× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 7: Phẩm Thi Ba La Mật Thứ Bảy 2

Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :

“Bồ Tát ngồi tòa cao

Ðược chư Thiên lễ kính

Chiêm ngưỡng tôn nhan Ngài

Sẽ giảng diệu pháp gì

Chư Thiên đều cung kính

Bực trí huệ vô tham

Ở cung điện vui đẹp

Ðế Thích đến thỉnh pháp

Trên trới mạng hết rồi

Sanh vào trong loài người

Là vua Chuyển Luân Thánh

Oai lực lớn không tham

Lúc mạng người hết rồi

Trở lại sanh cõi trời

Không bao giờ bị khổ

Do thờ cúng Pháp Sư

Luôn được nhiều bốn thứ

Pháp xứ rộng thù thắng

Do không lòng hạ liệt

Cung kính Thầy thuyết pháp

Nếu lòng kính thờ Thầy

Cúng dâng đồ đựng nước

Thì Trời , Rồng và Người

Ðều nên gâén cúng dường.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên ở cõi trời lại được bốn pháp :

Một là biết rõ những nghiệp đã tạo ở đời trước.

Hai là biết rõ nhơn nghiệp lành ấy được sanh cõi trời , cũng biết rõ thối thất pháp lành.

Ba là biết rõ từ đây mạng chung đến sanh chỗ nào.

Bốn là vì chư Thiên mà giảng diệu pháp dạy bảo cho họ vui mừng , đã lợi ích chư Thiên rồi bèn bỏ thân trời.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mậy , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành nên lại được bốn pháp viên mãn thù thắng :

Một là khi bỏ thân trời , đại Bồ Tát sanh trong loài người được sanh chung với giới.

Hai là ở trong người được năm pháp sanh thành tựu thù thắng : Ðó là được sanh vào nhà thù thắng , được sắc thân thắng diệu , được quyến thuô(c thù thắng , được giới thanh tịnh thù thắng và đối với chúng sanh được tu đức từ thù thắng.

Ba là ở trong người lại được năm pháp thành tựu bất hoại : Ðó là được thiện tri thức không ai phá hoại được , thân mạng không yểu thọ, của cải đã được không bị mất , được tâm Bồ đề không hề hư hoại và lúc thiếu pháp lành thì tự được đầy đủ.

Bốn là ở trong người lại được năm pháp hi hữu viên mãn . Ðó là trong nhà để những chậu thùng không, tùy tay Bồ Tát rờ đến chỗ nào , thì chỗ ấy đều đầy châu báu , đây là pháp hi hữ thứ nhứt. Lúc Bồ Tát khát thì trước mặt tự nhiên có nước đủ tám đức hiện ra, đây là pháp hi hữu thứ hai . Do phước đức giữ gìn thân thể nên chẳng bị ngoại vật làm tổn hại , như độc , như dao, hoặc lửa hoặc nước , hoặc á quỷ đều chẳng làm tổn hại được. Ðây là pháp hi hữu thứ ba. Những thời kỳ mà địa cầu bị nhựng tai kiếp như là cơ cẩn tai, tật dịch tai, đao binh tai, hỏa tai, thủy tai , phong tai, khát kiếp , hỏa quang kiếp , dạ xoa kiếp , đại Bồ Tát ấy chẳng sanh trong người mà ở cung trời vui sướng , đây là pháp hi hữu thứ tư . Ðại BồTát ấy vĩnh viễn chẳng sanh vào các chỗ nạn hoặc các ác đạo, nếu có tâm niệm sai lầm thì liền tự giác ngộ mau dứt lìa , đây là pháp hi hữu viên mãn thứ năm.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên thường chẳng rời xa bốn pháp vi diệu :

Một là khi thấy có chúng sanh khổ thì tự nhiên được tâm đại từ.

Hai là quyến thuộc của Bồ Tát đều kính thuận đối với Bồ Tát.

Ba là đại Bồ Tát có thể chế phục sự suy già không để nó xâm tổn.

Bốn là làm ăn sanh lợi thì được lợi gấp trăm gấp ngàn.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên chẳng bị ba thứ nó cướp đoạt :

Một là chẳng bị tham dục cướp đoạt.

Hai là chẳng bị sân khuể cướp đoạt.

Ba là chẳng bị ngu si cướp đoạt.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn pháp không bịnh :

Một là chẳng bị bịnh dây dưa lâu ngày làm khổ.

Hai là thân thể nhuần sáng chẳng hề gầy ốm tiều tụy.

Ba là đồ dùng sanh sống chẳng tổn giảm.

Bốn là chẳng bị quan pháp cướp trộm kẻ ác và chúng sanh khác não hại.

Lại nầy Xá Lơị Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn tướng tôn quí :

Một là làm Chuyển Luân Vương oai đức khắp bốn châu cai trị đúng pháp , đủ bảy thứ báu là xe báu , voi báu , ngựa báu, ngọc nữ báu , châu ma ni báu , chủ tạng thần báu và chủ binh thần báu. Có đủ ngàn con trai, thân hình đoan nghiêm oai thế hùng mạnh hàng phục oán địch. Chuyển Luân Vương nầy được bốn đại châu khâm phục ,lại được tất cả nhơn dân các quan và chư tiểu quốc vương đồng tôn kính tuân lịnh. Ðây là tướng tôn quí thứ nhứt.

Hai là đối với ngũ dục như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng , mũi ngửi mùi , lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, Bồ Tát chẳng hề tham mê nhiễm đắm , do lòng tin thanh tịnh xuất gia tu hành mau được ngũ thông , người và quỉ thần cung kính . Ðây là tướng tôn quí thứ hai.

Ba là đại Bồ Tát sanh tại xứ nào tự nhiên thường được tối thượng giác, tối thượng huệ, tối thượng biện , được các quốc vương tôn kính thỉnh lên ngự tọa như thuở quá khứ ông Ðại Ô Mạt Ðồ được vua kính trọng, lại được các quan chức và nhân dân đồng tôn ngưỡng. Ðây là tướng tôn quý thứ ba.

Bốn là đại Bồ Tát ấy tỏ ngộ Vô thượng Bồ đề rồi thì oai đức thù thắng viên mãn đệ nhứt được Thiên , Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà , A Tu La , Câu Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , Nhơn , Phi Nhơn, tất cả chúng sanh đồng quy kính.Tại sao ? Vì Bồ Tá nầy thành tựu phẩm giới, định, huệ , giải thoát , giải thoát tri kiến vậy. Ðây là tướng tôn quí thứ tư.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , do đại Bồ Tát ấy dùng lòng tin thanh tịnh đem bình đựng nước dâng cho Hoà Thượng và A Xà Lê hai Tôn Sư nên được vô lượng vô biên công đức diệu pháp như vậy. Vì cầu pháp mà Bồ Tát đi đứng luôn tùy thuận nơi Thầy , chẳng trái lời dạy. Do Thiện căn ấy nên lại được bốn thứ của cải tối thắng :

Một là được của cải vua chúa dùng.

Hai là sanh chỗ nào đều thọ pháp ly dục được tiên tài tín tâm xuất gia gọi là thánh tài.

Ba là sanh chỗ nào đều được trí nhớ đời trước gọi là được niệm tài .Do niệm tài ấy nên đời đời chẳng quên mất tâm Bồ đề.

Bốn là đại Bồ Tát chứng Vô thượng Bồ đề rồi gọi đó là Bồ đề tài thường được tứ chúng và Thiên Long Bát Bộ cung kính vây quanh.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát nhẫn đến thọ rtì bốn câu kệ nơi thuyết pháp sư, đến đi đều tùy thuận lời dạy của Thầy , như là thiện bất thiện, hữu tội vô tội, nên to chẳng nên tu. Hoặc là Thầy dạy rằng làm việc ấy sẽ mãi mãi bị các báo khổ não vô nghĩa vô lợi , làm việc ấy sẽ mãi mãi được báo an vui có nghĩa có lợi. Bồ Tát ấy thuâ(n lời Thầy dạy chẳng làm điều bất thiện mà tu tập pháp lành. Do thiện căn ấy lại được bốn pháp cao thắng :

Một là được đầy đủ Thi la cao thắng.

Hai là cảm được thân thể viên mãn tất cả thân phần.

Ba là được đại huệ, dũng huệ, cao huệ, quảng huệ, tiệp huệ, lợi huệ , tốc huệ, thâm huệ, quyết trạch huệ.

Bốn là khi lâm chung sanh lên cõi trời.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn nên lại được bốn pháp không thể thấy được.

Một là sanh chỗ nào đều cảm được tướng ẩn mật âm tàng.

Hai là từ lúc sơ sanh, hoặc cha mẹ quyến thuộc, hoặc Thiên , Long Bát Bộ , Nhơn, Phi Nhơn và tất cả chúng sanh không ai thấy được đỉnh đầu của Bồ Tát.

Ba là từ lúc sơ sanh, hoặc cha mẹ quyến thuộc , hoặc Thiên , Long đến tất cả chúng sanh , hoặc tịnh tâm , hoặc nhiễm tâm , không ai có thể sửa soạn nhìn ngắm gương mặt của Bồ Tát. Nếu có ai khởi tâm nghĩ rằng tôi sẽ nhìn xem gương mặt của Bồ Tát , thì bóng mặt Ngài liền hiện ra nơi hau chưn Ngài .Tại sao ? Do đại Bồ Tát thành tựu pháp hi kỳ như vậy gọi là thiện trượng phu, lại thành tựu từ biện đệ nhứt tối thắng trượng phu.

Bốn là lúc sơ sanh không ai đỡ dắt , tự đứng nơi đất nhìn khắp bốn phương , liền được trí huệ minh lợi. Tại sao ? Do đại Bồ Tát ấy nơi đời quá khứ dùng tâm không dua dối mà cầu nghe pháp . Ðại Bồ Tát nầy lại được đôi mắt không dua tà nên thành thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn người, có thể xem thấy tất cả chúng sanh trong cõi Ðại Thiên. Ðại Bồ Tát nầy lại được trí tốc tật quảng đại có thể biết rõ hết tâm niệm quá hiện vị lai của tất cả chúng sanh .Tại sao ? Vì thuở xưa lúc cầu pháp , đại Bồ Tát chú ý nhiếp tâm cần cầu cung kính, đối với chánh pháp tưởng là lương dược, là trân bảo , là khó gặp , là diệu thiện , được nghe rồi liến thọ trì. Do đó Bồ Tát lại được trí thiệp tật giản trạch hay cân lường tất cả chánh giới của các chúng sanh nhẫn đến chánh văn, , chánh định, chánh huệ , chánh giải thoát , chánh giải thoát tri kiến.

Lại cân lường đồng tánh Thi La của tâ&t cả chúng sanh nhẫn đến đồng tánh chánh văn, định huệ, giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường giới đẳng lưu của tất cả chúng sanh nhẫn đến đẳng lưu chánh văn, định ,huệ, giải thoát giải thoát tri kiến.Lại hay cân lường tướng đẳng lưu siêu thắng Thi la của tất cả chúng sanh nhẫn đến tướng đẳng lưu siêu thắng chánh văn, định ,huệ, giải thoát giải thoát tri kiến .Lại hay cân lường tướng tiến chỉ oai nghi dũng mãnh tu hành chánh hạnh của tất cả chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất ! Ðại Bồ Tát lần lượt cân lường suy xét các công đức của tất cả chúng sanh rồi nghĩ rằng tất cả chúng sanh ấy chỗ có chánh giới , chánh văn , chánh định, chánh huệ, chánh giải thoát, chánh giải thoát tri kiến, chỗ có giới đồng tánh đến giải thoát tri kiến đồng tánh , chỗ có giới đẳng lưu đến giải thoát tri kiến đảng lưu, chỗ có tướng giới đẳng lưu siêu thắng đến tướng giải thoát tri kiến đẳng lưu siêu thắng, chỗ có tướng tiến chỉ oai nghi tu hành chánh hạnh dũng mãnh. Những tướng như vậy đều là công đức của chúng sanh có.Nay ta quan sát cân lường trong ấy chẳng thấy có công đức nào bằng công đức của ta , căn bổn vững chắc của tất cả chúng sanh đem so sánh đều không bằng ta cả.

Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc sơ sanh trong khoảng sát na đại Bồ Tát mau phát khởi diệu trí biết rõ nghiệp báo. Do trí ấy trong khoảng thời gian đàn chỉ khéo biết rõ bao nhiêu thứ tâm tướng của tất cả chúng sanh rồi đem cân lường so sánh đều chẳng thấy có bằng với ta. Do đó đại Bồ Tát biết đúng rằng nay đây ta một mình ở ngôi tôn quí tối thượng , như sư tử chúa ở bực vô úy , như đại long vương có oai đức lớn, chưn Bồ Tát chẳng chạm đất bốn phương đều đi bảy bước mà tuyên xướng lên rằng ở thế gian ta là tối tôn đại , ở thế gian ta là tối thù thắng ,nay ta sẽ chứng mé sanh lão tử, ta sẽ độ tất cả chúng sanh khỏi sanh gìa bịnh chết lo buồn khổ não , ta sẽ vì chúng sanh mà tuyên nói chánh pháp vi diệu quảng đại tối thắng Vô thượng.

Nầy Xá lợi Phất! Lúc đại Bồ tát phát ngữ như vậy , âm tha nh liền nối không hở cáo tri khắp cả cõi Ðại Thiên .Chúng sanh trong ấy nghe âm thanh ấy xong đều kinh sợ rởn lông, thiên cổ nổi vang, toàn thế giới đều chấn động. Chỉ có chỗ Bồ Tát đứng chừng bằng bánh xe là an tĩnh, nguồn nước ngay dưới chỗ đất ấy cũng bất động .

Ðại Bồ Tát ấy quan sát thân mình thấy có vô lượng tia sáng bao trùm .Sau khi chứng Vô thượng Bồ đề rồi, được vô lượng chúng sanh đồng chiêm ngưỡng . Ðây gọi là pháp không ai nhìn thấy được thứ tư.

Nầy xá Lợi Phất ! Ðây gọi là đại Bồ Tát được bốn pháp không ai nhìn thấy được. Ðó là do thuở quá khứ đại Bồ Tát đối với thuyết pháp sư luôn kính thuâ(n cúng dường .

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các căn lành ấy nên lại được bốn pháp tấn tốc :

Lúc thành Phật , đại Bồ Tát đầy đủ chánh pháp của chư Phật Như Lai đã nói không giảm thiếu và pháp được nói không hư thiết. Ðây là pháp tấn tốc thứ nhứt.

Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy thành tựu đầy đủ những mạng lịnh của chư Phật Như Lai. Như Bảo Tỳ Kheo đến đây ! Chúng sanh được bảo liền tiến đến chỗ Phật , tóc họ tự rụng , thân mặc ca sa , tay cầm bát đa la. Ðây là pháp tấn tốc thứ hai.

Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí khéo biết tâm quá vị hiện tại của tất cả chúng sanh như chư Phật Như Lai. Ðây là pháp tấn tốc thứ ba.

Lúc thành Phật , đại Bồ Tát ấy đầy đủ trí biết bịnh cho thuốc đối với tất cả chúng sanh như chư Phật Như Lai. Ðây là pháp tấn tốc thứ tư.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được bốn pháp chẳng bị làm hại : đó là lửa , dao, độc dược và vật khác không bao giờ làm tổn hại được .Tại sao ? Vì thân Như Lai không sở y, không sở thọ vậy.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được bốn pháp không ai hơn :

Một là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể ở trước Như Lai mà nói được rằng ta là Như Lai nói pháp chưa từng nghe nhẫn đến một câu.

Hai là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể ở trước Như Lai mà lập luận được đúng pháp đến một câu.

Ba là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể tìm được ở Như Lai một chút tâm bất định .Tại sao ? Vì chư Phâ(t Như Lai luôn an trụ trong từ bi hỉ xả các đại định.

Bốn là vì Phật không sở y không sở thọ nên chẳng có chúng sanh nào có thể thấy rõ được các sắc tướng trên thân của Như Lai.

Lại nầy Xá Lợi phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát do thành tựu các thiện căn ấy nên khi thành Phật lại được đầy đủ năm pháp vô lượng :

Một là chư Phật Như Lai Thi la vô lượng.

Hai là chư Phật Như Lai chánh văn vô lượng.

Ba là chư Phật Như Lai chánh định vô lượng.

Bốn là chư Phật Như Lai chánh huệ vô lượng.

Năm là chư Phật Như Lai giải thoát tri kiến vô lượng.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Chư Phật Như Lai đầy đủ Thi la Ba la mật rồi , do thành tựu các thiện căn ấy nên được bốn trí vô chướng vô ngại :

Một là trí biết đời quá khứ vô chướng vô ngại.

Hai là trí biết đời vị lai vô chướng vô ngại.

Ba là trí biết đời hiện tại vô chướng vô ngại .

Bốn là do tâm bình đẳng nên biết tánh ba đời bình đẳng.

Lại nầy Xá lợi Phất ! Chư Phật Như Lai thành tựu chánh trí .Do chánh trí ấy nên chẳng nương gá gì khác mà đều biết rõ tất cả các pháp.

Chư Phật Như Lai lại thành tựu trí bất tư nghị. Do trí ấy mà biết rõ tướng mưa gió.

Nầy Xá Lợi Phất ! Như Lai biết rõ thế gian có gió lớn tên ô lô bác ca , cho đến bao nhiêu sự giác thọ của chúng sanh đều do gió ấy daođộng. Lượng của ngọn gió ấy cao ba câu lô xá . Không gian trên ngọn gió ấy lại có ngọn gió tên vân phong, lượng cao năm câu lô xá. Không gian trên ngọn gió vân phong lại có ngọn gió cao mười do tuần tên chiêm bạc cao.Không gian phía trên lại có ngọn gió lượng cao ba mươi do tuâén tên phệ sách phược ca. Không gian phiá trên lại có ngọng gió lượng cao bốn mươi do tuần tên thứ lai.

Nầy Xá Lợi Phất ! Cứ như vậy tuần tự lên trên có sáu muôn tám ngàn tướng phong luân, do đại huệ đức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác đều biết rõ cả.

Nầy Xá Lợi Phất ! Ngọn gió trên cùng tên châu biến thượng giới là nơi y chỉ của thủy luân. Thuỷ luân ấy lượng cao sáu trăm tám mươi vạn do tuần , là chỗ y chỉ của đại địa trên ấy. Ðại địa ấy lượng cao sáu vạn tám ngàn do tuần. Mặt ngoài đại địa ấy có mô(t Tam thiên Ðại thiên thế giới.Trong ấy có Phật hiệu Hoằng Uẩn Như Lai đầy đủ mười hiệu đang hiện tại giáo hóa. Phật Hoằng Uẩn thọ ba mươi câu chi tuổi , có ba mươi câu chi na do tha Thanh Văn đệ tử đều là bực đại A La Hán và trăm câu chi đại Bồ Tát.

Nầy Xá Lợi Phất ! Sau khi ta nhập Niết bàn đủ một ngàn năm, đức Phật Hoằng Uẩn mới nhập diệt, chánh pháp trụ thế đầy một ngàn năm, Xá lợi lưu bố lợi ích thế gian như la vậy.

Nầy Xá Lợi Phất ! Trí vô chướng ngại của Như Lai lại biết rõ quá trên thế giới của Phật Hoằng Uẩn vô lượng vô biên tướng phong luân và các Phật độ.

Nầy Xá Lợi Phất ! Quá trên nữa lại có thế giới khác hiện không có Phật xuất thế mà có trăm ngàn vị Ðộc Giác ở , chúng sanh nơi ấy gieo trồng căn lành từ chư vị Ðộc Giác ấy.

Nâéy Xá Lợi Phất ! Nương trí vô chướng ngại ấy , đức Như Lai lại biết rõ trên thế giới ấy có hằng hà sa chư Phật xuất thế hiện đang độ chúng sanh .

Mười phương vô lượng vô số bất khả tư nghị bất khả xưng lượng chư Phật Như Lai xuất thế hiện đang độ chúng sanh như vậy, đức Như Lai dùng diệu trí vô chướng ngại đều biết rõ cả. Cũng biết rõ tất cả những thế giới ấy hoặc thành hoặc hoại ».

Ðức Thế Tôn nói lời trên đây rồi , Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng đức Như Lai thành tựu những thiện căn gì mà được trí vô chướng vô ngại vô lượng bất tư nghị ấy ?

Ðức Phật phán : « Nầy Xá Lợi Phất ! Do đức Như Lai an trụ Thi la Ba la mật ,có trí huệ đối với chánh pháp phát khởi ý tưởng cung kính tôn trọng , tưởng là thuốc hay, là trân bửu , là khó gặp , là thiện căn, lại có thể an trụ nơi ý tưởng nhiếp chánh pháp. Do đó mà Như Lai được trí lớn lẹ sáng như vậy và còn có thể biết rõ vô lượng vô số quá hơn trên nữa.

Nầy Xá Lợi Phất ! Trí vô đoạn của chư Phật Như Lai vô lượng vô số bất khả tư nghị , bất khả xung lượng, bất khả thuyết tướng vãng lai.

Nầy Xá lợi Phất ! Chư Phật Như Lai đầy đủ Thi la Ba la mật lại được sức tự tại , trong khoảng thời gian đàn chỉ , Như Lai qua đến hằng sa thế giới chư Phật rồi trở lại bổn xứ.

Nầy Xá Lợi Phất ! Như Lai đối với chánh pháp Thi la Ba la mật do tín giải thanh tịnh mà lắng nghe thọ trì nên được mau chóng giải thoát. Do giải thoát ấy mà ta khéo giải thoát . Ở trong pháp gì mà được khéo giải thoát ? Ðó là nơi tất cả sự khô » mà khéo được giải thoát .

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có đại Bồ Tát ở nơi bốn thứ cung kính ấy , nghe pháp ấy rồi được lòng tin thanh tịnh vì thật hành Thi La Ba la mật mà phát tâm như vâéy : Ta an trụ như vậy , ta an trụ nơi ấy .Do ta thường an trụ như vậy nên ta thường chẳng rời chánh pháp chư Phật.

Nầy Xá Lợi Phất ! Ðại Bồ Tát thọ trì chương cú pháp môn của kinh nầy , do sức thiện căn như vậy nên lại được bốn thứ pháp do huệ mà thành tựu :

Một là do đủ huệ mà hay phát khởi đại huệ.

Hai là do đủ huệ nên gặp chư Phật gần giũ kính thờ.

Ba là do đủ huệ nên có lòng tin thanh tịnh xuất gia vào đạo.

Bốn là do đủ huệ nên mau chứng Vô thượng Bồ đề.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , do thành tựu sức thiện căn ấy nên đại Bồ Tát lại được bốn thứ pháp làm nên nhiều :

Một là được thọ thân người gọi là pháp làm nên nhiều .

Hai là gặp Phật xuất thế gọi là pháp làm nên nhiều.

Ba là dùng lòng tin thanh tịnh xuất gia nhập đạo gọi là pháp làm nên nhiều.

Bốn là mau chứng Vô thượng Bồ đề gọi là pháp làm nên nhiều.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ tát do thành tựu sức thiện căn ấy nên lại được bốn thứ pháp chi phần :

Một là được chi chuyê »n luân , tức là làm Chuyển Luân Vương trong loài người.

Hai là sanh trời Phạm Thiên làm Ðại Phạm Vương.

Ba là ở trong chúng chư Thiên mà làm Thiên Ðế.

Bốn là chứng Vô thượng Bồ đề rồi đủ tất cả pháp hiệu là Pháo Vương giáo hóa thế gian.

Ðức Như Lai lại được các năng lực cát tường , trí thanh tịnh chúng sanh , cảnh giới thần thông , làm mắt sáng cho Trời , Người tất cả thế gian ».

Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :

« Ðấng mắt sáng cứu đời

Bực tối thượng tất cả

Giỏi hiểu phương chữa trị

Nên chứng quả tịch diệt

Qua lại theo lời Thầy

Cảm báo lành như vậy

Chưa từng bị khổ não

Và các nghiệp bất thiện

Mau sanh lên cõi trời

Mau trở lại loài người

Mau gặp Phật xuất thế

Mau rời xa các nạn

Giàu to của cải nhiều

Mắt thấy các kho kín

Tay rờ đến chỗ nào

Tự nhiên đầy của báu

Hóa hiện ao hồ đẹp

Thường đầy nuớc tám đức

Là quả lành tự tại

Chưa từng bị ưu não

Tay chưn chẳng què vá

Không có tướng xấu xí

Thân thể chẳng khô héo

Cũng chẳng có giảm thiếu

Chẳng gù chẳng thiếu mắt

Ngón tay chẳng thiếu thừa

Ðầu khác đỉnh đầu voi

Là quả lành tự tại

Dung mạo đều tròn đầy

Chất nặng như khối vàng

Ðoan ngiêm người thích ngắm

Da thứa đều sáng bóng

Chư Thiên , Long, Quỉ, Thần

Và mọi người trong đời

Cung kính đồng cúng dường

Là diệu đức tự tại

Rời xa các ác đạo

Ðến cõi trời cõi người

Mau ngộ đại Bồ đề

Là quà lành tự tại

So sanh đã biết rõ

Tâm tất cả chúng sanh

Bốn phương đi bảy bước

Tiếng tốt cáo thế giới

Người ấy trí tối thượng

Người ấy huệ tối thượng

Giải thoát cũng tối thượng

Tối thượng trong chúng sanh

Huệ khiếi huệ thanh tịnh

Huệ nương trí gầy dựng

Huệ trí cùng giải thoát

Ðều chứng y chư Phật

Tự tánh sanh do huệ

Thấy biết thì do trí

Nếu có đủ trí huệ

Cầu chi đều toại nguyện

Nghĩa thậm thâm như vậy

Phật vì ông nói lượt

Người thiểu dục vô huệ

Ðâu thọ được nghĩa nầy

Họ bị si làm si

Các ác bức ngặt họ

Phát khởi lòng giận hờn

Chẳng kính trọng chánh pháp

Nếu chúng sanh thiểu dục

Với chánh pháp như vậy

Chẳng có lòng kính trọng

Lại phát khởi việc khác

Chúng sanh chẳng kính pháp

Hờn ghét và mê chấp

Lòng họ thưởng ô nhiễm

Chẳng nên đem dạy họ

Các người đến ngày già

Suy yếu bịnh trầm trọng

Ðến giờ họ lâm chung

Luống nói trụ thân sau

Các người đến ngày già

Suy yếu bịnh trầm trọng

Vọng hưởng phần ứng cúng

Mau đọa vào địa ngục

Còn khó được đủ giới

Huống quả A La Hán

Người tin xây miễu thờ

Do đó lại bị đọa.

Laại nâéy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la Mật , đại Bồ Tát siêng tu hành giới hạnh như vậy.Vì cầu Bồ T᧠tạng nên đại Bồ Tát đem thân thờ các bực thầy chánh hạnh, do đó được công đức như trên đã nói , lại còn được công đức bội hơn trước vô số lượng vô biên bất khả tư nghị.Phải biết đại Bồ Tát an trụ tạng Bồ Tát như vậy khéo thật hành tự tại các Bồ Tát hạnh giới thanh tịnh vi diệu.

Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào gọi là giới thanh tịnh vi diệu ?

Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thật hành Thi la Ba la mật nên đại Bồ Tát được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :

Một là đối với chúng sanh không bao giờ làm tổn hại.

Hai là đối với tài vật của kẻ khác chẳng bao giờ cướp trộm.

Ba là đối với thê thiếp của người chẳng bao giờ nhiễm ô.

Bốn là đối với tất cả chúng sanh chẳng bao giờ khi dối.

Năm là với quyến thuộc thì hòa hiệp chẳng bao giờ trái rời.

Sáu là đối với chúng sanh chẳng bao giờ nói thô cộc , vì hay nhịn chịu ác ngôn của họ.

Bảy là xa rời ỷ ngữ , vì lời nói ra đều đã suy gẫm kỹ.

Tám là xa rời tham lam, vì đối với sự thọ dụng của người không có ngã sở.

Chín là xa rời giận hờn , vì hay nhịn chịu lời thô việc nhục.

Mười là xa rời tà kiến , vì chẳng tôn thờ chư Thiên tiên thần quỉ khác.

Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :

Một là Thi la chẳng khuyết , vì chỗ chứng được chẳng do vô trí.

Hai mlà Thi la chẳng thủng vì sự bất bình đẳng đã xa rời.

Ba là Thi la chẳng lem, vì tất cả phiền não chẳng xen tạp.

Bốn là Thi la chẳng nhiễm ô , vì được pháp lành làm tăng trưởng.

Năm là Thi la đáng dâng cúng , vì tùy ý muốn đều tự tại hành động.

Sáu là Thi la đáng ngợi khen , vì các bực trí chẳng quở rầy.

Bảy là Thi la chẳng thể chê , vì tất cả lỗi xấu đều chẳng dung chứa.

Tám là Thi la khéo bảo hộ, vì khéo giữ gìn sáu căn.

Chín là Thi la khéo phòng thủ , vì chánh trí tự nhiên luôn hiện tiền.

Mười là Thi la khéo xu hướng , vì Bồ đề nguyện làm trợ bạn.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :

Một là Thi la thiểu dục , vì đúng pháp thanh tịnh khéo biết lượng.

Hai là Thi la tri túc , vì dứt hẳn tất cả sự tham trước.

Ba là Thi la chánh hạnh, vì hay làm cho thân tâm đều xa rời .

Bốn là Thi la tịc tĩnh, vì những ồn náo đều bỏ xa.

Năm là Thi la có nhiều công đức trừ bỏ thị cục , vì do thiện căn tự tại mà thành.

Sáu là Thi la thánh chủng tri túc, vì với dung nhan người chẳng đoái chẳng hy vọng.

Bảy là Thi la làm đúng như lời , vì trong tối hay sáng đều phụng nhiếp chẳng khi Trời, Người.

Tám là Thi la tự xét lỗi mình , vì thường dùng gương pháp soi rõ tâm mình.

Chín là Thi la chẳng chê người kém , vì giữ ý cho người.

Mười là Thi la thành thục chúng sanh, vì chẳng bỏ rời các nhiếp pháp.

Lại nầy Xá lợi Phất! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :

Một là Thi la lòng tin thanh tịnh đối với Pháp , vì thủ hộ chánh pháp.

Ba là Thi la lòng tin thanh tịnh đối Tăng , vì tôn kính thánh chúng.

Bốn là Thi la cúi xuống làm việc , vì chẳng rời suy tư Phật Bồ đề.

Năm là Thi la gần thiện hữu , vì khéo chứa nhóm giác phần tư lương.

Sáu là Thi la rời xa ác hữu , vì vứt bỏ tất cả ác pháp.

Bảy là Thi la Ðại từ Ba la mật , vì thành thục các chúng sanh.

Tám là Thi la Ðại bi Ba la mật , vì làm cho chúng sanh khốn ách được giải thoát.

Chín là Thi la Ðại hỉ Ba la mật , vì với chánh pháp sanh lòng hỉ lạc.

Mười là Thi la Ðại xả Ba la mật , vì với các tham sân đều xả bỏ cả.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát lại được mười thứ Thi la thanh tịnh mà ông nên biết :

Một là Thi la Ðàn na Ba la mật , vì khéo thành thục các chúng sanh.

Hai là Thi la Sằn đề Ba la mật , vì khéo hộ trì tâm chúng sanh.

Ba là Thi la Tỳ lê gia Ba la mật , vì với các chúng hạnh chẳng thối chuyển.

Bốn là Thi la Tĩnh lự Ba la mật , vì khéo đầy đủ tịnh lự tư lương.

Năm là Thi la Bát Nhã Ba la mật , vì lắng nghe căn bổn không nhàm không đủ.

Sáu là Thi la vui cầu nghe pháp, vì thường tra thỉnh cầu Bồ Tát tạng.

Tám là Thi la chẳng bảo trọng mạng sống , vì dùng tâm như ảo thường quán sát.

Chín là Thi la các ý nguyện đầy đủ , vì khéo thanh tịnh từ lúc phát tâm.

Mười là Thi la hòa hiệp Phật giới luật , vì hồi hướng tất cả giới của Như Lai.

Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , vì đại Bồ Tát đầy đủ giới thanh tịnh như vậy nên chẳng có sự khoái lạc vi diệu nào của Trời của Người mà đại Bồ Tát chẳng hưởng thọ , chẳng có nghề nghiệp khéo giỏi nào của thế gian mà đại Bồ Tát chẳng biết , chẳng có đồ cần dùng náo của chúng sanh thế gian mà đại Bồ Tát chẳng đủ , chẳng có phàm phu nào chẳng gây oán hại mà đại Bồ tát chẳng hề giận họ, chẳng có thế gian nào chẳng hư dối gạt gẫm mà đại Bồ Tát đều chẳng tin nhận , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là cha ruột đối với họ , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là mẹ ruột đối với họ , không có chúng sanh thế gian nào mà đại Bồ Tát chẳng có ý tưởng bảo nhiệm gần gũi họ, không có một pháp hữu vi nào mà đại Bồ Tát chẳng tưởng là vô thường sanh diệt.

Nầy Xá Lợi Phất ! Biết rõ các hành vô thưởng rồi đại Bồ Tát chẳng kể thân mạng tu tập giới thanh tịnh thật hành chánh hạnh của chư Bồ Tát làm, đó là ssể thành mãn Thi la Ba la mật vậy”.

Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :

 

Làm nhơn duyên Phật pháp

Thường giự giới thanh tịnh

An trụ pháp vi diệu

Tu Tập pháp tùy thau65n

Hành diệu hạnh Bồ đề

Tam minh huệ cam lộ

An trụ tại giới tụ

Tu học các Phật pháp

Ðây là người trí huệ

Trời người nên cúng dường

Biết rõ tất cả pháp

Khéo thấu các nghề giỏi

Hiểu sâu ý chúng sanh

Hoằng dương pháp vi diệu

Giới tụ đã thanh tịnh

An tọa cội Bồ đề

Hàng phục quân ma dữ

Ngộ Vô thượng Chánh giác

Sáng soi khắp thế giới

Như tia sáng nhựt nguyệt

Bồ Tát bực tôn quí

Hay mở mắt huệ thánh

Trao tay dìu chúng sanh

Hỏi đạo đều khai thị

Thường vui nhận lời người

Chẳng hề có ganh ghét

Bỏ vô lượng thân mình

Bố thí nhiều của báu

Chẳng hề có xa rời

Phật Bồ đề tối thượng

Tín giới đã tròn đủ

Khéo trụ lời chắc thiệt

Chẳng hề có ảo ngụy

An trụ tại giới tụ

Người đến chỗ Bồ Tát

Hợc đặt lời hư vọng

Dầu nghe chẳng phản đối

Mà luôn nương lời thiệt

Nếu ai hứa Bồ Tát

Giả nói cho y thực

Trọn không đem đến cho

Bồ Tát không hề giận.

Lại nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , vì đầy đủ Thi la thanh tịnh như vậy nên đại Bồ Tát đấi với các hành thường tưởng là chẳng nên ưa thích , với các chúng sanh trưởng là cha mẹ , với các hữu tình tưởng khó bảo tòan , với diệu ngũ dục tưởng chẳng phải diệu , với cảm giác hay biết tưởng chẳng hay biết .Có quan niệm như vậy rồi chẳng sanh khởi tâm bình đẳng chẳng bình đẳng .Tại sao ? Lúc Bồ Tát quan niệm như vậy , nếu sẽ phát khởi tâm bất bình đẳng thì nên khiến nhiễm tâm chuyển đổi bất bình đẳng , suy gẫm rằng nhãn và sắc làm duyên mà sanh nhãn thức , nhiễm tâm sanh diệt đều do chủng tử mà tâm thể ấy phát sanh ,đối cảnh sở duyên vọng tâm cho là tịnh .Nếu suy gẫm biết được nó là phi lý và thể chất bất tịnh thì được giải thoát , nếu giải thoát nó thì là nó hết .Nó hết chỗ nào ? Ðó là tham hết , sân hết , si hết .Hết như vậy thì chẳng phải tham hết sân hết si hết .Tại sao ? Nếu sát na tham có tận diệt thì lẽ ra có tham khác hết khác .Như vậy thì lẻ ra tham là thiệt hết là thiệt.Nếu tham là thiệt thì lẽ ra chẳng diệt tận.

Nhưng nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả hữu tình đều do chẳng chánh tư duy chẳng tác ý đúng lý nên sanh tham dục , xét về tham dục do phân biệt mà khởi lên .Nếu không phân biệt thì tình chấp dứt , nếu tình chấp dứt thì không có thiệt , do vì không thiệt nên trong đó không có tham, vì không tham nên tức là chơn thiệt. Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không khổ . Do vì không khổ thì không thiêu não .Vì không thiêu não nên tức là chơn thiệt .Nếu là chơn thiệt thì trong ấy không nhiệt .Vì không nhiệt nên tức là thanh lương nên tức là Niết bàn. Ở trong Niết bàn không có tham ái.

Tại sao ? Nầy Xá Lợi Phất ! Xét về Niết bàn không có tư lự .Ta phải trừ diệt tham ái ấy . Vì tham ái hết nên gọi là được Niết bàn. Nếu như vậy thì năng tham khác và sở tham khác , Niết bàn lại khác . Ðây nếu khác thì ở kia là kia. Nếu ở kia là kia , người trí phải nên suy tầm chỗ thiệt của kia. Suy tầm rồi chẳng được chỗ chắc thiệt .Nếu không chắc thiệt thì là hư giả .Nếu là hư giả thì là tịch tĩnh.Nếu là tịch tĩnh thì là không .Không có pháp gì ? Không có ngã và ngã sở hoặc thường hoặc hằng hoặc trụ hoặc biến dị thì không có hữu tình không có thọ giả .Do như vậy nên không có khởi tham sân si.

Nầy Xá Lợi Phất ! Do cớ gì có ngã và ngã sở , chấp đây là ngã đây là ngã sở hữu ? Vì điên đảo chấp ngã nên chấp ngã sở hửu .Vì chấp ngã sở hữu nên có sở tác. Ở trong sở tác phát khởi bốn hành động, đó là thân sở tác , ngữ sở tác , ý sở tác , do ý tư duy khởi thô ác ngữ , từ đó bèn phát sanh vận dụng thân để làm hại.

Nầy Xá Lợi Phất ! Tất cả phàm phu ngu si do vì họ phát khởi ý tưởng mình người dị biệt nên bị ý tưởng nó nắm , bị ý tưởng nó trói.

Ðại Bồ Tát do thật hành Thi la Ba la mật nên biết rõ sự ấy là điên đảo rôéi chẳng quen gần các hành.Tại sao ? Vì do quen gần mà sanh sợ sệt . Ðại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta vì cầu không sợ sệt để độ các chúng sanh thì chẳng nên ỡ nơi kia mà sanh sợ sệt, ta phải cùng kia thân ái.

Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là đố với chúng sanh đại Bồ Tát tưởng là cha mẹ ?

Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thật hành Thi la Ba la mật , đại Bồ Tát nghĩ rằng từ đời lâu xa quá khứ đến nay không có một chúng sanh nào mà chẳng phải là cha là mẹ .Tất cả chúng sanh chắc chắn từng làm cha hoặc mẹ ta , do vì ở nơi họ sanh tâm tham nên bỏ ý tưởng là mẹ , sanh tâm sân nên bỏ ý tưởng là cha , mãi lưu chuyển sanh tử chẳng dứt .Suy nghĩ như vậy rồi ở nơi chúng sanh đại Bồ Tát đều tưởng là quyến thuộc cả.

Nầy Xá Lợi Phất ! Như thuở quá khứ vô số vô lượng bất tư nghị kiếp, bấy giờ có Phật hiệu Tối Thắng Chúng xuất thế đủ mười hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc , Thiện thệ , Thế Gian Giải , Vô thượng Sĩ , Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư , Phật Thế Tôn .Phật ấy thọ chín câu chi năm cùng chín câu chi na do tha chúng đại Thanh Văn câu hội. Lúc ấy có Bồ Tát tên Ðắc Niệm sanh tại vương cung, thân hình đoan nghiêm khả ái có đủ sắc tướng tròn sạch đệ nhứt . Lúc Bồ Tát sơ sanh , phụ vương đã ban cho tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ , quyến thuộc lại tặng tám vạn bốn nghìn thể nữ trẻ đẹp , bạn hữu của phụ vương cũng tặng tám vạn bốn ngàn thể nữ trẻ đẹp ,muốn lúc Bồ Tát lớn lên có người theo hầu.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy