, biết duyên tổng trì hành, tàm quí trang nghiêm hành, trí huệ vững chắc hành, trừ lưới vô minh kiết trói buộc mắt huệ thanh tịnh hành, khéo giác liễu hành, rộng giác liễu hành, chẳng giảm diệt giác liễu hành, phân tích giác hành, biết hiện tại hành, chẳng theo công đức người khác hành, chẳng tự thị công đức hành, tán thán các công đức người khác hành, khéo tu các nghiệp hành, nhơn quả bất động hạnh biết thanh tịnh nghiệp hành. Đây gọi là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến.

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn thứ thí đầy đủ trí huệ:

Một là đem giấy viết mực cho Pháp sư để biên chép kinh.

Hai là các thứ trang sức trang nghiêm toà ngồi đẹp dâng cho Pháp sư.

Ba là đem các thứ cần dùng cúng dường dâng cho Pháp sư.

Bốn là tâm không có siểm khúc thường tán thán Pháp sư.

Bồ Tát còn có bốn thứ trì cấm giới đầy đủ trí huệ:

Một là trì giới thường diễn thuyết pháp.

Hai là trì giới thường siêng cầu pháp.

Ba là trì giới chánh phân biệt pháp.

Bốn là trì giới hồi hướng Bồ đề.

Bồ Tát còn có bốn thứ nhẫn nhục đầy đủ trí huệ:

Một là lúc cầu pháp nhẫn kia mắng nhiếc.

Hai là lúc cầu pháp chẳng tránh đói khát lạnh nóng gió mưa.

Ba là lúc cầu pháp tuỳ thuận Hoà thượng A xà lê hành.

Bốn là lúc cầu pháp hay nhẫn không, vô tướng và vô nguyện.

Bồ Tát còn có bốn thứ tinh tiến đầy đủ trí huệ:

Một là siêng năng đa văn.

Hai là siêng năng tổng trì.

Ba là siêng năng lạc thuyết.

Bốn là siêng năng chánh hành.

Bồ Tát còn có bốn thứ thiền định đầy đủ trí huệ:

Một là thường thích ở một mình.

Hai là thường thích nhứt tâm.

Ba là cầu thiền và thông.

Bón là cầu trí vô ngại giải.

Bồ Tát còn có bốn thứ trí huệ đầy đủ trí huệ:

Một là chẳng trụ đoạn kiến.

Hai là chẳng trụ thường kiến.

Ba là tỏ mười hai duyên.

Bốn là nhẫn vô ngã hành.

Bồ Tát còn có bốn pháp ủng hộ đầy đủ trí huệ:

Một là ủng hộ Pháp sư như vua chúa mình.

Hai là ủng hộ các thiện căn.

Ba là giúp hộ thế gian.

Bốn là ủng hộ lợi ích người khác.

Bồ Tát còn có bốn pháp mãn túc đầy đủ trí huệ:

Một là thuyết pháp mãn túc.

Hai là trí huệ mãn túc.

Ba là lợi ích mãn túc.

Bốn là các pháp mãn túc.

Bồ Tát còn có bốn lực đầy đủ trí huệ:

Một là tinh tiến lực vì cầu đa văn được giải thoát vậy.

Hai là niệm lực vì tâm Bồ đề chẳng quên mất vậy.

Ba là định lực vì bình đẳng vô sai biệt vậy.

Bốn là huệ lực vì tu đa văn vậy.

Bồ Tát còn có bốn phương tiện đầy đủ trí huệ:

Một là tuỳ thế gian hành.

Hai là tuỳ chúng sanh hành.

Ba là tuỳ chư pháp hành.

Bốn là tuỳ trí huệ hành.

Bồ Tát còn có bốn đạo đầy đủ trí huệ:

Một là các Ba la mật đạo.

Hai là trợ Bồ đề đạo.

Ba là hành bát thánh đạo.

Bốn là cầu Nhứt thiết trí huệ đạo.

Bồ Tát còn có bốn hành không nhàm đầy đủ trí huệ:

Một là thích đa văn không nhàm đủ.

Hai là thích thuyết pháp không có nhàm đủ.

Ba là hành huệ không nhàm.

Bốn là hành trí không nhàm.

Lại trợ trí huệ ấy, là tuỳ tất cả chúng sanh tâm hành, là tuỳ tất cả pháp hành, là tuỳ bố thí hành, là tuỳ trì giới hành, là tuỳ nhẫn nhục hành, là tuỳ tinh tiến hành, là tuỳ thiền định hành, là tuỳ trí huệ hành, là tuỳ từ bi hỉ xả hành được đầy đủ trí huệ. Tại sao vậy? Như chư Bồ Tát chỗ phát khởi hành đều lấy trí huệ làm căn bổn vậy. Trí huệ hành rồi trở lại y chỉ trí. Bồ Tát ấy an trụ nơi trí y chỉ nơi Nhứt thiết trí nên chúng ma và quyến thuộc ma không thể làm hại được, vì vậy mà có thể được Nhứt thiết trí.

Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ niệm xứ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát Tứ niệm xứ vô tận?

Bồ Tát ấy quán thân tu thân hành, thấy các thân quá khứ, vị lai, hiện tại điên đảo hoà hiệp. Như các vật ngoài những tường vách, ngói đá, cỏ cây theo nhơn duyên mà có chẳng thể trưởng dưỡng không có chỗ hệ thuộc.

Thân nầy theo nhơn duyên sanh chẳng thể trưởng dưỡng không có hệ phược cũng như vậy.

Trong ấm giới nhập ấy, ngã và ngã sở rỗng không, thường và vô thường rỗng không.

Thân ấy không có ngã và ngã sở.

Thân ấy chẳng vững bến chẳng thể dựa nhờ.

Nên cầu thân Bồ đề Chánh giác.

Thế nào là thân Bồ đề Chánh giác?

Đó là pháp thân, là thân kim cương, thân chẳng thể hư hoại, là thân vững chắc, là thân ra khỏi tam giới.

Thân nầy của ta dầu có vô lượng tội lỗi nhưng ta nguyện sẽ trừ diệt thành thân Như Lai.

Bồ Tát ấy sở dĩ kiên nhẫn ở lâu nơi thân tứ đại các kiết khổ hoạn là vì lợi ích chúng sanh vậy.

Như sự vật ngoài, những thứ tứ đại địa thuỷ hoả phong các thứ pháp môn, các thứ sở tác, các thứ hình mạo, các thứ khí vật, các thứ sở dụng đều vì lợi ích tất cả chúng sanh.

Nay thân ta vì lợi ích chúng sanh cũng như vậy.

Đại Bồ Tát thấy sự lợi ích lớn như vậy rồi, quán thân các sự khổ não mà chẳng sanh nhàm lìa, quán thân vô thường mà chẳng nhàm sanh tử, quán thân vô ngã mà chẳng bỏ giáo hoá, quán thân tịch diệt mà chẳng theo nơi xả.

Bồ Tát ấy lúc quán nội thân chẳng sanh phiền não, lúc quán ngoài thân cũng chẳng sanh phiền não.

Bồ Tát ấy rời lìa thân nghiệp đen nhơ mà thành thân nghiệp trắng sạch, có đủ diệu tướng để tự trang nghiêm, ở trong nhơn thiên có nhiều lợi ích.

Đây gọi là Bồ Tát quán thân mà tu thân hành.

Thế nào là Bồ Tát quán thọ tu thọ hành?

Bồ Tát tư duy như vầy:

Các thọ tất cả đều khổ, Bồ Tát khéo phân biệt thọ trí huệ suy lường biết thọ tịch diệt.

Lúc thọ lạc chẳng tham sở dục, lúc thọ khổ quán ba ác đạo khởi lòng đại bi chẳng sanh giận hờn, lúc thọ bất khổ bất lạc chẳng khởi ngu si.

Bồ Tát chánh niệm thọ xứ, như chỗ được thọ hoặc vui hoặc khổ hay chẳng vui chẳng khổ, nơi các thọ như vậy biết xuất phát biết tu tập.

Bồ Tát quán chúng sanh thọ tịch diệt trang nghiêm, các chúng sanh ấy ở trong các thọ chẳng biết xuất tu, nên lúc họ thọ lạc sanh lòng tham trước, lúc thọ khổ sanh lòng giận hờn, lúc thọ chẳng vui chẳng khổ sanh lòng ngu si. Nay ta cần phải tiến tu trí huệ trừ tất cả thọ phát các thiện căn, khởi tâm đại bi nhiếp lấy trí huệ, cũng vì chúng sanh trừ dứt các thọ mà vì họ thuyết pháp. Kẻ chưa biết thọ thì thọ khổ, người hiểu được thọ thì thọ vui.

Thế nào là hiểu thọ?

Đó là không có thọ giả, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu.

Diệt trừ kẻ nhiếp thủ thọ, kẻ nhiếp, kẻ thọ lấy, kẻ thọ thọ, kẻ thọ có, kẻ thọ điên đảo, kẻ thọ phân biệt, kẻ thọ các kiến chấp, kẻ thọ tướng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, kẻ thọ tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thọ nhãn duyên sắc sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ nhĩ duyên thanh sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ tỷ duyên hương sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thiệt duyên vị sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thân duyên xúc sanh giác xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ ý duyên pháp sanh xúc thọ khổ thọ lạc bất khổ bất lạc. Đây gọi là thọ.

Còn có một thọ, đó là giác liễu tứ đại.

Còn có hai thọ, đó là nội thọ, ngoại thọ.

Còn có ba thọ, đó là quá khứ, vị lai và hiện tại thọ.

Còn có bốn thọ, đó là giác liễu tứ đại.

Còn có năm thọ, đó là tư duy ngũ ấm.

Còn có sáu thọ, đó là phân biệt lục nhập.

Còn có bảy thọ, đó là thất thức trụ xứ.

Còn có tám thọ, đó là tám tà pháp vậy.

Còn có chín thọ, đó là chín xứ địa của chúng sanh.

Còn có mười thọ, đó là mười bất thiện pháp.

Tóm lại nói thì vô lượng chúng sanh có những tư duy thọ cảnh giới sở duyên tất cả đều gọi là thọ.

Ở trong đó, Bồ Tát tu thọ quán hạnh khởi đại trí huệ, biết các chúng sanh thiện hay bất thiện tướng sanh trụ diệt của họ. Đây gọi là Bồ Tát chánh thọ niệm xứ mà chẳng thể cùng tận.

Thế nào là Bồ Tát quán tâm niệm xứ?

Tâm Bồ đề chẳng quên chẳng mất, chánh niệm chẳng loạn quán tâm như vậy. Tâm sanh rồi diệt không có tướng trụ. Tâm ấy chẳng trụ ở trong cũng chẳng từ ngoài đến.

Lúc ta ban sơ phát tâm Bồ đề ấy, tâm ấy đã tận quá khứ biến khác, nó chẳng đến chỗ nào, không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói. Nếu tâm có tập họp các thiện căn, nó cũng là quá khứ tận diệt biến khác, nó chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Nếu tâm thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng là pháp diệt tận biến khác chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng sanh tâm, ta dùng tâm nào thành Vô thượng Bồ đề. Tâm Bồ đề ấy chẳng cùng tâm thiện căn hiệp. Tâm thiện căn ấy chẳng cùng tâm hồi hướng hiệp. Tâm hồi hướng chẳng cùng tâm Bồ đề hiệp.

Nếu lúc quán tâm như vậy mà Bồ Tát chẳng kinh chẳng bố, đây gọi là Bồ Tát cần tinh tiến vậy.

Bồ Tát lại tư duy quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên chẳng mất nhơn quả. Biết tâm tánh ây thuộc các nhơn duyên, chẳng thể trưởng dưỡng không có tác không hệ thuộc, như tâm tất cả các pháp cũng như vậy, như pháp tu hành như chỗ được trang nghiêm. Nay ta phải chuyên cần tu tập trang nghiêm chẳng lià tâm tánh.

Thế nào là tâm tánh và thế nào là trang nghiêm?

Tâm tánh ấy dường như ảo hoá không có chủ không có tác, không có thi thiết. Trang nghiêm ấy, chỗ làm bố thí đều đem hồi hướng trang nghiêm thanh tịnh Phật độ.

Tâm tánh ấy dường như cảnh được thấy trong mộng, tâm tướng tịch diệt. Trang nghiêm ấy, thanh tịnh trì giới tu tập các thần thông.

Tâm tánh ấy như tượng trong gương, tướng nó thanh tịnh. Trang nghiêm ấy, nhẫn nhục được tu đều hồi hướng Vô sanh pháp nhẫn.

Tâm tánh ấy như dương diệm cứu cánh tịch diệt. Trang nghiêm ấy nơi các thiện pháp thâm phát tinh tiến hồi hướng đầy đủ vô thượng Phật pháp.

Tâm tánh ấy không có sắc, không có đối, không có chỗ tạo tác. Trang nghiêm ấy tất cả chỗ tu thiền định giải thoát tam muội hồi hướng đầy đủ Phật thiền định.

Tâm tánh ấy chẳng thể thấy được cũng chẳng thể lấy được. Trang nghiêm ấy nơi tất cả chỗ gạn hỏi đều khéo phân biệt hồi hướng đầy đủ Phật trí huệ.

Tâm tánh ấy không có duyên thì chẳng sanh. Trang nghiêm ây thường quán thiện căn.

Tâm tánh ấy không có nhơn thì chẳng sanh. Trang nghiêm ấy nhơn trợ Bồ đề mà phát khởi tâm.

Tâm tánh ấy bỏ lìa lục trần thì không chỗ khởi. Trang nghiêm ấy nhập Phật cảnh giới.

Bồ Tát quán tâm hành ây như vậy nhiếp niệm thần thông. Được thần thông rồi có thể biết tất cả chúng sanh các tâm. Đã biết tâm họ rồi tuỳ theo tâm lượng ấy mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát lại quán tâm hành nhiếp niệm đại bi giáo hoá chúng sanh không có nhàm mỏi.

Bồ Tát lại quán tâm hành chẳng khởi tướng tận diệt biến khác, chẳng bỏ sanh tử tương tục phiền não. Chánh niệm tâm ấy biết không có sanh khởi thành chánh quyết định.

Hành giả như vậy chẳng sa vào Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa, tột thế lực tâm ấy dùng nhứt niệm trí thành Vô thượng Bồ đề.

Đây gọi là Bồ Tát chánh tâm niệm xứ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát quán pháp niệm xứ?

Bồ Tát thường dùng huệ nhãn thấy tất cả pháp đến lúc ngồi đạo tràng không có giữa chừng mất.

Đương lúc quán pháp như vậy, Bồ Tát ấy chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế lìa không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô vật, cũng chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế chẳng nhập vào thập nhị duyên.

Bồ Tát quán pháp thấy các phi pháp không gì chẳng phải là pháp.

Thế nào là pháp? Đó là nghĩa vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ mạng, đây gọi là pháp.

Thế nào là phi pháp? Đó là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, đây gọi là phi pháp.

Còn nữa, tất cả là pháp, tất cả là phi pháp. Tại sao vậy?

Quán không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là tất cả pháp là pháp.

Ngã mạn, kiêu mạn ngã và ngã sở nhiếp lấy các kiến, đây gọi là tất cả pháp là phi pháp.

Lúc quán pháp, Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp chẳng phải là nhơn Bồ đề nhơn xuất thế đạo. Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều là xuất thế được vô ngại đại bi.

Bồ Tát ấy quán tất cả pháp phiền não kiết phược như tướng ảo hoá. Biết các pháp ấy chẳng phải có phiền não chẳng phải không phiền não. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát ấy tỏ biết các pháp nghĩa không có hai tánh, các phiền não ấy không có chỗ ẩn tàng không có tụ tập. Nếu hiểu phiền não thì hiểu Bồ đề. Như phiền não tánh tức Bồ đề tánh. Bồ Tát ấy an trụ chánh niệm không có một pháp có thể đem phân biệt được, không có các chướng ngại khéo hay hiểu rõ chánh trụ pháp tánh. Như trụ pháp tánh tức trụ chúng sanh tánh. Như trụ chúng sanh tánh tức trụ hư không tánh. Như trụ hư không tánh tức trụ Nhứt thiết pháp tánh.

Lúc quán pháp, Bồ Tát y cứ Phật pháp hiểu tất cả pháp tức là Phật pháp, tâm Bồ Tát lúc ấy chẳng sanh tận trí vô vi. Dầu tận mà cũng chẳng tận, nhập vào vô sanh trí, cũng quán chúng sanh chẳng bỏ giả danh.

Pháp niệm xứ ấy, an trụ chánh niệm tất cả các pháp, đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chánh giác chỗ biết tất cả giả danh các pháp tận vị lai tế trọn không quên mất.

Pháp niệm xứ ấy, nói vô lượng hành thân cận Phật pháp hoại các ma chúng được tự nhiên trí.

Đây gọi là Bồ Tát chánh pháp niệm xứ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ chánh cần cũng chẳng thể tận. Những gì là bốn?

Nếu là pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn trừ nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp thiện đã sanh vì an trụ tu tập để tăng thêm rộng lớn chẳng mất nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Pháp ác bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến.

Nói dục ấy, là thiện tư duy vậy.

Nói siêng tinh tiến ấy, là chẳng bỏ thiện tư duy vậy.

Nói nhiếp tâm chánh trừ ấy, là quán thiện tư duy vậy.

Tại sao vậy?

Vì lúc thiện tư duy chẳng cho pháp ác bất thiện nhập vào tâm.

Thế nào là pháp ác bất thiện?

Pháp ác bất thiện chẳng phải bè bạn của giới tụ, chẳng phải bè bạn của thiền định, chẳng phải bè bạn của trí huệ.

Thế nào là chẳng phải bạn của giới tụ?

Hoặc phá trọng giới và các giới khác. Đây gọi là chẳng phải bạn của giới tụ.

Thế nào là chẳng phải bạn của thiền định?

Hoặc phá oai nghi và các pháp loạn tâm. Đây là chẳng phải bạn của định tụ.

Thế nào là chẳng phải bạn của huệ tụ?

Hoặc nhiếp lấy các kiến và các kiến chướng ngại khác. Đây là chẳng phải bạn của huệ tụ.

Đây gọi là những pháp ác bất thiện.

Lúc thiện tư duy, các pháp ác bất thiện ấy chẳng cho nhập vào tâm. Đây gọi là Chánh cần thứ nhứt.

Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn dứt nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Như trên đã nói, pháp ác bất thiện tâm chẳng tụ họp không có nơi chỗ không có trụ xứ, pháp ác bất thiện ấy vì tâm hành đoạn dứt vậy, vì tịnh mà sanh dục, vì ngại chướng mà sanh sân, vì vô minh duyên mà sanh ngu si. Thiện tư duy ấy lúc quán bất tịnh diệt tham dục, lúc tu tập từ tâm diệt sân hận, quán thập nhị duyên diệt ngu si. Các phiền não như vậy tịch diệt tức là đoạn trừ tất cả giả danh, lại cũng chẳng thấy có gì để đoạn. Đây gọi là đệ nhị Chánh cần.

Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Các thiện pháp ấy có đến vô lượng. Tại sao?

Vô lượng thiện pháp được Bồ Tát tu tập, trong các thiện pháp ấy thì dục là căn bổn.

Siêng tinh tiến tu tập nhiếp tâm ấy là vượt quá thiện pháp.

Chánh trừ ấy là tại tại xứ xứ thường ở tại thiện pháp. Đây gọi là đệ tam Chánh cần.

Pháp thiện đã sanh an trụ tu tập để tăng quảng chẳng mất nên nhiếp tâm chánh trừ.

Các thiện căn ấy đều đã hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì chẳng thể cùng tận. Tại sao? Vì các thiện căn như vậy chẳng y chỉ tam giới. Nếu y chỉ tam giới thì có tổn hao. Vì thế nên nói hồi hướng Nhứt thiết chủng trí thì các thiện căn như vậy chẳng thể tận. Đây gọi là đệ tứ Chánh cần.

Đây gọi là Bồ Tát tu Tứ chánh cần mà chẳng thể tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ như ý phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là bốn? Đó là dục, tiến, tâm và tư duy.

Bốn pháp như vậy lấy từ bi hỉ xả làm căn bổn.

Bốn tâm vô lượng ấy thường thân cận. Vì thường thân cận nên tâm điều nhu. Vì tâm điều nhu nên được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.

Vì nhập các thiền ấy nên thân được nhẹ nhàng. Thành tựu thân nhẹ tâm nhu như vậy nên nhập như ý phần. Khéo nhập như ý phần rồi liền sanh thần thông.

Hoặc dục, hoặc tiến, hoặc tâm, hoặc tư duy.

Dục ấy là chuyên hướng pháp kia, tiến ấy là thành tựu pháp kia, tâm ấy là quán sát pháp kia, tư duy ấy là phương tiện của pháp kia.

Như ý phần ấy đã được đầy đủ rồi thì có thể được thần thông. Dục ấy là trang nghiêm, tiến ấy là thành tựu, tâm ấy là chánh trụ, tư duy ấy là hay khéo phân biệt.

Bồ Tát ấy được như ý phần theo chỗ hiểu, như chỗ làm, tâm được tự tại, tuỳ ý qua xứ nào khéo làm sự việc rốt ráo thành tựu tất cả bổn hành, như gió thổi hư không chẳng có chướng ngại.

Đây gọi là Bồ Tát Tứ như ý phần chẳng thể cùng tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ căn cũng chẳng thể tận. Những gì là năm?

Tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và huệ căn.

Thế nào là Tín căn?

Tin nơi bốn pháp:

Một là ở trong sanh tử hành thế tục chánh kiến tin nơi nghiệp báo, nhẫn đến mất mạng trọn chẳng làm điều ác.

Hai là tin Bồ Tát hành chẳng theo các kiến, chuyên cầu Vô thượng Bồ đề chẳng cầu thừa khác.

Ba là tin hiểu các pháp đồng với pháp không, vô tướng, vô nguyện, đồng đệ nhứt nghĩa đế, đồng với liễu nghĩa thậm thâm nhơn duyên không có ngã, không có chúng sanh không có phân biệt.

Bốn là tin tất cả chư Phật, Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, tin như vậy rồi tiêu trừ lưới nghi tu tập Phật pháp.

Đây gọi là Bồ Tát Tín căn.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy