× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 61 LXI. PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT. - THỨ SÁU MƯƠI MỐT (2)

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Như hư không chẳng thể cùng tận, vì Nhứt thiết trí mà phát tâm Bồ đề cũng chẳng cùng tận”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Phật cấm giới vô tận, nhơn cấm giới phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật chánh định vô tận, nhơn chánh định phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật trí huệ vô tận, nhơn trí huệ phát tâm Bồ đề cũng vô tận. Phật giải thoát vô tận, nhơn giải thoát phát tâm cũng vô tận. Phật giải thoát tri kiến cũng vô tận, nhơn giải thoát tri kiến phát tâm cũng vô tận.

Thưa Tôn giả! Phật giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tánh nó vô tận, nhơn năm tụ ấy mà phát Bồ đề tâm há lại có thể tận được ư!

Như Lai thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp vô tận, nhơn đó mà phát tâm Bồ đề cũng vô tận.

Tóm lại mà nói, Như Lai tất cả pháp thảy đều vô tận, nhơn đó để phát Bồ đề tâm cũng vô tận.

Tam bửu vì chẳng dứt nên vô tận. Vì chúng sanh tánh vô tận nên vô tận. Vì như thiệt trí vô tận nên vô tận. Vì tuỳ theo các chúng sanh vô lượng tâm hành trí vô tận nên vô tận. Vì hồi hướng vô thượng vô tận nên vô tận. Vì giáo hoá chúng sanh vô tận nên vô tận. Vì vô tận trí vô sanh nên vô tận. Vì lý tánh vô sanh nên vô tận. Vì biết tất cả pháp bổn tánh vô tận nên vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát phát Bồ đề tâm chẳng thể tận được vậy.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm thanh tịnh vô tận, tâm thanh tịnh ấy là chẳng làm siểm khúc vậy. Chẳng làm siểm khúc ấy là không có gian trá vậy. Không có gian trá ấy là khéo phân biệt vậy. Khéo phân biệt ấy là không có tà mạng vậy. Không tà mạng ấy là tâm trong trắng vậy. Tâm trong trắng ấy là thường chánh nhứt vậy. Thường chánh nhứt ấy là tánh thù thắng vậy. Tánh thù thắng ấy là không có khinh huỷ vậy. Không có khinh huỷ ấy là diệt các cong vạy vậy. Diệt các cong vạy ấy là tâm chất trực vậy. Tâm chánh trực ấy là nhập bình chánh vậy. Nhập bình chánh ấy là tâm kiên thiệt vậy. Tâm kiên thiệt ấy là chẳng hư hoại được vậy. Chẳng hư hoại được ấy là tánh kiên cố vậy. Tánh kiên cố ấy là chẳng động được vậy. Chẳng động được ấy là không có sở y vậy. Không có sở y ấy là trừ ngã tâm vậy. Trừ ngã tâm ấy là không có đồng bạn vậy. Không có đồng bạn ấy là dứt chê khi vậy. Dứt chê khi ấy là làm thiện nghiệp vậy. Làm thiện nghiệp ấy là không có quở trách vậy. Không quở trách ấy là tiêu tội lỗi vậy. Tiêu tội lỗi ấy là chẳng nhiệt não vậy. Chẳng nhiệt não ấy là tánh chơn thiệt vậy. Tánh chơn thiệt ấy là không hư cuống vậy. Không hư cuống ấy là như thuyết hành. Như thuyết hành ấy là có thể khéo làm vậy. Hay khéo làm ấy là không có tỳ vết vậy. Không tỳ vết ấy là không có lộn lầm vậy. Không có lộn lầm ấy là không bị trệ ngại vậy. Không bị trệ ngại ấy là không thối chuyển vậy. Không thối chuyển ấy là quán chúng sanh vậy. Quán chúng sanh ấy là đại bi căn sâu vậy. Đại bi căn sâu ấy là khéo giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhọc vậy. Khéo hoá độ chúng sanh không mỏi nhọc ấy là chẳng cầu lợi cho mình vậy. Chẳng cầu lợi lạc cho mình ấy là chẳng tham lợi dưỡng vậy. Chẳng tham lợi dưỡng ấy là chẳng ái nhiễm vậy. Chẳng nhiễm ái ấy là duyên các pháp vậy. Duyên các pháp ấy là quán kém yếu vậy. Quán kém yếu ấy là thấy chúng sanh vậy. Thấy chúng sanh ấy là thường ủng hộ vậy. Thường ủng hộ ấy là làm chỗ quy y vậy. Làm chỗ quy y ấy là không có cấu uế hệ luỵ vậy. Không có cấu luỵ ấy là khéo quán sát vậy. Khéo quán sát ấy là không có luận chê vậy. Không có luận chê ấy là tâm thuần thiện vậy. Tâm thuần thiện ấy là chẳng động dao vậy. Chẳng động dao ấy là thiện thanh tịnh vậy. Thiện thanh tịnh ấy là thường tinh tiến vậy. Thường tinh tiến ấy là nội thanh tịnh vậy. Nội thanh tịnh ấy là thường tươi sáng vậy. Thường tươi sáng ấy là không có cấu nhiễm vậy.

Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh ấy hay đoạn dứt xan lẫn cũng giáo hoá người khiến họ dứt xan lẫn.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt phá giới cũng giáo hoá người khiến họ dứt phá giới.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt sân hận cũng giáo hoá người khiến họ dứt sân hận.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt giải đãi cũng giáo hoá người khiến họ dứt giải đãi.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt loạn tâm cũng giáo hoá người khiến họ dứt loạn tâm.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt ngu si cũng giáo hoá người khiến họ dứt ngu si.

Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh có khả năng dứt tất cả pháp bất thiện như vậy, đặt chúng sanh ở trong thiện pháp. Vì vậy nên gọi là Bồ Tát tâm thanh tịnh chẳng thể cùng tận được.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tâm hành thanh tịnh cũng chẳng cùng tận được. Tại sao vậy?

Lúc Bồ Tát bố thí, tất cả đều thấy xả bỏ các sở hữu.

Bồ Tát lúc hành giới chẳng thể tận được, tất cả đều thấy trì các cấm giới đầu đà chánh hạnh oai nghi không có phạm.

Bồ Tát lúc hành nhẫn chẳng thể tận được, tất cả đều thấy với các chúng sanh tâm không sân hận trở ngại.

Bồ Tát lúc hành tinh tiến chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy nơi các thiện pháp đều tinh cần tu tập.

Bồ Tát lúc hành thiền chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy các thiền định không có lầm loạn.

Bồ Tát lúc hành huệ cũng chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy tu tập đa văn.

Đây gọi là Bồ Tát hành thí, hành giới, hành nhẫn, hành tiến, hành định, hành huệ vậy.

Bồ Tát tu hành từ, bi, hỉ, xả cũng chẳng cùng tận được. Tất cả đều thấy cứu hết khổ hoan lạc dũng dước khéo dứt tham ái sân khuể vậy.

Đây gọi là Bồ Tát hành từ, bi, hỉ, xả.

Bồ Tát sở hành ba nghiệp thanh tịnh, lìa thân ba ác, lìa khẩu bốn ác, lìa ý ba ác là tham dục, sân khuể và tà kiến.

Bồ Tát tu học đa văn vô tận vì chẳng lẫn tiếc vậy. Vì Bồ Tát tu hành không lẫn tiếc nên tập họp Nhứt thiết trí vậy. Bồ Tát tu tập Nhứt thiết trí vì khuyên chư Bồ Tát khác phát đạo tâm vậy. Khuyên các Bồ Tát khác phát đạo tâm vì tu hành đặt ở thiện căn vậy. Tu hành đặt ở thiện căn vì hướng Vô thượng Bồ đề đạo vậy. Nguyện hướng Vô thượng Bồ đề đạo ấy là vì nhiếp lấy tất cả các Phật pháp vậy. Nhiếp lấy tất cả Phật pháp ấy là vì bốn sự nhiếp thủ vậy.

Bồ Tát tu hành bốn sự nhiếp thủ ấy là vì sám hối các tội vậy. Bồ Tát tu hành pháp sám hối ấy là vì phát lồ các sự ác vậy. Bồ Tát tu hành phát lồ sự ác là vì hồi hướng tất cả các công đức vậy. Bồ Tát hồi hướng các công đức ấy là vì tích tụ vô lượng trân bửu vậy. Bồ Tát tích tụ vô lượng trân bửu ấy là vì khuyến thỉnh chư Phật vậy. Bồ Tát khuyến thỉnh chư Phật ấy là vì nhiếp các pháp vậy. Bồ Tát nhiếp thủ các pháp ấy là vì hành Đại Sĩ pháp vậy. Bồ Tát hành Đại Sĩ pháp ấy là vì có thể vì chúng sanh mà làm trọng nhiệm vậy. Bồ Tát vì chúng sanh làm trọng nhiệm ấy là vì chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm vậy. Bồ Tát chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm ấy là vì thành tựu chúng sanh các thiện sự vậy!

Còn nữa thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn hành vô tận, đó là tâm hành vô tận, pháp thí vô tận, giáo hoá vô tận và thiện căn vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thích ở rảnh rang nhiếp trì oai nghi không có nhàm đủ, thường thích tụ tập vô lượng công đức mà không nhàm đủ, cầu nhiều học vấn rộng biết các nghĩa mà không nhàm đủ và thường nguyện Vô thượng Bồ đề trí huệ mà không nhàm đủ.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ so tính vô tận, rõ cân lường vô tận, rõ tư duy vô tận và rõ quán pháp vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ cấu nhơn vô tận, rõ bạch pháp vô tận, quở các phiền não vô tận và tán thán bạch pháp vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là quán các ấm tận vô tận, quán các giới tận vô tận, quán các nhập tận vô tận và quán nhơn duyên tận vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thuyết vô thường hành vô tận, thuyết khổ hành vô tận, thuyết vô ngã hành vô tận và thuyết tịch diệt Niết bàn vô tận.

Tóm lại để nói, Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận: hướng Nhứt thiết trí, tôn Nhứt thiết trí, ngưỡng Nhứt thiết trí. Vì Nhứt thiết trí vô tận nên Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát tâm hành vô tận vậy.

Còn nữa thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm cứu cánh vô tận, tại sao, vì chỗ tư duy nhẫn đến nhứt niệm của Bồ Tát thường duyên Bồ đề lòng chẳng nhàm mỏi, chuyên đến các địa vì qua khỏi sanh tử vậy, cứu cánh tăng trưởng vì đến bỉ ngạn vậy, cứu cánh bổn hành vì càng tăng thượng hơn vậy, cứu cánh lìa mang nặng vì nhiếp thắng pháp vậy, cứu cánh không ngang bằng vì đầy đủ tất cả Phật pháp vậy, cứu cánh sở duyên vì tăng trưởng thiện pháp vậy, cứu cánh có thể đến vì vượt quá tâm hành xứ vậy, cứu cánh trang nghiêm vì không mỏi nhàm vậy, cứu cánh tu hành cát tường Bồ đề vì các thứ khổ hạnh đều thành tựu vậy, cứu cánh chẳng trông mong vì chẳng cầu vui cho mình vậy, cứu cánh tuỳ thuận vì không có các ác vậy, cứu cánh điều phục vì an trụ thánh pháp vậy, cứu cánh chẳng xen tạp vì lìa phiền não vậy, cứu cánh bố thí khó vì chẳng tiếc đầu mắt vậy, cứu cánh giới cấm khó vì ủng hộ phạm cấm vậy, cứu cánh nhẫn nhục khó vì nhẫn các quá ác không có thế lực vậy, cứu cánh tinh tiến khó vì chuyên tu khổ hạnh bỏ nhị thừa vậy, cứu cánh thiền định khó vì chẳng tham trước các thiền định vậy, cứu cánh huệ khó vì chẳng tham trước tất cả thiện căn vậy, phát hành liền có thể đến vì tất cả thiện sự đều thành tựu vậy, cứu cánh xa lìa vì khéo phân biệt những mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn vậy, cứu cánh có thể xả thí vì ban cho chúng sanh chẳng cầu quả báo vậy, cứu cánh chẳng kinh sợ vì sâu quán Phật pháp thậm thâm vậy, cứu cánh tăng tiến vì chẳng đình trệ vậy, cứu cánh vô tận vì thường tinh tiến vậy, cứu cánh chẳng hư cuống vì quyết chắc vì chúng sanh mà làm kẻ gánh nặng vậy.

Lại nữa, cứu cánh ấy là điều nhu chúng sanh, là thương che lợi ích người hiền thiện, là thương cứu kẻ làm ác, là tôn kính bậc tôn trưởng, là thủ hộ kẻ không được hộ, là chỗ về cho kẻ không chỗ về, là đuốc soi cho kẻ không ánh sáng, là chỗ nương cho kẻ không nơi nương, là bạn cho kẻ không có bạn, là thẳng cho kẻ cong, là lành cho kẻ chăng lành, là không gian cho kẻ gian, thanh tịnh kẻ tà mạng, làm ơn cho người ơn và kẻ không ơn cùng kẻ chẳng biết ơn, làm lợi cho kẻ chẳng được lợi, chơn thiệt cho kẻ dối khi, chẳng kiêu với kẻ kiêu, chẳng phá hư tác giả, lời dịu dàng dạy răn các kẻ làm ác, hộ kẻ tà hành, thấy hành phương tiện chẳng cho là lỗi, với người thọ lãnh tâm bình đẳng cung kính, với Bồ Tát khác thường khuyên dắt, dùng lời dịu dàng để giảng dạy, thích ở chỗ vắng tu hành thiện pháp, lìa các lợi dưỡng chẳng tiếc thân mạng, không có tà niệm vì tâm tịch diệt vậy, không có tà siểm vì nhiếp lỗi nơi miệng vậy, chẳng dùng tà nghiệp để cầu lợi ích, tâm thường thiểu dục vì tri túc vậy, tâm điều nhu hoà vì không cấu uế vậy, trở lại ở sanh tử vì đủ thiện căn vậy, hay nhẫn các sự khổ vì chúng sanh vậy.

Đây là Đại Sĩ sở hành tất cả đều cứu cánh mà chẳng tận được vậy.

Tâm Bồ Tát ấy, sanh từ phiền não vĩnh viễn không phá hoại được, tại sao, vì tâm ấy tăng trưởng các công đức vậy, vì chứa nhận tất cả chúng sanh vậy, vì thành tựu vô tận diệu trí huệ vậy.

Đây gọi là đại Bồ Tát cứu cánh vô tận”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng còn có pháp vô tận nữa chăng?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Có. Bồ Tát tu hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận. Tại sao, vì đại Bồ Tát hành bố thí vô lượng, với kẻ cần ăn thì cho ăn vì đầy đủ mạng biện sắc lực lạc, kẻ cần uống cho uống vì trừ khát ái vậy, kẻ cần mặc cho y phục vì thanh tịnh sắc ấm không có hổ thẹn vậy, kẻ cần xe cho xe vì được tất cả món vật vui thích thần thông vậy, kẻ cần đèn cho đèn vì đủ Phật nhãn thanh tịnh vậy, kẻ cần âm nhạc cho âm nhạc vì đầy đủ thiên nhĩ thanh tịnh vậy, kẻ cần hương cho hương thơm vì thân phát xuất đủ hơi hương vi diệu vậy, kẻ cần tràng hoa cho tràng hoa vì đầy đủ đà la ni thất giác hoa vậy, kẻ cần hương xoa hương bột đều cho đủ đó vì có đủ giới định huệ ướp thân vậy, kẻ cần các thứ mùi vị đều theo ý muốn mà cho đó vì tướng vị cam lộ thành tựu vậy, kẻ cần y chỉ thì cho y chỉ vì có thể vì chúng sanh đầy đủ cứu hộ làm nơi quy y vậy, kẻ cần nệm trải lót đều cho đủ đó vì đầy đủ cứu cánh dứt trừ ấm cái thành tựu Phạm Thiên, Hiền Thánh chư Phật những giường ghế vi diệu vậy, kẻ cần toà ngồi cho toà ngồi vì đầy đủ tam thiên Đại Thiên thế giới dùng làm đạo tràng chỗ kim cương toà đều thành tựu vậy, kẻ cần những món cần dùng đều cho đủ cả vì thành tựu những thứ cần cho Bồ đề vậy, theo bịnh cho thuốc được không già chết vì cam lộ pháp dược đều thành tựu vậy, kẻ cần bốc sứ đều cấp cho vì tự tại trí huệ được đầy đủ vậy, nếu dùng kim ngân thất bửu thí cho vì đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn vậy, hay đem các thứ anh lạc thí cho vì đầy đủ tám mươi tuỳ hình hảo vậy, hay đem các thứ xe cộ voi ngựa thí cho vì đầy đủ Đại thừa vậy, nếu đem vườn rừng bố thí là vì đầy đủ các thiền chi vậy, nếu đem vợ con bố thí là vì đầy đủ pháp ái vô thượng đạo vậy, nếu đem kho tàng thóc gạo của cải bố thí là vì đầy đủ các kho báu thiện pháp vậy, nếu đem Diêm Phù Đề hoặc cả tứ thiên hạ bố thí là vì đầy đủ Pháp Vương được tự tại vậy, nếu đem các vật thích dùng để bố thí là vì đầy đủ vô lượng pháp lạc vui thích vậy, nếu đem chưn cẳng bố thí là vì đầy đủ thành tựu chưn pháp tiến đến đạo tràng vậy, nếu bố thí cánh tay là vì đầy đủ tay pháp vỗ về chúng sanh khiến được an vui vậy, nếu đem tai mũi bố thí là vì đầy đủ các căn thông lợi vậy, nếu bố thí tròng mắt là vì muốn đầy đủ pháp nhãn vô ngại vậy, nếu bố thí đầu là vì ở trong tam giới đầy đủ tất cả trí huệ thù thắng vậy. Nếu đem máu thịt bố thí là đem vật chẳng bền chắc đổi vật bền chắc vậy, nếu đem tuỷ não bố thí là vì được thân kim cương bất hoại vậy.

Bồ Tát chẳng hành tà mạng cầu có tài vật rồi đem bố thí, chẳng bức ép chúng sanh cưỡng cầu tài vật để bố thí cho kẻ khác, không khủng bố thí cho, không tủi hổ bố thí cho, không lẫn tiếc thí cho, đúng như chỗ đã hứa lúc cho không bớt giảm, không có chẳng thương mà thí cho, cứu cánh thường thí cho, không có chẳng cứu cánh thí cho, không có dua gièm bố thí, không có gian trá bố thí, chẳng nghi nghiệp báo bố thí, không có tà mạng bố thí, không có ngu si bố thí, không có chẳng tin bố thí, không có chẳng hiểu bố thí, không có mỏi nhàm bố thí khó, không có dựa nương bố thí, không có lựa chọn bố thí, không có hiện dị tướng bố thí, chẳng câu người thọ nhận bố thí, không có chúng sanh kẻ chẳng kham nhận trì giới phạm giới không có tăng giảm bố thí, nơi người thọ nhận không có mong báo đáp bố thí, chẳng cầu danh bố thí, chẳng chê khen bố thí, không có kiêu mạn chẳng kiêu mạn bố thí, không có nhiệt não bố thí, tâm chẳng hối tiếc bố thí, chẳng tự khen bố thí, không có tạp uế bố thí, chẳng mong nghiệp báo bố thí, không định xứ bố thí, không có giận hờn ái nhiễm bố thí, có kẻ đến xin chẳng não hại bố thí, không khinh khi bố thí, không nhăn mặt bố thí, chẳng ném quăng bố thí, không có chẳng cố ý bố thí, không có tay chẳng trao bố thí, không có chẳng thường bố thí, không có đoạn tuỵêt bố thí, không có ganh ghét kiêu mạn bố thí, không có chừng hạn bố thí, đúng như chỗ đã hứa không có thay đổi bố thí, không có kham nhiệm chẳng kham nhiệm bố thí, không có chẳng phải phước điền bố thí, chẳng khinh ít bố thí, chẳng khen nhiều bố thí, chẳng tiêu hao bố thí, chẳng cầu đời sau bố thí, chẳng cầu quả báo Phạm, Thích, Tứ Vương, Chuyển Luân Vương bố thí, chẳng nguyện Thanh Văn, Duyên Giác thừa bố thí, chẳng cầu Vương tử được tự tại bố thí, chẳng vì một đời bố thí, chẳng nhàm đủ bố thí, không có chẳng hồi hướng Nhứt thiết trí bố thí, không có bất tịnh bố thí, không có đao độc bố thí, không có não hại chúng sanh bố thí.

Bồ Tát hành bố thí chẳng bị người trí khinh cười, tại sao, vì quán không tịch hành bố thí vì vậy nên vô tận, không làm có công ơn bố thí nên vô tận, ra khỏi tướng tam hữu bố thí nên vô tận, chẳng lấy chỗ nơi nên vô tận, vì quả giải thoát là bố thí vô tận, vì phục chúng ma là bố thí vô tận, vì dứt kiết ái là bố thí vô tận, vì tăng thượng bố thí nên vô tận, khéo phân biệt bố thí nên vô tận, trợ Bồ đề bố thí nên vô tận, chánh hồi hướng bố thí nên vô tận, trang nghiêm đạo tràng giải thoát quả bố thí nên vô tận, thí ấy vô biên nên vô tận, thí ấy không hư hoại nên vô tận, thí ấy chẳng đoạn dứt nên vô tận, thí ấy quảng đại nên vô tận, thí ấy vô trụ nên vô tận, thí ấy vô phục nên vô tận, vô đẳng đẳng bố thí nên vô tận, thí ấy tiến đến Nhứt thiết chủng trí nên vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành bố thí mà chẳng thể cùng tận được”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Lành thay lành thay, bạch Đại Sĩ! Vâng, Ngài nói rất tốt về đại Bồ Tát hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận.

Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Thi Ba la mật như Bồ Tát Thi Ba la mật chẳng thể cùng tận”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát giới tụ sáu mươi bảy sự thanh tịnh tu trị cũng chẳng thể cùng tận.

Những gì là sáu mươi bảy sự?

Với các chúng sanh chẳng khởi não hại. Nơi tài vật của kẻ khác chẳng trộm cắp. Nơi phụ nữ người chẳng sanh lòng tà. Nơi các chúng sanh chẳng khi dối phỉnh gạt. Chẳng hề lưỡng thiệt vì nơi quyến thuộc mình biết an đủ vậy. Không có ác khẩu vì nhịn thô uế vậy. Không có ỷ ngữ vì khéo nói vậy. Nơi sự vui của người chẳng tham ganh vậy. Không hề giận tức vì nhịn lời mắng nhiếc vậy. Chánh kiến chẳng tà vì coi rẻ đạo khác vậy. Thâm tín nơi Phật vì tâm chẳng trược vậy. Thâm tín nơi Pháp vì khéo quán pháp vậy. Kính tín nơi Tăng vì tôn trọng Thánh chúng vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì chí niệm Phật vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tư duy Pháp vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tôn kính Tăng vậy. Kiên trì cấm giới tất cả không phạm vì nhẫn đến điều cấm giới nhỏ cũng không buông bỏ vậy. Thọ trì giới chẳng kém khuyết vì chẳng y theo các thừa khác vậy. Thọ trì giới chẳng xuyên tạc vì lìa sanh xứ ác vậy. Trì giới chẳng hoang vì chẳng tạp các kiết sử vậy. Trì giới chẳng ô nhiễm vì chuyên tăng trưởng bạch pháp vậy. Trì giới thuần thiện vì chánh niệm biết rõ vậy. Trì giới chẳng quở trách vì tất cả giới chẳng tản mất vậy. Trì giới lành chắc vì phòng hộ các căn vậy. Trì giới danh tiếng tốt vì được Phật hộ niệm vậy. Trì giới tri túc vì không có chẳng nhàm chán vậy. Trì giới thiểu dục vì chẳng tham lẫn vậy. Trì giới tánh thanh tịnh vì thân tâm tịch diệt vậy. Trì giới a lan nhã vì lìa ồn náo vậy. Trì thánh chủng giới vì chẳng cầu ý khác vậy. Trì oai nghi giới vì tất cả thiện căn được tự tại vậy. Trì như thuyết giới vì nhơn thiên hoan hỷ vậy. Trì từ tâm giới vì thủ hộ chúng sanh vậy. Trì bi tâm giới vì hay nhẫn các sự khổ vậy. Trì hỷ tâm giới vì tâm chẳng giải đãi vậy. Trì xả tâm giới vì lìa tham ái sân khuể vậy. Trì tự tỉnh giới vì khéo phân biệt vậy. Trì giới chẳng tìm kém dở của người vì thủ hộ tâm người vậy. Trì giới khéo nhiếp thủ vì khéo thủ hộ vậy. Trì giới ban cho vì giáo hoá chúng sanh vậy. Trì nhẫn nhục giới vì tâm không giận ngại vậy. Trì tinh tiến giới vì tâm không thối huờn vậy. Trì thiền định giới vì tăng trưởng thiền chi vậy. Trì trí huệ giới vì đa văn thiện căn chẳng nhàm đủ vậy. Trì đa văn giới vì học rộng vững chắc vậy. Trì giới thân cận thiện tri thức vì trợ thành Bồ đề vậy. Trì xa lìa ác tri thức giới vì xa lìa ác đạo vậy. Trì giới chẳng tiếc thân vì quán tưởng vô thường vậy. Trì giới chẳng tiếc mạng vì siêng hành thiện căn vậy. Trì giới chẳng hối tiếc vì tâm thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng tà mạng vì tâm hành thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng nhiệt não vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng đốt cháy vì tu thiện nghiệp vậy. Trì giới chẳng kiêu mạn vì tâm thấp chẳng kiêu vậy. Trì giới chẳng điệu cử vì xa lìa các dục vậy. Trì giới chẳng tự cao vì tâm bằng thẳng vậy. Trì giới nhu hoà vì tâm không chống đối vậy. Trì giới điều phục vì không não hại vậy. Trì giới tịch diệt vì tâm không cấu uế vậy. Trì giới thuận theo lời vì như thuyết hành vậy. Trì giới giáo hoá chúng sanh vì chẳng rời nhiếp pháp vậy. Trì giới hộ chánh pháp vì chẳng trái như thiệt vậy. Trì như nguyện thành tựu giới vì các chúng sanh tâm bình đẳng vậy. Trì giới thân cận Phật vì nguyện cầu Như Lai vô thượng giới vậy. Trì giới nhập Phật tam muội vì đầy đủ các Phật pháp vậy.

Đây gọi là Bồ Tát sáu mươi bảy sự tịnh giới tụ mà chẳng thể cùng tận được.

Lại nầy Tôn giả! Trong vô tận thanh tịnh giới của Bồ Tát không có dựa dính. Đó là phá tất cả tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, dưỡng dục, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, địa, thuỷ, hoả, phong.

Trong tịnh giới ấy không có tướng nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, cũng không có thân tâm vì định hướng của giới ấy hẳn chẳng cùng chung vậy. Vì phân biệt tướng của giới ấy phương tiện duyên của tất cả các pháp vậy. Vì không tướng của giới ấy được vô tướng tế chẳng xen tạp tam giới vậy. Giới ấy bất tác vì Vô sanh nhẫn vậy. Trong tịnh giới ấy không có đã làm sẽ làm đang làm. Tịnh giới ấy quá khứ chẳng diệt vị lai chẳng đến hiện tại chẳng dừng ở.

Lại nầy Tôn giả! Trong tịnh giới ấy tâm tịnh vô cấu, thức chẳng dừng ở và tư duy chẳng thân cận. Tịnh giới ấy chẳng dựa Dục giới, chẳng gần Sắc giới, chẳng ở Vô Sắc giới. Tịnh giới ấy bỏ lìa dục trần trừ sân ngại diệt vô minh chướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn chẳng thường chẳng nghịch nhơn duyên. Tịnh giới ấy không có ngã tướng bỏ ngã sở tướng chẳng ở thân kiến. Tịnh giới ấy chẳng lấy giả danh chẳng ở sắc tướng chẳng tạp danh sắc. Tịnh giới ấy chẳng hệ thuộc nơi nhơn chẳng khởi kiến chấp chẳng ở nghi hối. Tịnh giới ấy không có tham sân si không tham trước thiện căn. Tịnh giới ấy chẳng não chẳng nhiệt tịch diệt ly tướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn dứt Phật chủng vì cầu chánh pháp vậy, chẳng đoạn dứt pháp chủng vì chẳng phân biệt pháp tánh vậy, chẳng đoạn dứt Tăng chủng vì tu vô vi vậy.

Thưa Tôn giả! Người trì tịnh giới tương tục chẳng đoạn dứt nên vô tận. Tại sao vậy?

Vì phàm phu giới tại thân thọ sanh nên có tận. Trong loài người thập thiện tận nên có tận. Chư Thiên cõi Dục phước báu công đức tận nên có tận. Chư Thiên cõi Sắc các thiền vô lượng tâm tận nên có tận. Chư Thiên cõi Vô Sắc định được nhập tận nên có tận. Ngoại đạo tiên nhơn có những giới cấm thối thất thần thông tận nên có tận. Tất cả Thanh Văn học vô học giới nhập Niết bàn tế tận nên có tận. Bích Chi Phật giới không có tâm đại bi tận nên có tận.

Bồ Tát tịnh giới không có tận. Tại sao? Trong tịnh giới ấy xuất sanh tất cả giới, như giống vô tận nên quả cũng vô tận. Vì Bồ Tát chủng ấy chẳng thể cùng tận nên Như Lai giới cấm cũng chẳng thể cùng tận. Vì vậy nên tịnh giới được chư Đại Sĩ thọ trì đều chẳng thể cùng tận được.

Đây gọi là đại Bồ Tát tu trì tịnh giới mà chẳng cùng tận được”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát: “Lành thay lành thay, Đại Sĩ đã nói tốt về Thi la Ba la mật chẳng thể cùng tận được của đại Bồ Tát. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Sằn đề Ba la mật chẳng thể cùng tận được của chư đại Bồ Tát”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ ba mươi hai sự tu hành nhẫn nhục cũng chẳng thể cùng tận được.

Những gì là ba mươi hai sự?

Vì đoạn dứt các kiết sử nên biết là nhẫn. Vì chẳng sanh hại nên biết là nhẫn. Vì không có triền phược nên biết là nhẫn. Vì không có não nên biết là nhẫn. Vì không có trùm che nên biết là nhẫn. Vì không có sân nên biết là nhẫn. Vì không có tức giận tranh cãi nên biết là nhẫn. Vì không có đấu tụng nên biết là nhẫn. Vì nơi các trần giới tâm không có sai khác nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ mình và người nên biết là nhẫn. Vì thuận tâm Bồ đề nên biết là nhẫn. Vì khéo tư duy nên biết là nhẫn. Vì không có hai tưởng nên biết là nhẫn. Vì biết nghiệp báo nên biết là nhẫn. Vì trang nghiêm thân nên biết là nhẫn. Vì miệng nói lời thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm vững chắc nên biết là nhẫn. Vì ngôn ngữ tự tại nên biết là nhẫn. Vì nhớ biết nên biết là nhẫn. Vì khéo phân biệt tâm nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ tâm người nên biết là nhẫn. Vì tu Phạm Thế hạnh nên biết là nhẫn. Vì thọ báo nhơn thiên nên biết là nhẫn. Vì thân tướng thù thắng nên biết là nhẫn. Vì đủ phạm âm vi diệu nên biết là nhẫn. Vì trừ các lỗi tội nên biết là nhẫn. Vì dứt các cấu uế nên biết là nhẫn. Vì dứt tất cả bất thiện căn nên biết là nhẫn. Vì giết các giặc kiết sử nên biết là nhẫn. Vì nơi sự não hại chúng sanh đều được siêu việt nên biết là nhẫn. Vì đầy đủ tất cả Phật pháp nên biết là nhẫn.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành ba mươi hai sự nhẫn nhục mà chẳng thể cùng tận được.

Thưa Tôn giả! Thế nào là nhẫn? Nếu bị người mắng nín lặng thọ chẳng báo, vì khéo biết âm thanh như tiếng vang vậy. Bị người quở trách nín lặng thọ đó vì khéo biết thân tướng như ảnh tượng vậy. Bị người giận lòng chẳng hờn vì khéo biết tâm tướng như ảo huyễn vậy. Bị giận tức chẳng báo vì tâm không tức vậy. Nghe được xưng danh tâm không ái trước vì chẳng tự cao vậy. Nghe chẳng xưng danh tâm cũng không ngại vì công đức đầy đủ vậy. Nếu gặp vinh lợi tâm chẳng vui mừng vì khéo tự điều phục vậy. Nếu gặp suy hao tâm không quái ngại vì tâm tịch diệt vậy. Được người khen tâm chăng kinh động vì khéo biết phân biệt vậy. Bị người chê tâm không rút mất vì tâm quảng đại vậy. Bị người khi dễ tâm không hạ vì khéo an trụ vậy. Được tôn trọng tâm không cao vì chẳng khuynh động vậy. Gặp sự vui tâm chẳng hoan dật vì biết pháp hữu vi là tướng vô thường vậy. Nếu gặp sự khổ tâm không chán mỏi vì chúng sanh vậy. Thế pháp chẳng nhiễm vì chẳng y chỉ vậy. Nhẫn thọ các khổ thấy kẻ bị nguy bức đem thân thay họ. Nhẫn chịu tay chưn bị chặt gãy vì đầy đủ giác chi vậy. Các khổ hại thân đều có thể nhẫn thọ vì đầy đủ tướng thân Phật vậy. Nhẫn tội lỗi của người vì khéo làm nghiệp lực vậy. Thị hiện đốt nóng tu các khổ hạnh vì hàng phục ngoại đạo vậy. Thị hiện vào ngũ đạo vì vượt quá Thích, Phạm, Tứ Vương và chư Thiên vậy.

Đây gọi là Bồ Tát nhẫn nhục vậy.

Lại cứu cánh nhẫn ấy không có tranh tụng. Tại sao? Nếu thấy người mắng mà ta hay nhẫn, là thấy có hai tướng, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu nói ai mắng ta, nhẫn nhục như vậy là pháp công đức, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Hoặc là mắng nhãn ư, mắng nhĩ ư, mắng tỷ ư, mắng thiệt ư, mắng thân ư, mắng ý ư? Nhẫn như vậy là quán tướng lục nhập chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu không người mắng, nhẫn nhục như vậy là quán vô ngã, chẳng phải cứu cánh.Nếu biết giả danh, nhẫn như vậy là quán tướng mắng chẳng phải cứu cánh nhẫn. Người và ta đều là vô thường, nhẫn như vậy là quán vô thường, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ điên đảo ta chẳng điên đảo, nhẫn như vậy là quán cao hạ, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ chẳng siêng tu ta siêng tu, nhẫn như vậy là quán siêng lười, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ ở ác đạo ta ở thiện đạo, nhẫn như vậy là quán thiện ác, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn vô thường chẳng nhẫn có thường, ta hay nhẫn khổ chẳng thọ các lạc, ta nhẫn vô ngã chẳng nhẫn hữu ngã, ta nhẫn bất tịnh chẳng nhẫn có tịnh, nhẫn như vậy là quán có đối đãi, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn nơi rỗng không chẳng nhẫn các kiến, ta nhẫn vô tướng chẳng nhẫn các giác quán, ta nhẫn vô nguyện chẳng nhẫn nơi nguyện, ta nhẫn vô tác chẳng nhẫn có tác, ta nhẫn kiết sử hết chẳng nhẫn kiết sử còn, ta nhẫn pháp thiện chẳng nhẫn pháp bất thiện, ta nhẫn xuất thế chẳng nhẫn tại thế, ta nhẫn vô tranh chẳng nhẫn có tranh, ta nhẫn vô lậu chẳng nhẫn có lậu, ta nhẫn bạch pháp chẳng nhẫn hắc pháp, ta nhẫn tịch diệt chẳng nhẫn sanh tử, nhẫn như vậy là quán tương đối, chẳng phải cứu cánh nhẫn.

Thế nào gọi là cứu cánh nhẫn?

Nếu nhập không tịch chẳng cùng các kiến chấp hoà hiệp, chẳng dựa lấy không, các kiến ấy cũng là rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tướng chẳng cùng các giác hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô tướng, các giác ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô nguyện, chẳng cùng nguyện hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô nguyện, các nguyện ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tác chẳng cùng các tác hoà hiệp, chẳng dựa nơi vô tác, các tác ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập tận kiết chẳng cùng các kiết hoà hiệp, chẳng dựa nơi tận kiết, các kiết ấy cũng đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập nên thiện chẳng cùng bất thiện hoà hiệp, chẳng dựa nơi thiện, các bất thiện cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập xuất thế chẳng cùng thế hoà hiệp, chẳng dựa xuất thế, các thế ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tranh chẳng cùng tranh hoà hiệp, chẳng dựa vô tranh các tranh ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô lậu chẳng cùng lậu hoà hiệp, chẳng dựa vô lậu các lậu ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập bạch pháp chẳng cùng hắc pháp hoà hiệp, chẳng dựa bạch pháp các hắc pháp đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập tịch diệt chẳng cùng sanh tử hoà hiệp, chẳng dựa tịch diệt sanh tử cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu tánh chẳng tự sanh chẳng cùng tha sanh chẳng hoà hiệp sanh, cũng không có xuất, chẳng thể phá hoại, chẳng thể phá hoại ấy là chẳng thể tận, Nhẫn như vậy là cứu cánh nhẫn.

Không có tác không có chẳng tác, không chỗ dựa lấy, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không có tu trị, không có phát tiến, trọn chẳng tạo sanh, nếu vô sanh ấy là chẳng thể tận, nhẫn như vậy là Vô sanh nhẫn, Vô sanh nhẫn ấy là vô xuất nhẫn, vô xuất nhẫn ấy là cứu cánh nhẫn.

Bồ Tát tu hành cứu cánh nhẫn như vậy được thọ ký nhẫn.

Đây gọi là Bồ Tát hành nhẫn vô tận vậy”.

Lúc nói pháp ấy, tất cả đại chúng khen Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Lành thay lành thay! Vô Tận Ý nói các nhẫn rất hay!”.

Đại chúng nói lời khen ngợi xong liền mưa các thứ hoa ít có và hương bột, hương xoa, vô số y phục đẹp, tràng phan, lọng báu để dâng cúng dường Vô Tận Ý đại Bồ Tát.

Trăm ngàn kỹ nhạc ở trên không tự nhiên phát thanh, nói rằng: “Nếu có các chúng sanh muốn được Như Lai thậm thâm nhẫn ấy, nghe lời nói ấy chẳng nên kinh sợ”.

Lúc bấy giờ các hương hoa, tạp y, phan lọng đầy khắp cả tam Thiên Đại Thiên thế giới.

Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Các vật hoa hương ngươi được cúng dường ấy, người tự tìm khí cụ đựng lấy trừ sạch hết đi”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Vâng, bạch đức Thế Tôn! Nay tôi sẽ dùng thần thông chính thân mình làm đồ đựng”.

Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát sắc thân tam muội, nhập tam muội rồi bao nhiêu vật cúng dường đều nhập hết vào trong rún, thân thể như cũ chẳng tăng chẳng giảm.

Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Đại Trang Nghiêm hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội Ngài nhập ấy tên là gì mà Ngài nhập rồi tất cả món vật cúng dường đều nhập vào thân, thân Ngài như cũ không có tăng giảm?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy tên là Nhứt thiết sắc thân tam muội”.

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy chừng còn có thế lực khác chăng?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế lực tam muội ấy có thể làm cho thân thể thọ nhận hết cả tam thiên Đại Thiên thế giới có bao nhiêu những sắc tướng, thân thể như cũ cũng không có tăng giảm”.

Trong đại chúng có hàng nhơn thiên suy nghĩ rằng: Chừng có thể thấy được thế lực của tam muội ấy chăng?

Đức Phật biết tâm niệm của đại chúng bèn bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Ông nên thị hiện thần lực của tam muội ấy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát từ lâu đã thông đạt tam muội ấy, vì vậy nên có thể đem tất cả đại chúng, chư Bồ Tát từ mười phương đến hội cùng Phật và Thánh Tăng đều nạp vào trong thân mình. Thân ấy lúc bấy giờ dường như thế giới Đại Bửu Trang Nghiêm thọ tất cả các sự trang nghiêm của đại Bồ Tát. Đại chúng đều tự thấy thân mình ở trong thân của Vô Tận Ý Bồ Tát.

Vô Tận Ý Bồ Tát thị hiện đại thần thông như vậy rồi đại chúng đều huờn lại như cũ.

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Từ trước tới nay tôi chưa từng được thấy nghe thần thông biến hoá của tam muội ấy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Giả sử trọn cả tam thiên Đại Thiên thế giới nhập cả vào thân tôi còn không có tăng giảm huống là chỉ có nơi đại hội nầy”.

Lúc nói vô tận nhẫn nhục và thị hiện thần thông biến hoá ấy, có bảy mươi sáu na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói rất tốt về Nhẫn nhục Ba la mật chẳng thể tận rồi, duy nguyện Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật vô tận của Bồ Tát được”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ tám sự hành tinh tiến chẳng thể tận.

Những gì là tám sự?

Phát đại trang nghiêm không có tận. Tích tập dũng tiến không có tận. Tu hành các thiện pháp không có tận. Giáo hoá chúng sanh không có tận. Trợ đạo công đức không có tận. Trợ vô thượng trí không có tận. Trợ vô thượng huệ không có tận. Họp trợ Phật pháp mà chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm vô tận?

Bồ Tát nơi các sanh tử tâm không mỏi mệt, chẳng tính kiếp số sẽ thành Phật đạo, còn bao nhiêu kiếp mà làm trang nghiêm, còn bao nhiêu kiếp chẳng làm trang nghiêm. Bồ Tát trang nghiêm trải qua kiếp số chẳng thể kể tính.

Như từ ngày hôm nay đến sanh tử vốn là một ngày một đêm. Ba mười ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Ở trăm ngàn muôn năm ấy một lần phát đạo tâm, một lần thấy Phật. Phát tâm và thấy Phật như vậy số đến bằng số cát sông Hằng. Ở bên ngần ấy số chư Phật như vậy mới biết được tâm hành của một chúng sanh. Như vậy cho đến biết khắp tâm sở hành của tất cả chúng sanh mà vẫn chẳng thối thất trang nghiêm.

Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.

Trải qua số lần thấy Phật phát tâm như vậy, lúc biết tâm sở hành của chúng sanh kia thường tu đầy đủ Đàn Ba la mật, Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tý lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật, cũng tu đầy đủ pháp trợ Bồ đề, đầy đủ tu tướng hảo Thập lực, Vô uý, pháp Bất cộng, tu đầy đủ tất cả Phật pháp.

Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.

Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, nên biết Bồ Tát ấy tinh tiến chẳng giải đãi.

Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm vô tận.

Thế nào là Bồ Tát dũng tiến vô tận?

Giả sử cả tam thiên Đại Thiên thế giới có lửa mạnh đầy trong ấy, phải đi ngang qua lửa mạnh ấy để thấy Phật, hoặc vì nghe pháp giáo hoá chúng sanh đặt để chúng sanh nơi thiện pháp cũng phải đi ngang qua lửa mạnh ấy, Bồ Tát vẫn làm không thối thất.

Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.

Duyên cớ gì mà gọi là dũng tiến?

Vì thường vì kẻ khác vậy, vì tịnh kẻ khác vậy, vì điều phục kẻ khác vậy, vì diệt tận cho kẻ khác vậy, mà thường chẳng giải đãi chậm trễ vẫn vững chắc chẳng thối thất, tâm luôn ở trong đại bi thường siêng cần tinh tiến mà vì chúng sanh nên gọi là dũng tiến.

Mỗi bước đi Bồ Tát luôn chế ngự tâm mình đều hướng đến Bồ đề, thường quán sát chúng sanh để hoá độ, dầu quán sát như vậy mà chẳng hề khởi phiền não.

Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập vô tận?

Như tất cả thiện tâm đã được phát khởi thường nguyện Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát tu tập vô tận. Tại sao vậy? Vì đem các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề không có cùng tận vậy.

Thưa Tôn giả! Ví như trời mưa một giọt nước rơi vào trong đại hải, giọt nước mưa ấy dầu nhỏ mà trọn không hề diệt tận. Bồ Tát thiện căn nguyện hướng Bồ đề không có diệt tận cũng như vậy.

Tu tập thiện căn ấy, đó là chánh hồi hướng tu tập thiện căn, vì thủ hộ chúng sanh tu tập thiện căn, vì tuỳ theo chỗ cần dùng của chúng sanh mà tu tập thiện căn, vì muốn thành tựu Nhứt thiết trí mà tu tập thiện căn.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành tập họp vô tận vậy.

Thế nào là Bồ Tát giáo hoá vô tận?

Tánh của chúng sanh chẳng thể kể đếm, Bồ Tát ở trong đó chẳng nên kể đếm.

Nếu có Bồ Tát trong một ngày giáo hoá tất cả chúng sanh đầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới, tính số như vậy nhẫn đến vô lượng bất khả tư nghị bất khả xưng số kiếp giáo hoá chúng sanh, dầu có giáo hoá chúng sanh bất khả xưng kế bất khả tư nghị như vậy, mà ở nơi phần chúng sanh còn chưa giáo hoá được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến toán số thí dụ chúng sanh được biết. Tại sao? Vì tánh chúng sanh ấy vô lượng vô biên bất khả xưng kế bất khả tư nghì vậy.

Nếu Bồ Tát nghe lời ấy mà chẳng kinh, chẳng bố, chẳng uý, nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát giáo hoá vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ đạo vô tận?

Bồ Tát tu hành trợ đạo công đức vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Tại sao? Vì tất cả chúng sanh có bao nhiêu công đức hoặc từ quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, cùng tất cả Thanh Văn. Duyên Giác có bao nhiêu công đức, tập họp tất cả công đức phàm thánh ấy lại mới là thành tựu công đức của một lỗ lông nơi thân Phật Thế Tôn. Công đức của mỗi mỗi lỗ lông như vậy nhẫn đến tất cả lỗ lông tập họp lại mới thành công đức của một tuỳ hình hảo của thân Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tuỳ hình hảo như vậy nhẫn đến tất cả tuỳ hình hảo tập họp lại mới thành công đức của một tướng đại nhơn của Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tướng như vậy nhẫn đến ba mươi tướng, tập họp công đức trăm lần ba mươi tướng như vậy mới thành công đức bạch hào giữa chặn hai chưn mày của Như Lai. Tập họp công đức của trăm ngàn bạch hào như vậy mới thành công đức vô kiến đảnh tướng của Như Lai.

Đây gọi là Bồ Tát trợ đạo công đức vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ trí vô tận?

Trợ trí được Bồ Tát tu tập vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn số. Tại sao? Như trí của tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới bằng trí được thành của một vị Tín thành. Trí tín thành như vậy so với trí được thành tựu của một vị Pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được bực Pháp hành, so với trí được thành tựu của một vị Bát nhơn thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều là bực bát nhơn, so với trí được thành tựu của một vì Tu Đà Hoàn, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tu Đà Hoàn, so với trí được thành tựu của một vị Tư Đà Hàm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tư Đà Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A Na Hàm thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A Na Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A La Hán thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A La Hán , so với trí được thành tựu của một vị Duyên Giác thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Duyên Giác, so với trí được thành tựu của một vị Bồ Tát trăm kiếp, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát trăm kiếp, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát đắc nhẫn, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Bồ Tát đắc nhẫn, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bất thối, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát bất thối, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bổ xứ, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của một bổ xứ Bồ Tát, so với trí thị xứ phi xứ của một Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ.

Tóm lại, Như Lai Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp cũng như vậy.

Nếu Bồ Tát được nghe lời ấy mà chẳng kinh chẳng bố, chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ huệ vô tận?

Tất cả chúng sanh có những tâm hành chẳng thể cùng tận, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên đếm tính.

Như quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh có những tâm hành, nếu có một người trong một niệm đủ những tâm hành của tam thế chúng sanh như vậy, mỗi mỗi niệm cũng đều có đủ những tâm hành như vậy. Như một người có đủ tâm hành như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những tham dục sân khuể ngu si và các phiền não, nếu có một người trong một niệm có đủ những phiền não như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ phiền não như vậy. Như một người có đủ phiền não như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những kiết sử, nếu có một người trong một niệm có đủ những kiết sử như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ kiết sử như vậy. Như một người có đủ những kiết sử như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy.

Bồ Tát ở trong ấy sanh huệ quang minh. Một niệm huệ quang không có các trần lao che mờ đều chiếu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh những phiền não cảnh sở duyên của các tâm hành những sanh trụ dị diệt đều không sót thừa. Bồ Tát nầy ở nơi tất cả tam thế chúng sanh phiền não tương ưng không gì chẳng biết rõ hết.

Ví như hư không kia không gì chẳng trùm chứa, cũng vậy, Bồ Tát huệ quang không chỗ nào chẳng chiếu rõ.

Nếu Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát trợ huệ vô tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập trợ Phật pháp vô tận?

Bồ Tát sở hành tu tập trợ Phật pháp vô lượng vô biên, ở trong đó Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Từ lúc sơ phát tâm đến khi ngồi đạo tràng Bồ đề, thời gian chặng giữa tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tu hành đầy đủ các pháp trợ đạo. Tất cả phát tâm tu hành tất cả thiện căn như vậy bất khả xưng kế thảy đều trợ Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát tu hành trợ Phật pháp mà không có tận.

Đây gọi là Bồ Tát tám sự tu hành tinh tiến vô tận vậy.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát tinh tiến cũng chẳng thể tận. Hoặc thân thiện nghiệp, hoặc khẩu thiện, nghiệp hoặc ý thiện nghiệp thường siêng chẳng giải đãi. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tu hành tinh tiến thường tương ưng với thân khẩu ý. Dầu thân khẩu tinh tiến mà đều do nơi tâm, tâm là tăng thượng.

Thế nào là Bồ Tát tâm tinh tiến?

Đó là tâm thuỷ và tâm chung.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì là sơ phát tâm vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là Bồ đề tâm tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm thuỷ?

Vì ở nơi chúng sanh khởi đại bi vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là không có ngã nhơn vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì nhiếp chúng sanh vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì chẳng lấy các pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì chẳng nhàm sanh tử vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có tam giới vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì xả thí sở hữu vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có khinh khi vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì thọ trì giới vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì chẳng trì giới vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu hành nhẫn nhục vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có giận tranh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành các thiện pháp vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì riêng một chẳng xen tạp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu tập chánh định vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì tâm thanh tịnh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì đa văn không nhàm vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì thiện tư duy vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tập thưa hỏi thâm nghĩa vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì pháp không có ngôn thuyết vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì cầu trí huệ vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đoạn dứt hí luận vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là tu bốn phạm hạnh vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì xả bỏ chơn trí vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì đủ ngũ thông vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đủ lậu tận vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành niệm xứ vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì niệm không có tư duy vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành chánh cần vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì lìa thiện và bất thiện vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành như ý phần vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đủ báo đắc vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát phương tiện các căn vậy.

Thế nào là tâm chung? Là quán các căn pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là tập họp các lực vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì trí chẳng hư hoại vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát trợ Bồ đề phần vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết phân biệt phương tiện các giác phần vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu trợ đạo pháp vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là không có tiến thu vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm chung? Là tâm vĩnh viễn tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát khởi huệ vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hiểu biết nhơn vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết nhơn vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là từ người mà nghe vậy.

Thế nào là tâm chung? Là ở trong các pháp không có phóng dật vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát nghiêm sức vậy.

Thế nào là tâm chung? Là biết thân tánh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là trang nghiêm khẩu vậy.

Thế nào là tâm chung? Là thánh nín lặng vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hành ba môn giải thoát vậy.

Thế nào là tâm chung? Là không có sở tác vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hàng phục tứ ma vậy.

Thế nào là tâm chung? Là xả bỏ kiết tập vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là biết phương tiện vậy.

Thế nào là tâm chung? Là trọn vẹn huệ vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết phát vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết độ vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết thế tục vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết chơn đế vậy.

Đây gọi là Bồ Tát tâm tinh tiến vậy. Tâm ấy đầy đủ tinh tiến vô tận nên nói thuỷ chung.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy