× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 14: PHẬT THUYẾT NHẬP THAI TẠNG GIỚI THỨ MƯỜI BỐN 1

Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở thành Ca Tỳ La vườn Đa Căn Thọ chúng Tỳ Kheo vô lượng người câu hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn có em trai tên Nan Đà, thân như màu hoàng kim đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu thấp hơn Phật bốn ngón tay.  Vợ tên Tôn Đà La nghi dung đoan chánh thế gian ít có, đẹp sáng siêu tuyệt người đều thích thấy.  Nan Đà cưng vợ triền miên lưu luyến không tạm xa rời, tình ái nhiễm rất nặng quyết chung sống trọn đời.

Đức Thế Tôn xét biết đến thời kỳ thọ hóa độ, bèn vào lúc sáng sớm đắp y cầm bát đem Trưởng lão A Nan làm thị giả vào thành khất thực, kế đến cổng nhà Nan Đà mà đứng.  Đức Thế Tôn dùng sức đại bi phóng ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp trong nhà Nan Đà đều thành màu hoàng kim cả.

Nan Đà nghĩ rằng ánh sáng bỗng chiếu đến chắc là đức Như lai. Liền sai người hầu ra cổng xem, vội trở vào báo rằng đức Thế Tôn đứng tại cổng nhà.  Nan Đà nghe báo liền muốn ra mau nghinh lễ đức Thế Tôn.

Tôn Đà La tự nghĩ nếu ta để y đi, đức Thế Tôn tất định cho y xuất gia.  Nàng bèn níu áo chồng lại.

Nan Đà bảo vợ nay nên tạm cho ta đi ra lễ đức Thế Tôn rồi ta liền trở vào.

Tôn Đà La nói cùng nhau ước kỳ hẹn tôi mới cho đi.  Nàng lấy phấn ướt đắp lên trán rồi nói với chồng rằng :  Điểm này chưa khô phải trở vào, nếu trễ hẹn phải phạt năm trăm tiền vàng. Nan Đà ưng chịu rồi liền ra ngoài cổng lễ chưn đức Phật, tiếp lấy bát của Như Lai mang vào nhà đựng đầy cơm ngon bưng ra ngoài cổng.

Đức Thế Tôn liền bước đi đồng thời ra dấu cho A Nan chớ có lấy bát ấy.

Đức Như Lai Đại Sư oai nghiêm tôn trọng, Nan Đà chẳng dám kêu đứng lại, bèn trao bát đầy cơm cho A Nan.

Ngài A Nan hỏi : "Vừa rồi anh tiếp lấy bát ở nơi ai ?".

Nan Đà nói : "Ở nơi đức Phật".

Ngài A Nan nói : "Như vậy nên trao cho đức Phật".

Nan Đà chẳng dám gọi đức Phật chỉ lặng lẽ đi theo sau.

Về đến tinh xá ở vườn Đa Căn Thọ, đức Thế Tôn rửa tay chưn rồi đến ghế mà ngồi. Nan Đà dâng bát cơm. Đức Thế Tôn ăn xong bảo Nan Đà rằng : "Em xuất gia được chăng ?".  Vì đức Thế Tôn thuở xưa lúc tu Bồ Tát đạo, đối với cha mẹ sư trưởng và chư tôn túc chưa hề trái lời dạy bảo, nên lời dạy của Phật không ai trái lại. Do đó mà Nan Đà nghe đức Phật bảo xuất gia liền đáp rằng : "Xuất gia được".

Đức Thế Tôn liền sai Ngài A Nan cạo râu tóc Nan Đà.

Ngài A Nan vâng lịnh đức Phật tìm người đến cạo.

Nan Đà nói với người ấy rằng : "Ngươi biết chăng, không bao lâu ta sẽ làm Chuyển Luân Vương, nếu ngươi cạo tóc ta, ta sẽ chặt cánh tay ngươi".

Người ấy sợ hãi gói dao lại muốn từ đi về .

Ngài A Nan vội bạch đức Phật. Đức Phật đến hỏi Nan Đà : "Em chẳng xuất gia ư ?".

Do oai của đức Phật, Nan Đà thưa : "Xin xuất gia".

Đức Thế Tôn cầm bình nước rưới lên đầu Nan Đà, tịnh nhơn liền cạo.

Nan Đà nghĩ rằng nay phải kính phụng đức Thế Tôn, ban ngày tạm xuất gia, chờ tối sẽ về nhà.  Đến chiều tối, Nan Đà theo đường cũ đi về nhà. Đức Thế Tôn hóa hố lớn ngay giữa đường. Nan Đà thấy hố ấy tự nghĩ rằng :  Bây giờ không làm sao đi về nhà được, đành phải xa Tôn Đà La.  Đêm nay nhớ tưởng nàng có thể chết được. Nếu còn sống, sáng mai sẽ về.  Vì nhớ Tôn Đà La nên Nan Đà sầu khổ suốt đêm.

Biết ý nghĩ của Nan Đà, đức Phật bảo Ngài A Nan đến cho Nan Đà hay là đức Phật sai Nan Đà làm tri sự nhơn.

Ngài A Nan tuân hành lời đức Phật.

Nan Đà hỏi A Nan : "Sao gọi là tri sự nhơn và phải làm gì ?"

Ngài A Nan nói : "Phải kiểm điểm các việc trong chùa".

Nan Đà hỏi : "Phải làm những sự gì ?".

Ngài A Nan nói : "Nầy Cụ thọ !  Phàm người tri sự, lúc chư Tỳ Kheo đi khất thực phải rưới quét trong chùa, lấy phân trâu mới thứ đệ tô cho sạch, phải để ý canh phòng chớ cho thất lạc, có việc phải phán quyết thì đem bạch chư Tăng.  Nếu có hương hoa thì đem trao cho chúng.  Đêm đến thì đóng cổng đóng cửa đến sáng mới mở.  Chỗ đi đại tiểu phải thường rửa lau.  Trong chùa nếu có chỗ nào hư thì phải tu bổ".

Nghe xong Nan Đà nói :"Thưa Đại Đức ! Như lời đức Phật sai bảo, tôi xin vâng làm".

Sáng ngày đến giờ tiểu thực, chư Tỳ Kheo chấp trì y bát vào thành Ca Tỳ La khất thực.

Nan Đà thấy chùa vắng người liền nghĩ rằng ta quét chùa xong sẽ trở về nhà.  Do thần lực của Phật, chỗ Nan Đà quét sạch hiện ra phân dơ.  Thấy vậy Nan Đà bỏ chổi hốt sạch phân, nhưng phân vẫn còn không hốt hết được.  Nan Đà nghĩ rằng :  Thôi mặc, đóng cửa chùa rồi về.  Cũng do thần lực của đức Phật, đóng cửa phòng này xong qua đóng cửa phòng kia thì phòng này cửa lại tự nhiên mở trống.

Nan Đà lo rầu nghĩ rằng nếu có kẻ trộm xâm phạm thì có hại gì.

 Ta sẽ làm vua lại xây trăm ngàn ngôi chùa lớn tốt hơn đây.  Ta nên về nhà.  Sợ đi đường lớn gặp Phật nên Nan Đà theo đường nhỏ mà đi.  Đức Phật biết bèn từ đường nhỏ ngược chiều đi lại. Từ xa Nan Đà thấy Phật, chẳng muốn gặp Phật, liền ẩn mình trong tàng cây rậm bên đường.  Thần lực của Phật làm cho các nhánh cây đều cất cao lên lộ Nan Đà ra.

Đức Phật hỏi Nan Đà : "Em từ đâu đến đây nên theo ta".

Nan Đà hổ thẹn cúi đầu đi theo Phật.

Đức Phật biết Nan Đà quá luyến ái vợ, muốn dẫn tiếp Nan Đà khiến xả ly nên đức Phật ra khỏi thành Ca Tỳ La đến Thất La Phiệt ở tại vườn Lộc Từ Mẫu của bà Tỳ Xá Khư.

Đức Phật thầm nghĩ Nan Đà ngu si nhiễm hoặc mãi nhớ vợ chẳng bỏ tình ái, nên làm phương tiện cho thôi dứt.

Đức Phật bảo Nan Đà rằng : "Từ trước em có thấy núi Hương Túy chưa ?".  Nan Đà thưa chưa từng thấy.

Đức Phật nói : "Nếu như vậy em nên nắm chéo y ta".

Nan Đà tuân lời nắm chéo y của đức Phật.

Lúc ấy đức Thế Tôn dường như Nga Vương bay lên hư không đến núi Hương Túy dắt Nan Đà xem ngó hai bên.  Dưới cây có trái kia thấy một con khỉ cái mù một mắt đang ngửa mặt nhìn sững đức Như Lai.

Đức Phật bảo Nan Đà rằng con khỉ cái này sánh với Tôn Đà La thi ai đẹp ?

 Nan Đà thưa : "Tôn Đà La con giòng Thích Ca đẹp như thiên nữ nghi dung đệ nhứt trong đời không có hai người.  Khỉ cái này đem sánh với nàng thì ngàn muôn ức phần chẳng bằng một".

Đức Phật hỏi : "Em có thấy thiên cung chưa ?".

Nan Đà thưa rằng chưa thấy.

Đức Phật lại bảo Nan Đà nắm chéo y rồi như Nga Vương bay lên hư không đến trời Đao Lợi, khiến Nan Đà nhìn ngắm cảnh thù thắng ở cõi trời.  Nan Đà tuân lời đến vườn hoan hỉ, vườn thể thân, vườn thô thân, vườn giao hiệp, cây viên sanh, tòa Thiện Pháp Đường, các thắng cảnh cõi trời như vậy, nào cung điện vườn tược, nào hoa quả ao tắm, những chỗ dạo chơi vui vẻ thù thắng đều quan sát hết.

Kế đến Nan Đà vào trong thành Thiện Kiến, lại thấy các thứ âm nhạc âm thanh vi diệu, nhà cửa cao rộng màn che trướng phủ, nơi nào cũng có các thiên nữ cùng nhau vui đùa.  Nan Đà xem khắp mọi cung, thấy có một cung điện chỉ có thiên nữ mà không có thiên tử, bèn hỏi thiên nừ rằng : "Tại sao mọi cung đều có thiên tử thiên nữ ở chung cùng nhau vui thú, mà cung này chỉ có toàn thiên nữ ?".

Thiên nữ đáp : "Đức Thế Tôn có người em trai tên Nan Đà theo Phật xuất gia tu phạm hạnh mạng chung sẽ sanh nơi đây, chúng tôi chờ ông ấy".

Nan Đà nghe nói vui mừng hớn hở vội trở lại chỗ đức Phật.

Thấy Nan Đà, đức Phật hỏi em có thấy cảnh thắng diệu ở cõi trời chăng ? Nan Đà thưa đã thấy, rồi thuật lại mọi sự đã được thấy.

Đức Phật hỏi có thấy thiên nữ chăng ?

Nan Đà thưa : "Đã thấy".

Đức Phật hỏi : "Các thiên nữ ấy sánh với Tôn Đà La thì ai đẹp ?".

Nan Đà thưa : "Đem Tôn Đà La so với các tiên nữ ấy thì cũng như đem con khỉ cái chột mắt ở núi Hương Túy sánh với Tôn Đà La, trăm ngàn muôn lần chẳng bằng một".

Đức Phật bảo Nan Đà rằng : "Người tu phạm hạnh có thắng lợi ấy, nay em nên gắng tu phạm hạnh sẽ được sanh cõi trời hưởng khoái lạc này".

Nan Đà nghe đức Phật nói lòng vui mừng đứng yên.

Bấy giờ đức Thế Tôn cùng Nan Đà rời cõi trời Đao Lợi trở lại rừng Thệ Đa. Từ ngày ấy vì ái mộ thiên cung mà Nan Đà chuyên tu phạm hạnh.

Đức Phật biết tâm niệm của Nan Đà nên sai Ngài A Nan đi truyền lịnh đức Phật cho các Tỳ Kheo không người nào cùng Nan Đà ngồi chung chỗ, kinh hành đồng chỗ, để y một sào, để bát một chỗ, để bình một chỗ, chẳng được đồng một chỗ với Nan Đà mà đọc tụng kinh điển.

A Nan truyền lịnh đức Phật, các Tỳ Kheo đều tuân hành.

Nan Đà thấy mọi người xa lánh mình thì rất hổ thẹn.  Lúc sau, Ngài A Nan cùng các Tỳ Kheo ở trong nhà thị giả vá y phục.  Nan Đà nghĩ rằng các Tỳ Kheo đều rời bỏ tôi chẳng ở đồng một chỗ. Còn A Nan nầy là em trai tôi há lại lánh tôi.

Nghĩ vậy Nan Đà liền đi vào nhà ngồi bên A Nan.

Lúc ấy A Nan vội đứng dậy tránh ra. Nan Đà nói : "Nầy A Nan ! Các Tỳ Kheo khác bỏ tôi đã đành.  Còn A Nan là em trai tôi sao nỡ ghét lánh tôi".

Ngài A Nan đáp : "Thiệt có lý ấy, nhưng anh tu đạo riêng, còn tôi theo đường khác, vì vậy mà phải tránh nhau".

Ngài Nan Đà hỏi : "Thế nào là đạo anh đường em ?".

Ngài A Nan đáp : "Anh thích sanh cõi trời mà tu phạm hạnh, tôi cầu Niết Bàn mà trừ dục nhiễm vậy".

Ngài Nan Đà nghe lời ấy càng thêm lo buồn.

Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Nan Đà nên đến hỏi :"Em đã thấy địa ngục chưa ?".

Ngài Nan Đà thưa : "Chưa thấy".

Đức Phật bảo Ngài Nan Đà nắm chéo áo y của Phật rồi đem Nan Đà vào trong địa ngục.  Đức Phật đứng qua một bên bảo Ngài Nan Đà đi xem các nơi trong địa ngục.  Ngài Nan Đà liền đi, trước hết thấy sông tro, kế đến rừng gươm, sông phẩn. Vào trong quan sát thấy các chúng sanh thọ nhiều sự khổ :  hoặc bị kềm rút lưỡi, bẻ răng, móc mắt, hoặc bị cưa sẻ đôi thân thể, hoặc bị búa chặt rời tay chưn, hoặc bị mâu xuyên qua thân, hoặc roi đánh, xóc đâm, hoặc bị chùy sắt đập nát, hoặc bị rót nước đồng vào miệng, hoặc bị ném lên cây gươm núi dao, hoặc bị chày giã đá xay, hoặc ôm cột đồng nằm giường sắt cháy đỏ, lại thấy vạc sắt đốt lửa lớn dầu nước sôi trào nấu các hữu tình, lại thấy một vạc dầu nước sôi sục mà không có ai bị nấu trong ấy.

Ngài Nan Đà hỏi duyên cớ. Ngục tốt giải đáp rằng : "Em trai đức Phật là Nan Đà chỉ nguyện muốn sanh thiên mà tu phạm hạnh, rồi đây ông sẽ được sanh cõi trời tạm hưởng khoái lạc, khi thân trời mạng chung sẽ phải vào vạc dầu sôi này, nên tôi chụm lửa chờ ông ấy".

Nghe ngục tốt nói, Ngài Nan Đà rất kinh sợ rởn ốc dựng lông mồ hôi lạnh tuôn ra, tự nghĩ rằng nếu nó biết mình là Nan Đà có thể nó sẽ lấy chĩa xom mình bỏ vào vạc để nấu. Ngài Nan Đà vội vã chạy gấp về chỗ đức Phật.

Đức Phật hỏi : "Em đã thấy địa ngục chăng".

Ngài Nan Đà buồn khóc rơi nước mắt nghẹn ngào nói nhỏ thưa rằng : "Tôi đã được thấy".

Đức Phật hỏi : "Em đã thấy những gì ?".

Ngài Nan Đà đem tất cả những sự đã thấy thuật trình đức Phật.

Đức Phật phán : "Nếu nguyện nhơn gian, hoặc cầu thiên thượng thì có những lỗi lầm như vậy. Nay em phải cầu Niết bàn mà tu phạm hạnh, chớ thích cõi trời mà gây sự khổ về sau.".

Ngài Nan Đà nghe đức Phật dạy như vậy, trong lòng rất hổ thẹn cúi đầu nín lặng.

Đức Thế Tôn liền dắt Ngài Nan Đà cùng ra khỏi địa ngục về đến rừng Thệ Đa bảo Ngài Nan Đà và chư Tỳ Kheo rằng : "Trong tâm có ba thứ cấu dơ là dâm dục, giận thù và ngu si rất đáng được vứt bỏ, phải nên xa rời, các ông phải tu học".

Đức Thế Tôn ở rừng Thệ Đa không bao lâu, vì muốn tùy duyên giáo hóa chúng sanh nên cùng đồ chúng qua nước Chiêm Ba ở bên ao Yết Già.

Ngài Nan Đà cùng năm trăm Tỳ Kheo cũng đi theo đức Phật.  Các Ngài đến chỗ đức Phật đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi qua một phía.

Đức Phật thấy đại chúng ngồi xong bảo ngài Nan Đà rằng : "Phật có pháp yếu sơ trung hậu đều thiện, văn nghĩa khéo hay thuần nhứt viên mãn phạm hạnh thanh bạch.  Đó là kinh Nhập Mẫu Thai.  Ông phải lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ, nay Phật sẽ vì ông mà nói kinh ấy".

Ngài Nan Đà thưa : "Vâng, bạch đức Thế Tôn.  Xin muốn được nghe".

Đức Phật nói :"Dầu có thai mẹ mà có nhập và chẳng nhập.  Thế nào là thọ sanh nhập vào trong thai mẹ ?

Nếu cha mẹ nhiễm tâm cùng làm dâm ái, bụng mẹ sạch sẽ, nguyệt kỳ điều hòa đến thời kỳ và trung ấm hiện tiền, như vậy thì nhập thai mẹ.

Trung ấm ấy có hai thứ hình :  một là dung sắc xinh đẹp, hai là dung mạo xấu xí.

Trung ấm địa ngục có dung mạo như cây gỗ cháy trụi.  Trung ấm bàng sanh có màu như khói.  Trung ấm ngạ quỉ có màu như nước.  Trung ấm trời hay người có màu như hoàng kim.  Trung ấm cõi sắc thì hình sắc trắng láng.  Trời vô sắc không có thân trung ấm vì không có sắc thân vậy.

Trung ấm của hữu tình hoặc có hai tay hai chưn, hoặc nhiều chưn bốn chưn không chưn, tùy theo nghiệp ngày trước đáng phải thác sanh chỗ nào thì cảm thân trung ấm như thân hình ấy.

Nếu là trung ấm trời thì đầu hướng lên trên, trung ấm người bàng sanh và quỉ thì đi ngang, trung ấm địa ngục thì đầu trút xuống.

Phàm thân trung ấm thì đều có thần thông đi trong hư không, như thiên nhãn ở xa thấy chỗ thọ sanh.

Nói nguyệt kỳ đến thời kỳ là nói thời kỳ nạp thai.

Nầy Nan Đà !  Hoặc có nữ nhơn trải qua ba ngày, hoặc năm ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc có chờ duyên trải qua lâu nguyệt kỳ mới đến.  Nếu có nữ nhơn thân không oai thế thọ nhiều tân khổ hình dung xấu xí không ăn uống tốt, nguyệt kỳ dầu đến mà mau dứt ; dường như đất khô khi rước nước dễ khô.  Nếu có nữ nhơn thân có oai thế thường thọ an lạc nghi dung đoan chánh được ăn uống tốt, có nguyệt kỳ đến chẳng mau dứt, dường như đất nhuần khi rưới nước thì khó khô.

Thế nào là chẳng nhập thai mẹ ?

Lúc cha xuất tinh thì mẹ chẳng xuất, lúc mẹ xuất tinh thì cha chẳng xuất, hoặc đều chẳng xuất, đều chẳng thọ thai.

Nếu mẹ bất tịnh mà cha tịnh, hoặc cha bất tịnh mà mẹ tịnh, hoặc đều bất tịnh cũng đều chẳng thọ thai.

Nếu chỗ âm của mẹ có bịnh phong, bịnh hoàng, bịnh đàm, hoặc có huyết khí thai kiết, hoặc bị thịt tăng, hoặc bị uống thuốc, hoặc bị bịnh lúa mạch, bịnh eo lưng kiến, hoặc sản môn như miệng lạc đà, hoặc trong ấy như cây nhiều rễ, như đầu cầy , như càng xe, như dây leo, như lá cây, như tua lúa mạch, hoặc bụng dưới sâu, hoặc trên sâu, hoặc chẳng phải đồ thọ thai, hoặc máu thường xuất, hoặc thường chảy nước, hoặc như mỏ quạ, hoặc mở mà chẳng hiệp, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp chẳng đồng, hoặc cao hạ lõm lồi, hoặc bên trong có trùng ăn thúi hư bất tịnh.  Nếu mẹ có những lỗi ấy thì chẳng thọ thai.   

Hoặc cha mẹ tôn quí mà trung ấm ti tiện, hoặc trung ấm tôn quí mà cha mẹ ti tiện cũng chẳng thành thai.   

Nếu cha mẹ và trung ấm đều tôn quí mà nghiệp chẳng hòa hiệp cũng chẳng thành thai .  

Nếu ở nơi cảnh trước mà trung ấm không có nam nữ hai thứ ái niệm cũng chẳng thọ thai.  

Nầy Nan Đà !   Thế nào là trung ấm được vào thai mẹ ? 

Nếu bụng mẹ tịnh, trung ấm hiện tiền  thấy làm việc dục, không có những lỗi như trên, cha mẹ và con có nghiệp tương cảm mới nhập vào thai mẹ. 

Lại lúc trung ấm sắp nhập thai tâm liền điên đảo .  Nếu là nam thì với mẹ sanh yêu với cha sanh ghét.  Nếu là nữ thì cha sanh yêu với mẹ sanh ghét.  Đời quá khứ vì tạo các nghiệp mà sanh vọng tưởng có tâm niệm hiểu sai lầm, tưởng lạnh rét, tưởng gió lớn mưa lớn mây mù; hoặc nghe tiếng đông người ồn ào, tưởng như vậy rồi tùy theo nghiệp đời trước ưu hay liệt mà sanh mười thứ vọng tưởng:  Nay tôi vào nhà, tôi muốn lên lầu, tôi lên đài điện, tôi lên giường ghế, tôi vào nhà cỏ, tôi vào nhà lá, tôi vào lùm cỏ, tôi vào trong rừng, tôi vào lỗ vách, tôi vào trong rào.   

Nầy Nan Đà!  Lúc trung ấm niệm tưởng như vậy liền nhập thai mẹ.   Phải biết tối sơ thọ sanh gọi là yết la lam, là tinh cha huyết mẹ chớ chẳng phải vật khác.  Do tinh huyết cha mẹ hòa hiệp làm chỗ sở duyên của thức nương ở nơi đó.  Ví như chất lạc bình dùi nhơn công động chuyển mãi thì có chất tô suất sanh, khác đây thì chất tô chẳng sanh.  Phải biết cha mẹ tinh huyết bất tịnh và thân yết la lam cũng như vậy. 

Lại nầy Nan Đà!  Có bốn thí dụ, ông nên lắng nghe:  

Như nương cỏ xanh mà trùng sanh ra.  Cỏ chẳng phải trùng, trùng chẳng rời cỏ, nương nơi cỏ nhơn duyên hòa hiệp thì trùng sanh thân nó màu xanh như màu cỏ.  Cha mẹ tinh huyết và thân yết la lam nhơn duyên hòa hiệp có đại chủng căn sanh cũng như vậy. 

Như nương phân bò mà sanh trùng.  Phân chẳng phải trùng, trùng chẳng rời phân, nương phân nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu xanh.  Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhơn duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.  

Như nương táo sanh trùng, táo chẳng phải trùng, trùng chẳng rời táo, nương nơi táo nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu đỏ.  Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhơn duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.  

Như nương chất lạc sanh trùng, lạc chẳng phải trùng, trùng chẳng rời lạc, nương chất lạc nhơn duyên hòa hiệp mà trùng được sanh thân nó màu trắng.  Tinh cha huyết mẹ thân yết la lam cũng như vậy, nhơn duyên hòa hiệp thì đại chủng căn sanh.  

Lại nầy Nan Đà!  Nương cha mẹ bất tịnh và yết la lam nên địa giới hiện tiền tánh cứng rắn, thủy giới hiện tiền ướt nhuần, hỏa giới hiện tiền tánh ấm nóng, phong giới hiện tiền tánh nhẹ động.  

Nầy Nan Đà!  Nếu cha mẹ bất tịnh và thân yết la lam chỉ có địa giới mà không thủy giới thì khô khốc mà phân tán như tay bóc bột tro khô vậy.  Nếu chỉ có thủy giới mà không có địa giới thì lỏng chảy như dầu như giọt nước.   Do thủy giới nên địa giới chẳng tan, do địa giới mà thủy giới chẳng chảy.

Nầy Nan Đà!  Thân yết la lam có địa thủy hai giới mà không hỏa giới thì thúi rã như ngày mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm mát.

 

Nầy Nan Đà!  Thân yết la lam có địa thủy hỏa giới mà không phong giới thì chẳng tăng trưởng quảng đại.   

Đây đều do nghiệp quá khứ làm nhơn, lại làm duyên lẫn nhau cùng chiêu cảm nhau mà thức được sanh, địa giới hay trì, thủy giới hay nhiếp, hỏa giới hay chín, phong giới hay lớn.  Như có người thợ bánh và học trò trộn nấu đường cát rồi dùng miệng thổi cho nó lớn rộng thêm mà bên trong thì rỗng trống như củ sen.  Trong thân bốn đại chủng địa thủy hỏa phong, do nghiệp lực tăng trưởng cũng như vậy. 

Nầy Nan Đà!  Cha mẹ bất tịnh có thân yết la lam, thân ấy chẳng phải bụng mẹ, chẳng phải là nghiệp, chẳng phải nhơn chẳng phải duyên, do các thứ ấy hòa hội mới có thai.   

Như hột giống mới chẳng bị gió nắng làm tổn hư, chắc thiệt không lỗ cất chứa đúng cách, đem gieo vào ruộng tốt nhuần ướt.  Do nhơn duyên hòa hiệp như vậy mà rễ mầm cọng nhánh lá bông trái thứ đệ sanh trưởng.  

Nầy Nan Đà!  Hột giống ấy chẳng phải rời lìa các duyên hòa hiệp mà mầm cây v.v... được sanh.  

Do đó mà biết rằng chẳng phải chỉ có cha mẹ, chẳng phải chỉ có nghiệp và các duyên khác mà thai được sanh, cần phải do tinh huyết của cha mẹ, nghiệp và các duyên hòa hiệp mới có thai vậy. 

Nầy Nan Đà!  Như người sáng mắt vì cầu lửa nên đem nhựt quang châu để trong ánh nắng rồi đặt phân bò khô lên mới có lửa phát sanh.   Nương đủ các duyên hòa hiệp mới có thai sanh cũng như vậy.   

Cha mẹ bất tịnh thành yết la lam gọi đó là sắc thọ tưởng hành thức cũng gọi là danh sắc.  Khối uẩn danh sắc ấy đáng chán ghét, thác sanh các loài nhẫn đến chút phần sát na, Phật chẳng tán thán.  Tại sao?  Vì sanh vào các loài là rất khổ, ví như phẩn dơ, chút phần cũng hôi, sanh vào các loài chút phần cũng khổ.  Năm thủ uẩn sắc thọ tưởng hành thức ấy đều có sanh trụ tăng trưởng và suy hoại.  Sanh tức là khổ, trụ tức là bịnh, tăng trưởng suy hoại tức là lão tử.   

Vì lẽ ấy người trí đâu nên ở nơi biển sanh tử mà mến ưa nằm trong thai mẹ thọ khổ lớn ấy. 

Lại nầy Nan Đà!   Phàm nhập thai cứ đại số mà nói thì có ba mươi tám thất nhựt. 

Thất nhựt thứ nhứt, thai ở bụng mẹ như ở trong nồi, thân căn ý căn đồng ở một chỗ, hơi nóng đốt nấu rất đau khổ tên là yết la lam trạng như nước cháo hay nước lạc.  Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung, bốn đại chủng mới phát hiện. 

Thất nhựt thứ hai thai ở bụng mẹ có gió khởi lên tên là biến xúc do nghiệp trước phát sanh thổi chạm thai ấy tên là án bộ đà trạng như lạc đặc như tô đọng.  Trong bảy ngày hơi nóng bên trong nấu nung bốn đại chủng phát hiện.    

Thất nhựt thứ ba thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là đao sao thổi chạm thai ấy tên là bế thi trạng như chiếc đũa hay con trùng, trong bảy ngày bốn đại chủng phát hiện. 

Thất nhựt thứ tư thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là nội khai thổi chạm thai ấy tên là kiện nam trạng như vỏ hài hay ôn thạch, trong bảy ngày bốn đại chủng phát hiện.  

Thất nhựt thứ năm thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là nhiếp trì thổi chạm thai ấy có năm tướng hiện đó là hai cánh hai đùi và đầu.  Như mùa xuân mưa xuống rừng cây rậm rợp nhánh lá tăng trưởng, năm tướng nơi thai tăng trưởng cũng như vậy.   

Thất nhựt thứ sáu thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là quảng đại thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai chỏ hai gối. 

Thất nhựt thứ bảy thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là triền chuyển thổi chạm thai ấy có bốn tướng hiện đó là hai tay hai chưn. 

Thất nhựt thứ tám thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là phiên chuyển thổi chạm thai ấy có hai mươi tướng hiện đó là tay chưn đều mười ngón.  

Thất nhựt thứ chín thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là phân tán thổi chạm thai ấy có chín tướng hiện đó là hai mắt hai tai hai mũi miệng và hai lỗ dưới. 

Thất nhựt thứ mười thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là kiên ngạnh làm cho thai cứng chắc.   Lại có gió nghiệp tên là phổ môn làm cho thai phồng lên như trái nổi. 

Thất nhựt thứ mười một thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là sơ thông làm cho thai thông suốt chín lỗ hiện ra.  Lúc mẹ đi đứng ngồi nằm làm việc gió ấy xoay chuyển hư thông lần lần khiến chín lỗ lớn ra. 

Thất nhựt thứ mười hai thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên khúc khẩu thổi hai bên thai làm đại trường và tiểu trường.  Lại có gió nghiệp tên là xuyên phát lai cho thai sanh ra một trăm chỗ cấm. 

Thất nhựt thứ mười ba thai ở bụng mẹ do sức gió trước nên biết đói khát, lúc mẹ uống ăn có chất bổ dưỡng từ rốn vào để nuôi thân thai. 

Thất thứ mười bốn thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là tuyến khẩu làm cho thai sanh một ngàn lóng :  thân trước sau tả hữu đều sanh hai trăm năm mươi lóng . 

Thất thứ mười lăm thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là liên hoa làm cho thai sanh hai mươi mạch hấp rút chất bổ dưỡng :  thân trước sau tả hữu đều có năm mạch nhiều thứ tên nhiều màu sắc, hoặc tên bạn tên lực tên thế, màu thì xanh vàng đỏ trắng, màu đậu, màu dầu, màu tô, màu lạc và nhiều màu khác, tướng nó hòa nhã. Hai mươi mạch ấy, mỗi mạch đều riêng có bốn mươi mạch làm quyến thuộc hiệp lại có tám trăm mạch hấp rút hơi :  thân trước sau tả hữu đều riêng có hai trăm.  Tám trăm mạch ấy, mỗi mạch còn có một trăm đường mạch quyến thuộc liền nhau hiệp có tám vạn : thân trước sau tả hữu đều có hai vạn.  Tám vạn mạch ấy còn có nhiều lỗ, hoặc một lỗ, hoặc hai lỗ nhẫn đến bảy lỗ, mỗi lỗ liền với lỗ lông.  Như rễ sen có nhiều lỗ thông nhau. 

Thất nhựt thứ mười sáu thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là cam lộ hành có thể làm phương tiện an trí nơi chỗ cho hai mắt, hai tai, mũi miệng cổ họng, ngực hông, chỗ chứa đựng đồ ăn uống, hay làm cho hơi thở ra vào thông suốt. 

Thất nhựt thứ mười bảy thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là lông phất khẩu hay làm cho mắt tai mũi miệng v. v... nhuần ướt . 

Thất nhựt thứ mười tám thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là vô cấu làm cho sáu căn thanh tịnh. 

Thất nhựt thứ mười chín thai ở bụng mẹ thành tựu bốn căn nhãn nhĩ tỷ và thiệt cộng với ba căn lúc tối sơ nhập thai là thân căn mạng căn và ý căn. 

Thất nhựt thứ hai mươi thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là kiên cố làm cho thân thai, chưn tả sanh hai mươi lóng xương ngón chưn, chưn hữu sanh hai mươi lóng xương ngón chưn, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo có ba, sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn.  Tay tả sanh hai mươi xương ngón, tay hữu sanh hai mươi xương ngón, cánh có bốn, bắp có hai, ngực có bảy, vai có bảy, cổ có bốn, hàm có hai, răng có ba mươi hai, sọ đầu có bốn.  Trong đây trừ xương nhỏ thì xương lớn có hai trăm. 

Thất nhựt thứ hai mươi mốt thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là sanh khởi hay làm cho trên thân thai sanh thịt. 

Thất nhựt thứ hai mươi hai thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là phù lưu hay làm cho thân thai sanh huyết. 

Thất nhựt thứ hai mươi ba thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là tịnh trì hay làm cho thân thai sanh da.

 Thất nhựt thứ hai mươi bốn thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là tư mạn hay làm cho da sáng bóng. 

Thất nhựt thứ hai mươi lăm thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là trì thành hay làm cho máu thịt tư nhuận. 

Thất nhựt thứ hai mươi sáu thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là sanh thành hay sanh tóc lông móng cùng các mạch liền nhau. 

Thất nhựt thứ hai mươi bảy thai ở bụng mẹ có gió tên là khúc thược hay làm cho tóc lông móng đều thành tựu. 

Nầy Nan Đà !  Nếu đứa con đời trước tạo nhiều ác tham gian bỏn xẻn bất hiếu bất hòa, nay sanh nhơn gian được quả báo chẳng vừa ý.  Nếu đời cho cao là đẹp thì thân nó lùn, nếu cho thấp là đẹp thì thân nó cao, thô tế ít nhiều gầy mập cận ly khiếp dũng trắng đen v. v... đều ngược sở hảo của người đời. Lại còn do nghiệp ác nó cảm lấy ác báo như đui điếc câm ngọng ngu đần xấu xí, giọng nói người ghét, tay chưn cong què, hình như ngạ quỉ thân thuộc còn ghét chẳng muốn nhìn huống là người khác, ba nghiệp đối với người nói điều gì, người chẳng tin nhận chẳng để ý. Tại sao ?  Vì đời trước nó tạo nghiệp ác nên nay được báo ác như vậy.

Nầy Nan Đà !  Nếu đứa con ấy đời trước tạo nghiệp phước bố thí chẳng tham gian cứu giúp người nghèo thiếu làm nhiều nghiệp lành hiếu thảo thuận hòa, thì nay cảm báo lành sanh trong nhơn gian được quả báo vừa ý, cao thấp thô tế nhiều ít mập gầy dũng khiếp v.v... điều hiệp sở thích người đời, sáu căn tròn đủ đoan chính đẹp xinh, giọng nói người ưa, ba nghiệp trình bày người đều tin nhận kính nhớ để lòng. Tại sao ?  Do đời trước nó tạo nghiệp lành nên được báo tốt như vậy. 

Nầy Nan Đà ! Nếu thai là nam, ở bên hông hữu của mẹ ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng sống lưng mẹ mà ở yên.  Nếu thai là nữ, ở bên hông tả ngồi bẹp hai tay bụm mặt hướng bụng mẹ mà ở yên. Nó ngồi dưới sanh tạng trên thục tạng, vật sống đè xuống, vật chín đâm lên, như trói năm chỗ cắm tại đầu cây nhọn.  Lúc mẹ ăn nhiều hay ăn ít đều bị đau khổ, hoặc ăn quá lỏng, quá khô, quá lạnh, quá nóng, quá mặn, quá đắng, quá cay, quá chua, quá ngọt đứa con đều đau khổ cả.  Hoặc mẹ hành dục, hoặc đi gấp chạy mau, ngồi lâu nằm lâu, hay nhảy nhót thảy đều bị khổ.

Nầy Nan Đà !  Phải biết lúc ở thai mẹ có nhiều thứ khổ đau bức bách đức con chẳng thể kể hết.  Ở trong loài người còn khổ đến thế huống là các ác đạo, ai là người có trí mà lại ưa thích lấy thân tai ách trong biển khổ sanh tử. 

Thất nhựt thứ hai mươi tám thai ở bụng mẹ, đứa con ấy vọng sanh tám thứ tưởng điên đảo :  tưởng là ở nhà, là ngồi xe, là vườn, là lầu, là gác, là rừng cây, là giường ghế, là sông ao, mà thiệt không các thứ ấy chỉ hư vọng phân biệt. 

Thất nhựt thứ hai mươi chín thai ở bụng mẹ có gió nghiệp tên là hoa điều hay làm thân đức con láng trắng sạch sẽ, hoặc do nghiệp lực khiến màu đen thâm, hay xanh, hay các màu khác, hay khô khốc không tươi nhuần, ánh sáng trắng ánh sáng đen đều theo màu sắc mà phát ra. 

Thất nhựt thứ ba mươi thai ở bụng mẹ có gió tên thiết khẩu làm cho tóc lông móng được sanh trưởng và nhuần sáng. 

Thất nhựt thứ ba mươi mốt đến thất nhựt thứ ba mươi bốn thai ở bụng mẹ tăng trưởng quảng đại. 

Thất nhựt thứ ba mươi lăm thai ở bụng mẹ chi thể đầy đủ. 

Thất nhựt thứ ba mươi sáu và ba mươi bảy thai ấy chẳng thích ở bụng mẹ. 

Thất nhựt thứ ba mươi bảy thai ấy sanh ba ý tưởng chẳng điên đảo.  Đó là ý tưởng bất tịnh, hôi dơ và tối tăm. 

Thất nhựt thứ ba mươi tám, thai ở bụng mẹ có gió tên là lam hoa hay làm cho thai hướng xuống giăng dài hai tay xu hướng cửa đẻ. Kế có gió tên xu hạ thổi khiến thai trút đầu xuống hai chân đưa lên sắp ra cửa đẻ. 

Nầy Nan Đà !  Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo những nghiệp ác và làm trụy thai người, do đó nên nay thai ấy tay chưn ngang lọan chẳng lay chuyển được bèn chết trong bụng mẹ.  Người mẹ nhơn đó mà chịu vô lượng thống khổ hoặc cũng phải chết. 

Nầy Nan Đà !  Nếu đứa con ấy, đời trước nó tạo phước đầu chuyển mình chẳng tổn hại mẹ an ổn ra ngoài không các tai ách, lúc đẻ cũng khiến người mẹ rất đau khổ gần chết thai mới sanh ra được.  Các ông nên quan sát kỹ mà cầu xuất ly. 

Lại nầy Nan Đà ! Nay ông đã biết ở thai khổ, lúc sanh khổ.  Ông nên biết phàm người thọ sanh rất khổ não. 

Lúc sơ sanh hoặc nam hay nữ rơi vào tay người, hoặc trên khăn, chiếu v.v... hoặc trong nắng hay chỗ râm, hoặc trên xe, hoặc nơi giường, trong lòng người, tất cả chỗ đều chịu sự đau đớn, khổ sở.  Như bò bị lột da đứng dựa vách bị kiến bu, hoặc dựa cây bị sâu cắn, dầu đứng chỗ trống bị nắng gió cũng rất đau khổ.  Trẻ sơ sanh cũng vậy lúc tắm nước nóng chịu khổ rất là bức thiết. 

Sau khi được sanh, trẻ ấy uống sữa của mẹ mà lớn.

Nầy Nan Đà !  Đã có nhiều thứ khổ không gì đáng ưa, đâu có người trí mà lại ái luyến sanh tử. 

Sanh bảy ngày rồi, trong thân ấy có tám vạn hộ trùng ngang dọc  ăn nuốt. 

Có một hộ trùng tên thực phát nương tóc ăn tóc. 

Có hai hộ trùng tên phục tàng và thô đầu nương đầu ăn đầu. 

Có một hộ trùng tên nhiễu nhãn nương mắt ăn mắt. 

Có bốn hộ trùng tên khu trục, bôn tẩu, ốc trạch và viên mãn nương óc ăn óc. 

Có một hộ trùng tên đạo diệp nương tai ăn tai. 

Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi. 

Có hai hộ trùng tên dao trịch và biến trịch nương môi ăn môi. 

Có một hộ trùng tên mật diệp nương răng ăn răng. 

Có một hộ trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi. 

Có một hộ trùng tên lợi khẩu nương cuống lười ăn cuống lưỡi. 

Có một hộ trùng tên thủ viên nương nướu ăn nướu. 

Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán khuất nương bàn tay ăn bàn tay. 

Có hai hộ trùng tên đoản huyền và trương huyền nương bắp tay ăn bắp tay. 

Có hai hộ trùng tên cận tý và viễn tý nương cánh tay ăn cánh tay. 

Có hai hộ trùng tên dục thôn và dĩ thôn nương yết hầu ăn yết hầu. 

Có hai hộ trùng tên hữu oán và đại oán nương ngực ăn ngực. 

Có hai hộ trùng tên loa bối và loa khẩu nương thịt ăn thịt. 

Có hai hộ trùng tên hữu sắc và hữu lực nương máu và ăn máu. 

Có hai hộ trùng tên dũng kiện và hương khẩu nương gân ăn gân. 

Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ khẩu nương xương sống ăn xương sống. 

Có hai hộ trùng đồng tên chỉ sắc nương mỡ ăn mỡ. 

Có một hộ trùng tên hoàng sắc nương hoàng ăn hoàng. 

Có một hộ trùng tên chơn châu nương thận ăn thận. 

Có một hộ trùng tên đại chơn châu nương eo lưng ăn eo lưng. 

Có một hộ trùng tên vị chí nương lá lách ăn lá lách. 

Có bốn hộ trùng tên thủy mạng, đại thủy mạng, châm khẩu và đao khẩu nương ruột ăn ruột. 

Có năm hộ trùng tên nguyệt mãn, nguyệt diện, huy diệụ huy diện và biệt trụ nương hông bên hữu ăn hông bên hữu. 

Có năm hộ trùng đồng tên trên nương hông bên tả ăn hông bên tả. 

Có bốn hộ trùng tên xuyên tiền, xuyên hậu, xuyên kiên và xuyên trụ nương xương ăn xương. 

Có bốn hộ trùng tên đại bạch, tiểu bạch, trùng vân và xú khí nương mạch ăn mạch. 

Có bốn hộ trùng tên sư tử, bị lực, cấp tiển và liên hoa nương sanh tạng ăn sanh tạng .

 Có hai hộ trùng tên an chí và cận chí nương thục tạng ăn thục tạng. 

Có bốn hộ trùng tên diêm khẩu, uẩn khẩu, võng khẩu và tước khẩu nương đường tiểu ăn nước tiểu. 

Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, tiểu hình, và tiểu thúc nương đường đại ăn phẩn. 

Có hai hộ trùng tên hắc khẩu và đại khẩu nương vế ăn vế. 

Có hai hộ trùng tên lại và tiểu lại nương gối ăn gối. 

Có một hộ trùng tên ngu căn nương bắp chơn ăn bắp chưn. 

Có một hộ trùng tên hắc hạng nương bàn chưn ăn bàn chưn. 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy