× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 61 LXI. PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT. - THỨ SÁU MƯƠI MỐT (6)

Thế nào là Tiến căn?

Nếu pháp đã nhiếp về tín căn thì pháp ấy được tu của tiến căn. Đây gọi là Bồ Tát Tiến căn.

Thế nào là Niệm căn?

Nếu pháp được tu của tiến căn thì pháp ấy trọn chẳng quên mất. Đây gọi là Bồ Tát Niệm căn.

Thế nào là Định căn?

Nếu pháp đã nhiếp về niệm căn, pháp ấy chẳng quên chẳng mất nhứt tâm bất loạn. Đây gọi là Bồ Tát Định căn.

Thế nào là Huệ căn?

Nếu pháp được nhiếp về định căn, pháp ấy là sở quán của huệ, là thể tánh của huệ, nội tự chiếu tỏ chẳng từ người mà biết, tự trụ chánh hạnh. Đây gọi là Bồ Tát Huệ căn.

Năm căn ấy đồng nối nhau sanh đủ tất cả pháp được thọ ký biệt.

Ví như ngoại đạo ngũ thông thần tiên chẳng thể quyết định biết tướng sai biệt trong bào thai. Khi tướng nam nữ hiển hiện rồi họ mới biết được.

Có nhiều Bồ Tát không có các căn tín tiến v.v…chư Phật Thế Tôn chẳng thọ ký cho họ.

Nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ ngũ căn Phật mới thọ ký.

Đây gọi là Bồ Tát Ngũ căn vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ lực cũng chẳng thể tận.

Những gì là năm?

Tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực và huệ lực.

Thế nào là Tín lực?

Tín ấy trọn không hề bị trở hoại, nhẫn đến thiên ma biến làm thân Phật thị hiện xuất nhập thiền định giải thoát chẳng thể khuynh động được tín lực của Bồ Tát . Đây gọi là Bồ Tát Tín lực.

Thế nào là Tiến lực?

Bồ Tát tinh tiến ở nơi các thiện pháp được sức kiên cố, như lực đã được tu các thiền định, tất cả chư Thiên thế nhơn chẳng trở hoại được, như bổn sở nguyện đều được thành tựu. Đây gọi là Bồ Tát Tiến lực.

Thế nào là Niệm lực?

Bồ Tát an trụ các thiện pháp chẳng bị phiền não phá hoại. Tại sao? Vì sức chánh niệm của Bồ Tát hay xô dẹp phiền não. Niệm lực như vậy không gì phá hoại được. Đây gọi là Bồ Tát Niệm lực.

Thế nào là Định lực?

Bồ Tát xa lìa ồn náo thường thích độc hành. Bồ Tát ấy dầu có chỗ nói mà ngôn ngữ âm thanh chẳng ngại Sơ thiền, khéo trụ giác quán chẳng ngại Nhị thiền, lòng sanh hoan hỷ chẳng ngại Tam thiền. Bồ Tát ấy dầu thích giáo hoá chúng sanh, chẳng bỏ Phật pháp mà cũng chẳng ngại đệ Tứ thiền. Lúc Bồ Tát ấy hành Tứ thiền, các pháp ngại chướng định không làm gì được. Lúc ấy Bồ Tát chẳng xả định cũng chẳng theo định, mà có thể tự tại thọ sanh các nơi. Đây gọi là Bồ Tát Định lực.

Thế nào là Huệ lực?

Bồ Tát ấy biết pháp thế gian biết pháp xuất thế gian không có một pháp nào có thể phá hoại được trí ấy. Bồ Tát thọ sanh xứ nào, tất cả kỹ nghệ không theo thầy học mà đều tự nhiên biết. Thế gian ngoại đạo các khổ hạnh khó làm, vì giáo hoá họ, Bồ Tát ấy cũng thị hiện đồng hành với họ. Pháp xuất thế ấy hay vượt quá pháp thế gian do vì huệ lực thành tựu vậy, hàng chư Thiên và thế nhơn chẳng bằng được. Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực.

Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Thất giác phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là bảy?

Niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tiến giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xả giác phần.

Thế nào là Niệm giác phần?

Nếu niệm giác phần có thể quán nơi pháp có thể phân biệt pháp soạn họp tư duy trí huệ, cũng hay quán sát tự tướng các pháp.

Những gì là tự tướng?

Quán tất cả pháp tự tánh đều không, niệm như vậy khiến đều hiểu tỏ. Đây gọi là Bồ Tát Niệm giác phần.

Thế nào là trạch pháp giác phần?

Nếu có thể phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ, như các pháp được hiểu rõ, liễu nghĩa là liễu nghĩa, bất liễu nghĩa là bất liễu nghĩa, thế đế là thế đế, đệ nhứt nghĩa đế là đệ nhứt nghĩa đế, giả danh là giả danh, rõ đúng không nghi là rõ đúng không nghi. Các pháp như vậy phân biệt tuyển trạch. Đây gọi là Bồ Tát Trạch pháp giác phần.

Thế nào là Tiến giác phần?

Như niệm pháp, trạch pháp, hỉ pháp, trừ pháp, định pháp, xả pháp, dùng trí nhiếp lấy tinh tiến dũng mãnh dục chẳng thối chuyển siêng tu gắng sức chẳng bỏ bổn ý hành chánh đạo. Đâygọi là Bồ Tát Tiến giác phần.

Thế nào la Hỉ giác phần?

Pháp hỉ được tu, Bồ Tát ở nơi vô lượng pháp lòng sanh hỉ duyệt không có giải đãi thanh tịnh thích pháp, hỉ dũng dước ấy có thể trừ thân tâm bỏ các phiền não. Đây là Bồ Tát Hỉ giác phần.

Thế nào là Trừ giác phần?

Nếu trừ thân tâm và các phiền não, lìa các phú cái nhập vào cảnh giới định khiến tâm chánh trụ. Đây gọi là Bồ Tát Trừ giác phần.

Thế nào là Định giác phần?

Như định được nhập đều có thể biết rõ, chẳng phải chẳng nhập định là biết rõ pháp, lại rõ các kiến phiền não kiết phược vô thuỷ vô chung tâm thường bình đẳng tất cả các pháp không có tướng biệt dị, có thể biết các pháp bình đẳng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Định giác phần.

Thế nào là Xả giác phần?

Nếu pháp ưu hay hỉ, Bồ Tát tâm chẳng chìm, cũng chẳng bị pháp thế gian kéo níu, không có cao không có hạ chánh trụ bất động, không có các lậu không mừng không tham trước, không có các chướng ngại chánh trực tuỳ thuận chơn đế chánh đạo. Đây là Bồ Tát Xả giác phần.

Đây gọi là Bồ Tát Thất giác phần mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Bát thánh đạo phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là tám?

Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.

Thế nào là chánh kiến?

Nếu thấy xuất thế chẳng khởi ngã kiến, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cũng lại chẳng khởi thiện cùng bất thiện vô ký các kiến chấp, nhẫn đến chẳng khởi sanh tử Niết bàn hai tướng kiến ấy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh kiến.

Thế nào là Chánh tư duy?

Nếu tư duy mà hay phát khởi tham dục, sân hận, ngu si các phiền não thì chẳng gọi là chánh. Chánh tư duy ấy chẳng tư chẳng khởi các sự như vậy, chỉ tư giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chánh tư duy ấy có thể suy nghĩ an trụ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy. Tư duy như vậy gọi là Chánh tư duy.

Thế nào là Chánh ngữ?

Phàm có diễn nói chẳng làm cho mình có khổ não, cũng chẳng tổn người, thành tựu lời nói tốt lành vi diệu như vậy thẳng đến chánh đạo. Đây gọi là Chánh ngữ.

Thế nào là Chánh nghiệp?

Nếu là hắc nghiệp thì có hắc báo, là bạch nghiệp thì có bạch báo, là hắc bạch nghiệp thì có hắc bạch báo, là phi hắc bạch nghiệp thì có phi hắc bachj báo, Bồ Tát trọn chẳng dám làm.

Nếu là nghiệp có thể tận nghiệp thì Bồ Tát ắt làm.

Nghiệp được Bồ Tát ấy y chỉ, siêng tu các chánh nghiệp như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh nghiệp.

Thế nào là Chánh mạng?

Nếu chẳng bỏ Thánh chủng đầu đà oai nghi, chẳng động chẳng chuyển không có các gian siểm, chẳng bị lợi dưỡng thế gian kéo dắt, dễ nuôi dễ đủ thường tự kiên trì oai nghi lễ tiết. Thấy người được lợi tâm chẳng sanh não. Nơi lợi dưỡng của mình thường biết thôi đủ. Chánh hạnh như vậy được Thánh nhơn khen. Đây gọi là Bồ Tát Chánh mạng.

Thế nào là Chánh tiến?

Nếu tiến đến tà thì chẳng phải chỗ được Thánh khen, đó là tham dâm sân hận ngu si các phiền não. Chẳng chánh tinh tiến ấy Bồ Tát trọn chẳng làm.

Nếu là pháp có thể nhập vào chánh đế thánh đạo tịch diệt Niết bàn phan duyên chánh lộ. Chánh tinh tiến ấy Bồ Tát tu tập siêng làm. Đây gọi là Bồ Tát Chánh tinh tiến.

Thế nào là Chánh niệm?

Nếu là niệm chẳng mất chẳng động nơi pháp, chánh trực chẳng cong vạy, thấy lỗi sanh tử tiến tới Niết bàn, cột tâm chẳng quên chẳng mất chánh đạo. Đây gọi là Bồ Tát Chánh niệm.

Thế nào là Chánh định?

Nếu là định chẳng loạn nơi tất cả pháp, lúc Bồ Tát ấy trụ như vậy thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.

Bồ Tát trụ tam muội ấy vì tất cả chúng sanh mà được giải thoát thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.

Bát Thánh đạo nầy đều là đạo của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ Tát ấy hiểu rõ rồi diễn nói khai thị phân biệt hiển hiện thành tựu Phật đạo.

Đây gọi là Bồ Tát Thánh đạo phần chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành định huệ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Định?

Nếu tâm tịch tĩnh chánh tịch tĩnh tịch diệt chẳng não, tâm thường chẳng loạn thủ hộ các căn, chẳng động chẳng chuyển không có sốt bạo an tường tịch mặc kiên trì chẳng mất, khéo điều nhu nhuyến ở riêng nhàn tĩnh, thân thì xa lìa, tâm chẳng hồi chuyển. Suy nghĩ ưa thích chỗ a lan nhã vắng vẻ, không có ác cầu, cũng không có chỗ mong cầu, chẳng có cầu nhiều, chánh hạnh chánh mạng oai nghi kiên cố, biết phải lúc, tuỳ theo phải lúc, thường biết thôi đủ. Dễ nuôi dễ đủ vì có sức kham nhẫn vậy. Tâm không có cao không có hạ có thể nhẫn được lời mắng nhiếc. Phát tâm chuyên hướng thiện pháp tư duy, thích tư duy niệm xứ và các thiền chi, phát khởi từ tâm nhập vào bi tâm, an trụ hỉ tâm khéo tu xả tâm, chánh nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thìên, không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, khéo có thể tư duy cửu thứ đệ định. Đây gọi là Định. Tóm lại, Bồ Tát trợ định vô lượng vô biên siêng năng tu tập. Đây gọi là Bồ Tát định chẳng thể tận.

Thế nào là Huệ?

Huệ ấy tu tập trợ đạo nhập vào các pháp vô ngã, vô nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Huệ như vậy phân biệt các ấm hư ảo như hoá, phân biệt các giới bình đẳng và các nhập hư không tụ, phân biệt các đế thảy đều sáng tỏ, tuỳ thuận quán biết mười hai nhơn duyên, phân biệt các kiến nhơn quả quả chứng.

Nói là phân biệt ấy, nơi tất cả pháp có thể được chánh kiến. Như thiệt mà thấy chơn kiến, không kiến, vô tướng kiến, vô nguyện kiến. Lại phân biệt ấy là vì vô phân biệt nên phân biệt.

Nói là kiến ấy cũng không chỗ thấy không chỗ biết khác. Kiến như vậy là chơn thiệt kiến. Thấy chơn thiệt ấy tức được phương tiện.

Bồ Tát ấy huệ như vậy thấy chẳng theo vô vi, tu hành các thiện pháp tâm không chỗ trụ trước, đây gọi là huệ.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành định huệ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Tổng trì?

Những thiện căn được tu tập, Bồ Tát chánh niệm tích tập. Bao nhiêu tám vạn bốn ngàn pháp tụ đã có Bồ Tát có thể chánh thọ trì chẳng quên chẳng mất. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Lại Bồ Tát tổng trì ấy, hoặc là tất cả chư Phật chỗ nói diệu pháp, hoặc là tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, chư Thiên, thế nhơn, chúng sanh phàm phu có bao nhiêu âm thanh lời lành, đều có thể thọ trì cả. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Dầu lúc kiếp tai khởi phải bỏ mạng thọ sanh xứ khác, Bồ Tát ấy vẫn chánh niệm tổng trì chẳng quên chẳng mất. Như nhìn thấy quả a ma lặc trong lòng bàn tay, Bồ Tát ấy xem thấy tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Thế nào là Biện tài?

Bồ Tát nói pháp không có trệ ngại, nói pháp vô trụ, nói pháp không dứt, nói pháp thông lẹ, nói pháp vui hoà, nói pháp nhanh chóng. Bồ Tát nói pháp như vậy là quả báo thanh tịnh do nghiệp lành đời trước, được chư Phật hộ niệm, chư Thiên nhiếp thọ, nói pháp không sai lầm, chẳng luống công, tiến đến Niết bàn.

Bồ Tát thành tựu biện tài như vậy, có bao nhiêu sắc tượng và các loài chúng sanh, Bồ Tát biện tài ứng cơ chẳng dự tư duy chẳng dự phân biệt trước, Bồ Tát giỏi có thể nói tán kệ tụng trong khế kinh.

Bồ Tát nếu đến trong đại chúng Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, đại chúng Sa Môn, đại chúng Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên, ma chúng, nơi nơi chỗ chỗ tự nhiên có thể biết rõ tất cả chúng sanh căn lượng, Bồ Tát dùng vô ngại biện mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát ấy như bổn hỷ lạc giảng tuyên pháp yếu trọn đời chẳng dứt. Đây gọi là Bồ Tát biện tài.

Đây gọi là Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát soạn tập bốn pháp cũng chẳng thể tận.

Những gì là bốn?

Một là Bồ Tát ấy biết tất cả hành vô thường. Hai là biết tất cả hành khổ. Ba là biết tất cả pháp vô ngã và bốn là biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn.

Thế nào là Vô thường nghĩa?

Vô sở hữu là vô thường nghĩa. Vô sở phá hoại là vô thường nghĩa. Nghĩa vô thường ấy tức là nghĩa vô ngã, nếu pháp vô ngã thì không gì phá hoại được vì là tịch diệt vậy. Đây gọi là vô thường nghĩa.

Thế nào là Khổ nghĩa?

Vì vô sở cầu nên là khổ nghĩa. Vì ái nhiễm hết nên là khổ nghĩa. Vì vô sở nguyện nên là khổ nghĩa. Vì không rỗng không có sở hữu nên là khổ nghĩa. Đây gọi là khổ nghĩa.

Thế nào là Vô ngã nghĩa?

Cứu cánh vô ngã là vô ngã nghĩa. Như vô ngã nghĩa tức là không rỗng nghĩa, là vô sở hữu nghĩa, là hư cuống chẳng thiệt nghĩa. Đây gọi là vô ngã nghĩa.

Thế nào là Tịch diệt Niết bàn nghĩa?

Tịch diệt nghĩa ấy chẳng phải là niệm niệm diệt. Như chẳng phải niệm niệm diệt tức là tịch diệt. Bồ Tát được trí huệ vô tận ấy biết tất cả pháp tướng đồng với tịch diệt. Tịch diệt ấy tức là Niết bàn nghĩa.

Đây gọi là Bồ Tát soạn tập bốn pháp mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nhứt đạo cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Nhứt đạo?

Bồ Tát chỗ được chơn thiệt trí huệ chẳng từ người khác nghe.

Lại nhứt đạo ấy, Bồ Tát độc nhứt không có bạn lữ, đã ở nơi Vô thượng Bồ đề có thể đại trang nghiêm dùng thế lực tinh tiến của mình nhiếp lấy, cứu cánh tự tu tập chẳng nhờ người làm. Bồ Tát tự dùng sức nhơn duyên dũng mãnh kiến lập trang nghiêm kiên cố như vậy. Như các chúng sanh tạo tác bao nhiêu thiện nghiệp, ta cũng sẽ có thể làm nên tất cả như vậy. Và các Thánh Nhơn từ lúc sơ phát tâm đến sau làm bao nhiêu công hạnh ta cũng sẽ làm.

Bố thí chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của bố thí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí huệ chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của chúng.

Các Ba la mật chẳng thể sai sử ta mà ta có thể sai sử chúng, nhẫn đến các thiện căn cũng đều như vậy. Các pháp như vậy dầu chẳng phải bạn của ta mà ta cần phải làm. Chẳng cậy dựa nơi kia, Bồ Tát tự lực dũng mãnh riêng làm không có bạn, ngồi toà kim cương nơi đạo tràng phá các ma chúng, dùng một niệm huệ thành Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát phải tỏ rõ phân biệt như vậy.

Đây gọi là Bồ Tát Nhứt đạo vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát sở tu phương tiện cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Phương tiện?

Thấy tất cả pháp là phương tiện. Phát khởi các pháp là phương tiện. Làm Bồ Tát sứ là phương tiện. Cứu cánh phân biệt là phương tiện. Không có hạn lượng là phương tiện. Chí ý thường cầu pháp xuất thế là phương tiện. Lúc bố thí liền có đầy đủ các Ba la mật là phương tiện. Lúc trì giới nơi nơi xứ xứ tự tại vãng sanh là phương tiện. Lúc nhẫn nhục trang nghiêm tự thân và Bồ đề đạo là phương tiện. Lúc hai tinh tiến tâm không có sở trụ là phương tiện. Lúc tu thiền định không có thối thất là phương tiện. Lúc tu trí huệ chẳng chứng vô vi là phương tiện. Lúc tu tâm từ thương kẻ không có thế lực là phương tiện. Lúc tu tâm bi chẳng nhàm sanh tử là phương tiện. Lúc tu tâm hỉ chẳng thích ở chỗ vui là phương tiện. Lúc tu tâm xả phát tâm tu tập tất cả thiện căn là phương tiện. Lúc tu thiên nhãn là muốn thành tựu chư Phật nhãn là phương tiện. Lúc tu thiên nhĩ là vì muốn thành tựu chư Phật nhĩ là phương tiện. Lúc tu tha tâm trí là vì muốn được chư Phật trí biết tất cả chúng sanh căn lượng cạn sâu là phương tiện. Lúc tu túc mạng trí là vì được Phật trí biết tam thế vô ngại là phương tiện. Lúc tu tập thần thông là vì muốn được chư Phật thần thông lực là phương tiện. Tuỳ chúng sanh tâm là phương tiện. Đã tự hiểu rõ lại hiểu rõ chúng sanh là phương tiện. Đã tự độ rồi thị hiện chưa độ mà gắng sức siêng tu cầu được độ thế là phương tiện. Đã lìa phiền não mà thị hiện phiền não là phương tiện. Đã xả bỏ gánh nặng mà thị hiện có gánh nặng là phương tiện. Hay biết căn lượng chúng sanh tuỳ căn lượng thuyết pháp là phương tiện. Khéo có thể dạy bảo tiến tu hàng độn căn chúng sanh là phương tiện. Biết thời biết phi thời là phương tiện. Biết chúng sanh có thể hành đạo mà sa vào tà kiến có thể đặt ở chánh đạo là phương tiện. Có thể khiến lượng làm vô lượng khiến vô lượng làm lượng là phương tiện. Khiến tổn hoại hoàn phục như cũ là phương tiện. Thị hiện thắng kẻ kia là phương tiện. Thị hiện nói Niết bàn có ngũ dục lạc là phương tiện. Đã được giải thoát thị hiện có hệ phược là phương tiện. Ở nơi sanh tử mà chẳng đoạ sanh tử là phương tiện. Nơi các oai nghi không chỗ chuyên đúng cũng chẳng thối thất là phương tiện. Chỉ quán chúng sanh chẳng thấy trì giới hay phá giới là phương tiện. Nhiếp các kiến duyên chẳng sanh tranh cạnh là phương tiện. Rõ âm thanh ấy giả danh không thiệt là phương tiện. Thường đi trong tam giới là phương tiện. Được giải thoát tướng hành là phương tiện. Thân cận phàm phu như thân cận Thánh nhơn là phương tiện. Chẳng chứng Niết bàn thường ở sanh tử là phương tiện. Nơi mà hành xứ hiển hiện đại quang minh không có phiền não là phương tiện. Tất cả thị tất cả phi là phương tiện.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành phương tiện cũng chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát tám mươi vô tận. Tám mươi vô tận ấy đều có thể chứa đựng tất cả Phật pháp”.

Lúc Vô Tận Ý đại Bồ Tát nói pháp môn phẩm ấy, có sáu mươi bảy trăm ngàn chúng sanh, người chưa phát tâm, đều liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Năm trăm hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ đại chúng dâng các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ lọng hoa cúng dường Như Lai và Vô Tận Ý đại Bồ Tát cùng kinh điển ấy.

Trên hư không có vô lượng thiên nhạc tự nhiên phát thanh nói rằng: “Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp tập họp Vô thượng Bồ đề, nay trong hội Đại Tập nầy Vô Tận Ý Bồ Tát đã nói nghĩa ấy. Nếu có ai nghe pháp môn vô tận ấy mà tin hiểu thọ trì đọc tụng giải thuyết, nên biết người ấy là đầy đủ pháp vô tận ấy vậy”.

Đức Thế Tôn lấy y trùm vai ban cho Vô Tận Ý Bồ Tát mà nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại Sĩ nói nghĩa ấy rất hay, chẳng phải chỉ có ta hứa khả, thập phương chư Phật cũng như vậy”.

Vô Tận Ý đại Bồ Tát hai tay bưng y để trên đỉnh đầu mình mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Thiên và thế nhơn sẽ coi y nầy hơn cái tháp, vì là vật được Như Lai dùng”.

Lúc bấy giờ có nhiều các thứ y báu, các thứ lọng báu, các thứ phan báu, các thứ cây báu, các thứ tràng hoa báu tự nhiên từ thập phương thế giới bay đến che Vô Tận Ý đại Bồ Tát để cúng dường.

Các thứ y, lọng, phan, thọ, tràng hoa báu ấy tự nhiên diễn nói lời rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể khéo nói pháp môn vô tận ấy. Như lời ông đã nói, được chúng ta hứa khả”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Những y báu cúng dường như vậy từ xứ nào đến phát ra tiếng nói như vậy?”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Vô Tận Ý Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề giáo hoá các chúng sanh ây, nay họ đã thành Vô thượng Bồ đề ở thế giới mười phương. Đây là chư Phật Chánh Biến Tri kia vì biết ơn báo ơn nên sai các thứ báu ấy đến khen ngợi công đức chơn thiệt của Vô Tận Ý Bồ Tát và cũng cúng dường kinh điển được tuyên nói”.

Lúc nầy đại chúng đối với Vô Tận Ý Bồ Tát càng thêm cung kính tôn trọng tán thán đồng nói rằng: “Hôm nay chúng tôi mừng được đại lợi ích, được thấy Vô Tận Ý Bồ Tát cung kính cúng dường tôn trọng tán thán và được nghe pháp môn vô tận. Nếu có ai tai được nghe danh tự Vô Tận Ý Bồ Tát cũng được lợi ích lành hà huống mắt thấy gồm được nghe kinh nầy”.

Đức Thế Tôn ở trong đại chúng nghe lời ấy liền bảo Xá Lợi Phất Tôn giả rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn học Bồ Tát đạo trong một kiếp cúng dường chư Phật học giới oai nghi do sức kham nhẫn tận sanh tử khổ tế của các chúng sanh, siêng năng tinh tiến tu tập như cứu đầu cháy, nơi các thiền định nhứt tâm thành tựu trí huệ phương tiện, nếu rời lìa kinh điển nầy, ta nói người ấy chưa có thể đầy đủ sáu Ba la mật”.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh điển nầy tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nghĩa như thuyết tu hành, ta nói người ấy đã là đầy đủ sáu Ba la mật được thành tựu Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy?

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát thọ trì kinh nầy vì người diễn nói tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Tại sao? Vì trong các sự bố thí thì pháp thí là hơn cả, chẳng hề quên mất tâm Bồ Tát .

Nếu trì kinh nầy tức là trì giới, nên có thể đầy đủ Thi Ba la mật. Tại sao? Vì cấm giới của tất cả Bồ Tát học được nhiếp nơi kinh nầy.

Nếu ở kinh nầy có thể kham nhẫn thích ưa, tất cả chúng sanh chẳng trở hoại được, có thể ở nơi đây tiến tu nhẫn nhục, tức là đầy đủ Sằn Đề Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy siêng làm chuyển nói, thân khẩu ý ba nghiệp tinh tiến tu tập, tức là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy tâm được tịch diệt không có tán loạn, nhứt tâm định ý phân biệt các tướng, tức là đầy đủ Thiền na Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy tự được hiện trí, chẳng từ người nghe được chánh hành trí, tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát siêng học kinh nầy nếu muốn đầy đủ các Ba la mật thì không khó.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát học tập kinh nầy thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành biên chép kinh quyển, nên biết người ấy tất cả Phật pháp đã ở trong tay.

Tánh tứ đại có thể biến đôỉ khác, tâm Bồ Tát ấy ở nơi Vô thượng Bồ đề chẳng thể còn chuyển đổi.

Nầy Xá Lợi Phất! Kinh điển nầy là ấn bất thối chuyển của Bồ Tát , vì vậy nên Bồ Tát phải cầu ấn ấy.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thân cận ấn ấy thì tức là thân cận tất cả Phật pháp”.

Lúc bấy giờ Tứ Thiên Vương cùng các quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng tôi là đệ tử Phật đã được dấu đạo. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy, chúng tôi kham nhiệm vì họ mà làm kẻ hộ vệ cung cấp hầu hạ, sẽ coi người ấy như đức Như Lai. Tại sao? Vì trong kinh điển nầy xuất sanh các thừa vậy”.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường theo Phật nghe vô lượng vô biên kinh điển, chưa từng được nghe kinh điển phân biệt nghĩa thậm thâm như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nơi xứ xứ, chỗ nào có diễn nói kinh nầy, đích thân tôi và chư Thiên Đao Lợi sẽ đến đó nghe học, thủ hộ Pháp sư tăng thêm khí lực mạnh mẽ tinh tiến chánh niệm biện tài, khiến Pháp sư ấy ở trong đại chúng được vô sơ uý rộng có thể tuyên nói kinh điển như vậy”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ông có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy khiến được dũng mãnh tinh tiến chánh niệm biện tài.

Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy tức là ủng hộ chư Phật chánh pháp. Người ủng hộ chánh pháp tức là người ủng hộ tất cả chúng sanh”.

Phạm Tự Tại Thiên Vương quỳ dài chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, đích thân tôi cùng chư Phạm Thiên và quyến thuộc sẽ bỏ thiền hỉ lạc để đến đó nghe học thưa hỏi thỉnh cầu.

Lúc tôi đến đó sẽ hiện bốn điềm tướng khiến được hay biết:

Một là làm cho thấy quang minh vi diệu.

Hai là được nghe mùi hương thơm lạ.

Ba là khiến người thuyết pháp được vô ngại biện và chánh ức niệm, pháp được nói lành tốt chẳng mất chương cú.

Bốn là khiến đại chúng ấy phát tâm lành muốn vui mừng nghe pháp không có nhàm đủ.

Có bốn điềm tốt ấy, nên biết đó là Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đích thân đến nghe pháp”.

Đệ Lục Dục Thiên Ma Ba Tuần chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh điển như vậy khiến thế lực tôi yếu kém. Tại sao? Vì nếu có Bồ Tát nghe kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà rộng nói, phải biết người ấy tức là được thọ ký.

Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát như vậy đến xứ nào, đến thế giới chư Phật, nên biết như là đức Phật Thế Tôn.

Nay tôi có những tâm kiêu mạn tật đố cống cao, do sức oai đức của Vô Tận Ý mà đều bị xô dẹp hết cả.

Nay tôi sẽ thủ hộ kinh điển nầy và người thuyết pháp. Nơi nào có lưu bố kinh nầy, tôi chẳng khởi một niệm tâm trở ngại, huống là tự mình đến đó làm hại”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Từ ngày hôm nay ông nên vì chánh pháp ở lâu thế gian mà thọ trì kinh điển nầy đọc tụng giải thuyết”.

Tôn giả A Nan liền đứng dậy chỉnh y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi kính vâng lời Phật thọ trì kinh ấy, chỉ tự hận chẳng có thể rộng tuyên nói lưu bố như chư Bồ Tát”.

Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Ông nên an lòng. Nay ở trong pháp hội nầy có chư đại Bồ Tát có thể hộ trì khiến kinh điển nầy rộng tuyên lưu bố”.

Liền đó trong đại hội có sáu mươi ức chư đại Bồ Tát, những người đáng phải hộ pháp, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cần phải tuyên truyền kinh nầy đến khắp mười phương.

Tại Ta Bà thế giới nầy có Di Lặc Đại Sĩ, Ngài ở đây tự sẽ hộ trì kinh nầy và người thuyết pháp.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lúc Phật diệt độ rồi, năm trăm năm sau, nếu có Bồ Tát nghe kinh điển nầy thọ trì đọc tụng, nên biết đều là sức oai thần của Di Lặc Bồ Tát kiến lập”.

Đức Phật khen chúng đại Bồ Tát hộ pháp rằng: “Lành thay lành thay! Chư Thiện nam tử! Các ông chẳng những ngày nay ở trước ta hộ trì chánh pháp, mà các ông cũng đã từng hộ trì chánh pháp của hằng hà sa số chư Phật quá khứ”.

Vô Tận Ý đại Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi tự dùng phần ít trí huệ nói kinh điển nầy, văn tự cú nghĩa ắt chẳng đầy đủ. Nay tôi ở trước chư phật và chư đại Bồ Tát đã thành tựu vô tận pháp mà sám hối tội lỗi”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Tận Ý! Nếu Bồ Tát có đủ bốn vô ngại trí thì chỗ giảng thuyết không có sai lầm. Bồ Tát như vậy được chơn không nghĩa phân biệt pháp môn mới có thể tuyên nói kinh điển như vậy.

Nầy Vô Tận Ý! Nay ông đã đến chỗ đệ nhứt thành tựu tứ biện tự tại vô ngại. Kinh Đại thừa nầy chẳng từ người nghe mà có thể phân biệt.

Nầy Vô Tận Ý! Nay ông thành tựu bực trụ như vậy thân khẩu ý nghiệp không có sai lầm. Tai sao? Vì Bồ Tát tu tập ba nghiệp thành tựu thường dùng trí huệ làm căn bổn vậy.

Nầy Vô Tận Ý! Đã có vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn đều đồng khen ngợi nghe ông thuyết pháp.

Nầy Vô Tận Ý! Ông trước đã ở chỗ ta và chư Phật cứu cánh sám hối không có sót mất”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.

Đức Phật nói: “Kinh nầy tên là Vô Tận Ý sở thuyết bất khả tận nghĩa chương cú pháp môn. Còn có tên là Đại Tập. Ông nên phụng trì như vậy.

Nầy A Nan! Ông phải tín thọ kinh điển như vậy. Tại sao? Vì ông thọ trì kinh nầy rồi thì những pháp đã được trì niệm sẽ tăng hơn trước cả ngàn lần. Nếu vì người nói thì là kiến lập Phật sự vậy”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Ý đại Bồ Tát, các Tôn giả Xá Lợi Phất, A Nan, chư Thiên, Long, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La v.v…, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng làm lễ mà đi.

PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
HẾT.
--- o0o ---

Xem dưới dạng văn bản thuần túy