× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 60 LX. PHÁP HỘI NHỰT MẬT BỒ TÁT. - THỨ SÁU MƯƠI (1)

Hán dịch: Bắc Lương. Tam Tạng Đàm Vô Sấm.

Việt dịch: Việt Nam. Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh.

Như vậy tôi nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục và Sắc, cùng vô lượng đại Bồ Tát câu hội.

Đức Thế Tôn vì đại chúng nói pháp Hư Không Mục xuất tức nhập tức cam lộ môn rồi yên lặng mà trụ. Tất cả đại chúng cũng đều ngồi yên lặng suy nghĩ rằng:

Ngày nay đức Như Lai biết rất rõ tâm tôi, cầu muốn chánh pháp không nhàm, ắt sẽ tuôn mưa pháp cam lộ.

Suy nghĩ vậy rồi, đại chúng đều chắp tay cung kính chăm nhìn Như Lai dường như người bịnh nặng ưa nhìn lương y, như người ở trong chỗ tối ưa nhìn ánh sáng, như người chìm trong nước ưa muốn đến bờ, như người bị nạn khổ ưa được chỗ nương cậy.

Trong chúng ấy có một Bồ Tát tên là Liên Hoa Quang Công Đức Đại Phạm. Bồ Tát nầy đã ở nơi vô lượng vô biên chư Phật vun trồng các công đức, thiện căn tăng trưởng, với Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển, thành tựu đầy đủ pháp duyên đại từ, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính quỳ dài bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chỗ tâm sở duyên của tất cả chúng sanh không có biên tế nhanh chóng vô hình. Tánh nó bổn lai thanh tịnh ở trong các cõi không có gì chướng ngại được. Vì muốn thông đạt biết rõ chơn thiệt nên siêng năng tu tập Tứ vô lượng tâm, nhơn tu tập nên được tận trí.

Bạch đức Thế Tôn! Giả sử tam giới tánh bổn tịnh cớ chi tu tập tận trí như vậy? Duy nguyện đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà tuyên dương nói rộng để người thối chuyển được bất thối, để xô dẹp vô lượng phiền não giới, để dứt phá vô biên khối khổ não. Duy nguyện Như Lai thương xót diễn nói pháp chưa từng được nghe. Chúng sanh nghe pháp chưa từng nghe rồi qua khỏi biển sanh tử xô gãy cây ái. Tại sao, vì trong tất cả phiền não thì ái là căn bản vậy.

Duy nguyện Như Lai thương xót phân biệt diễn nói tội lỗi của ái. Như Lai có thể tịnh chúng sanh sáu căn. Nguyện đức Như Lai diễn nói pháp tụ thanh tịnh”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Liên Hoa Quang! Nếu người có thể hành lục Ba la mật thì có thể tự biết chỗ sở hành của tâm, người ấy trọn chẳng tưởng niệm Thanh Văn thừa. Dầu còn tu hành vô lượng các hành chưa được cứu cánh nhưng cũng chẳng kinh sợ thối lui sa vào hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật.

Nếu có Bồ Tát chẳng thể tu tập Tứ vô lượng tâm, Bồ Tát như vậy nơi đạo Bồ đề là có thối thất, đây gọi là chẳng thể thanh tịnh sáu căn, đây gọi là nơi pháp có tham có xan, như vậy gọi là hành nơi tha hành, mà chẳng hành nơi tự hành, đây gọi là chẳng thành tựu được Thất thánh tài, chẳng thể độ thoát tất cả chúng sanh nơi biển sanh tử. Vì vậy nên Phật gọi hành giả như vậy là Thanh Văn hành, là Bích Chi Phật hành. Lúc ban sơ Phật diễn nói Tứ thánh đế hành, sau đó tiếp nối dạy chư Bồ Tát hành”.

Lúc ấy đại chúng đều nghĩ rằng: Đây là Như Lai sắp sửa muốn nói Thanh Văn thừa mà chẳng nói Đại thừa chăng? Phải chăng đức Như Lai chẳng thích chúng Bồ Tát như vậy chăng? Như Lai chẳng muốn đoạn dứt chủng tánh Tam bửu chăng?

Tại sao đức Như Lai chẳng nói diệu pháp Đại thừa để hàng chư Thiên thế nhơn được tín tâm. Để người chưa phát tâm Bồ đề thì phát tâm, người đã phát tâm Bồ đề thì được tăng trưởng. Để các chúng sanh được tín tâm vậy.

Đức Như Lai nếu nói pháp Đại thừa thì vô lượng chúng sanh sẽ được phát khởi tâm Bồ đề, do được tu hành pháp Đại thừa bất cộng nên thành tựu đầy đủ pháp đà la ni.

Biết rõ tâm niệm của đại chúng, đức Phật nói: “Nầy chư thiện nam tử! Thanh Văn thừa ấy tức là Đại thừa, Đại thừa ấy tức là Thanh Văn thừa, hai thừa  như vậy không có sai khác”.

Bấy giờ trong đại chúng chư Bồ Tát ở bực Thập trụ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đã được Vô sanh pháp nhẫn. Chúng tôi đã có thể hành mười tám pháp hành bất cộng của Như Lai. Chúng tôi đã hiểu rõ Thanh Văn thừa và Đại thừa. Trong đại chúng nầy còn vô lượng chúng sanh chẳng thể hiểu được Tiểu thừa và Đại thừa”.

Đức Phật bảo chư Bồ Tát ấy: “Nầy các thiện nam tử! Các ông nên tu bất thối thiền định”.

Chư Bồ Tát ấy liền tu nhập bất thối thiền định. Lúc nhập rồi, hoặc có Bồ Tát thân phóng quang minh như một ngọn đèn một ngọn đuốc, hoặc có thân phóng quang minh như thân Đế Thích, Phạm Vương, hoặc như quang minh nhựt nguyệt, hoặc như bốn mặt nhựt, hoặc như tám mặt nhựt, như ngàn mặt nhựt, như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Ánh sáng nơi thân chư Bồ Tát ấy phóng ra chiếu khắp tam thiên Đại Thiên thế giới. Quang minh ấy có thể làm cho vô lượng chúng sanh thân tâm tịch tĩnh. Kẻ trong ba ác đạo được rời lìa khổ não. Kẻ tà kiến xa lìa ác kiến. Lìa hẳn tham dục, sân hận, ngu si bố uý, các nạn khổ đói khát.

Chúng sanh cõi nầy đồng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, tăng trưởng pháp lành.

Lúc bấy giờ thế giới Ta Bà nầy cùng mười phương vô lượng hằng hà sa số thế giới, hoặc không hay bất không, hoặc tịnh hay bất tịnh, quang minh ấy đều chiếu khắp. Chư Bồ Tát trong thập phương thế giới, những người có thể tu hành thánh hạnh Bồ đề đạo trong khoảng một niệm đều đến tụ tập trong Đại Bửu Phường Đình. Đến rồi đầu mặt lễ Phật ngồi qua một phía.

Đức Phật bảo chúng Thanh Văn rằng: “Nầy chư Tỳ Kheo! Các ông có thấy thiện thần túc như vậy chăng?

Thần túc như vậy hay phá hoại tất cả ác ma cảnh giới và các hữu xứ, hay hộ pháp giới, hay hành tất cả chư phật cảnh giới, hay phân biệt cảnh giới Thanh Văn và Bích Chi Phật, hơn hẳn tất cả các thần thông.

Nầy chư Tỳ Kheo! Tất cả Bồ Tát sở dĩ thị hiện đại thần thông là để tăng trưởng các thiện căn cho chúng sanh, để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để kẻ chưa tin thì được tín tâm, kẻ đã tin thì được tăng trưởng, để cho chúng sanh được thọ an lạc, để trưởng dưỡng pháp Đại thừa, để thân được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các nhơn duyên như vậy nên Bồ Tát vì chúng sanh mà thị hiện thần thông như vậy.

Nầy chư Tỳ Kheo! Tuỳ chỗ nào mà chư Bồ Tát như vậy đi đến thì trong ấy Phật pháp liền được tăng trưởng, hoặc hiện tại hay vị lai, Phật pháp còn ở lâu chẳng diệt mất. Nơi đó các chúng sanh xây dựng tháp miếu, cúng dường chúng Tăng, cầu thân vô tận, thân không khổ não. Các sự cúng dường ấy là tạo sanh thân và pháp thân. Sanh thân cúng dường là Pháp tượng. Pháp thân cúng dường là thơ tả đọc tụng mười hai bộ kinh. Cúng dường như vậy hơn đem thất bửu, hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng, anh lạc cúng dường.

Nầy chư Tỳ Kheo! Lúc ấy tâm ta cũng nhận thọ đó. Do cúng dường như vậy, các chúng sanh ấy sẽ được đầy đủ quả báo tam thừa tâm chẳng thối chuyển.

Nếu có chúng sanh vì ta mà tạo nhà cửa, chỗ kinh hành ta liền thọ dụng, hoặc là rừng cây, vườn hoa, giảng đường, tinh xá dâng cúng dường ta. Các hàng đệ tử có những ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà ta cũng thọ dụng. Nếu các Pháp sư thăng tòa cao thuyết pháp, lúc ấy ta cũng chí tâm lắng nghe. Nếu cúng thí cho Pháp sư ấy những y phục, ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà, vườn rừng, xe cộ, ruộng nương, nô tỳ, ta cũng thọ đó. Đây gọi là pháp cúng dường.

Người nầy như vậy có thể tịnh thân tâm, trang nghiêm thân tâm, cũng có thể trang nghiêm Vô thượng Bồ đề, có thể được an lạc vi diệu, hay bố thí tất cả vật, cho tất cả người, trong tất cả thời gian, có thể thọ tất cả quả báo, thọ tất cả người, thọ tất cả thời. Đây gọi là thành tựu phước bố thí. Người nầy trọn chẳng đến ba ác đạo được pháp chẳng đoạ lạc, như ý sở cầu, chẳng thối chuyển tam thừa.

Người nầy thường được có đủ hai thứ, đó là của cải và chánh pháp. Vì vậy nên những vật mong cầu đều tuỳ ý liền được. Thường được thập phương chư Phật hộ niệm. Hay phá tất cả cảnh giới ma.

Nếu có người kính tin đem vật sở hữu của mình phụng dâng cho Pháp sư, nếu người phá giới mà thọ vật phụng dâng ấy, nhẫn đến một là, một bông, một trái, người ngu si nầy do cớ phá giới thọ cúng dường ấy nên mắc quả báo bất thiện, hiện tại liền bị bốn quả ác lớn, đó là tiếng ác đồn xa, thầy bạn thân thiện đều xa lìa, mắc phải bịnh nặng khổ ác mà chết, đó là lúc sắp chết ăn uống không vô thấy cảnh ác dữ miệng không nói được nằm ỉa đái dơ dáy và sau khi chết sáu vật sở hữu cùng những của cải khác chẳng đến trong tăng hoặc bị lửa cháy hoặc trộm cướp lấy. Đời sau còn bị bốn ác báo, đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và nếu được làm người thì thân không có tay chưn. Lúc thọ thân quỷ thì trong vô lượng năm chẳng thấy nước uống cũng chẳng nghe danh từ nước uống, lúc thọ thân súc sanh thì thường ăn bùn đất, nếu trở lại làm người thì ở xứ không có Tam bửu. Đời ngũ trược đui mù không mắt sáng, thường bị bịnh nặng ăn món dơ hôi. Bỏ thân người lại đoạ vào địa ngục. Tại sao phải ác báo lớn như vậy vì kẻ phá giới mà thọ vật đáng là của Pháp sư. Ác Tỳ Kheo nầy có thể hoại diệt có thể làm dứt Tam bửu nên phải bị ác báo như vậy”.

Trong chúng có một Đại Đức Tỳ Kheo tên là Già Gia Ca Diếp bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thân người như vậy đáng gọi là người chăng? Nay tôi suy nghĩ thì chẳng phải là người vậy. Tai sao? Vì người ấy lòng rất vì lợi dưỡng mà thọ cấm giới nên chẳng phải là người vậy”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Ca Diếp! Thọ thọ các thân địa ngục v.v…trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy.

Nầy Ca Diếp! Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó gặp nay đã gặp, cấm giới khó thọ nay đã thọ, như vậy mà chẳng xu hướng thánh hạnh phạm hạnh, đây gọi là hư mất sự đại lợi ích.

Ác Tỳ Kheo ấy vì tâm tham ăn, tham tài lợi mà thọ cấm giới, chớ chẳng phải tâm vì chánh pháp. Người ngu si ấy cậy sức đa văn và thế lực quốc vương hay đại thần mà muốn thọ các vật tịnh thí ấy bèn sẽ bị ác quả lớn”.

Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người xuất gia thọ vật như vậy mắc quả như vậy. Còn người tại gia thọ tội ấy như thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay vua chẳng nên hỏi sự như vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi tu thánh hạnh trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy. Tôi vì các vua ác đời vị lai mà hỏi sự ấy”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu Phật tuyên nói ác nghiệp quả của các ác vương đời vị lai, nếu có kẻ chẳng tin lời Phật sẽ bị ác quả báo lớn. Vì vậy nên Phật thôi không nói đến”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì đời vị lai các Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, người có lòng kính tin phụng trì Phật pháp thủ hộ Pháp sư và tài vật mà phân biệt nói đủ cả cho”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Đại Vương! Nếu các ác vương đời vị lai mà xâm đoạt các vật của Pháp sư như vậy, nên biết ác vương ấy hiện đời mắc hai mười điều ác:

Một là chư Thiên chẳng vệ hộ. Hai là tiếng ác đồn xa. Ba là thân hữu xa lìa. Bốn là oán địch tăng trưởng. Năm là tài vật tổn hao. Sáu là tâm nhiều tán loạn. Bảy là thân chẳng đầy đủ. Tám là ngủ chẳng yên. Chín là thường lo đói kém. Mười là món uống ăn biến thành ác độc. Mười một là nhơn dân chẳng ái kính. Mười hai là lân quốc hằng xâm lăng. Mười ba là quyến thuộc chẳng chịu nghe lời. Mười bốn là quốc sự bí mật bị mưu thần hiển lộ. Mười lăm là tài vật bị thuỷ hoả xâm đoạt. Mười sáu là thường có bịnh nặng. Mười bảy là thuốc men không nghiệm. Mười tám là chẳng chữa lành được. Mười chín là uống nước không xuống. Hai mười là thường nhớ tưởng bất tịnh. Xả thân rồi liền lại sẽ sanh vô gián ngục chịu khổ một kiếp. Quá một kiếp rồi thọ thân ngạ quỷ ở đồng hoang vắng, chẳng nghe tên nước uống, món ăn, thân thể tàn tật không đủ các căn thọ khổ não nhiều trong vô lượng kiếp. Thọ quả ngạ quỷ rồi sẽ sanh làm thân thú lớn trong đại hải, thân lớn nhiều do tuần như khối thịt lớn, thường bị các chúng sanh nút cắn rất là đau khổ. Nếu được thân người thì sanh nhằm đời ngũ trược ác không có Phật xuất thế, tàn tật không đủ tai mắt.

Các ác vương vị lai bị những ác báo lớn như vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thà thọ thân địa ngục chớ trọn chẳng thọ thân ác vương như vậy”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nay Phật đem các tài vật ấy của Pháp sư giao phó cho các vua, những quốc vương có tín tâm. Tại sao, vì Pháp sư là tạng pháp thân của Như Lai vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể hộ trì pháp tài như vậy, người nầy sẽ được những công đức gì?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người như vậy hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.

Nầy Đại Vương! Ví như có kẻ có khả năng giết chết tất cả thập phương chúng sanh, đoạt cả mắt, chặt cả tay chưn.

Nầy Đại Vương! Kẻ ấy mắc tội báo nhiều ít?”.

Vua Tần Bà Sa La yên lặng không đáp.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cớ sao không đáp?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Kẻ ấy mắc nghiệp quả ác chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu gây ác hại như vậy cho một người tội còn khó kể được huống là với tất cả người”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Phật tại thế hoặc sau khi diệt độ, nếu có ác vương Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà xâm đoạt những vật như vậy của Pháp sư, mắc tội báo chia làm trăm phần, kẻ ác trên tội báo chẳng bằng một phần trăm ấy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Đúng chánh pháp mà trị nước vua như vậy khó có được. Nếu chẳng phóng dật thì có thể hộ pháp, nếu phóng dật thì chẳng thể hộ.

Bạch đức Thế Tôn! Người hay hộ chánh pháp được công đức gì?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Ví như có người hay ban cho tất cả chúng sanh như trên sự sống còn và mắt sáng cùng tay chưn, người nầy được phước chừng có nhiều chăng?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Có thể ban cho một người sự sống mắt sáng và tay chưn, phước còn nhiều huống là ban cho tất cả ngần ấy người”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu người hộ pháp được công đức chia làm trăm phần, người ban thí trên được phước chẳng bằng một phần trăm ấy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư thì có mắc tội chăng? Nếu người ủng hộ một Pháp sư lại có được phước chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư mắc tội bằng nhau. Nếu có người hộ trì tài vật của một Pháp sư cùng của năm Pháp sư được phước như nhau không sai khác.

Nầy Đại Vương! Nếu một chùa miếu, hoặc một thôn lạc, một rừng cây trụ năm Pháp sư. Nếu đánh kiền chuỳ hội tứ phương Tăng. Khách Tăng tập hội rồi theo thứ đệ cung cấp phòng nhà, món uống ăn, ngoạ cụ, y dược không tâm lẫn tiếc. Đầu hôm cuối đêm đọc tụng giảng luận nhàm sợ sanh tử chuyên ưa Niết bàn, chẳng tự tán thán thân mình, chẳng nói chỗ dở kẻ khác, thiểu dục tri túc, thường thích tán thán thiểu dục tri túc, siêng tu tinh tiến chí thích tịch tĩnh, tu tập niệm định thương mến chúng sanh. Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng như pháp mà trụ hộ giới tinh tiến trì mật tạng của Phật, đọc tụng thơ tả phân biệt thánh giáo. Đây gọi là chúng Tăng lân mẫn chúng sanh lợi ích chúng sanh, hay thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh, cũng hay thọ trì cấm giới tịch tĩnh, đầy đủ tàm quý hiền thánh công đức.

Nầy Đại Vương! Đây gọi là chúng Tăng biển đại công đức là thầy nhơn thiên hay đại lợi ích vô lượng chúng sanh, hay dứt chúng sanh vô lượng khổ não, hay ban cho tất cả chúng sanh giải thoát. Năm Tỳ Kheo ấy còn gọi là chúng Tăng hà huống gì đông vô lượng.

Nầy Đại Vương! Nếu vô lượng Tăng đều phá cấm giới, chỉ được năm Tỳ Kheo thanh tịnh như pháp mà trụ, người bố thí được phước vô lượng, chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm. Tại sao, do có người hộ trì Phật pháp thương xót tất cả chúng sanh vậy, vì tâm bình đẳng không có hai tướng vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tỳ Kheo phá giới có được ở trong đại chúng thọ tín thí chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Như trong nước vua có một người tội chưa kịp đày đuổi, vua cấp thí cho hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà người tội ấy có được thọ lạc chăng?”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không được thọ lạc”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Cũng vậy, phá giới Tỳ Kheo dầu ở trong chúng thọ lấy tín thí chẳng được an lạc. Tại sao, vì phá cấm giới, vì chẳng như pháp vậy.

Nầy Đại Vương! Người như vậy tất cả mười phương chư Phật chẳng hộ niệm, dầu gọi là Tỳ Kheo mà chẳng ở Tăng số. Tại sao, vì nhập vào ma giới vậy. Người trì giới là đệ tử Phật. Người phá giới là đệ tử ma. Người trì giới là xuất thế đạo. Người phá giới là nhập thế đạo. Phật đều chẳng cho kẻ phá giới thọ của tín thí chừng bằng hột đình lịch, tại sao, vì kẻ ấy xa lìa Như Lai pháp vậy”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Người phá giới có những tướng gì có biết được chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Người có trí thì biết được.

Nầy Đại Vương! Nếu có người chẳng có thể cung kính Tam bửu chẳng sanh tín tâm không có tàm quý, với Sư trưởng Hoà thượng kỳ lão trưởng túc đồng sư đồng học chẳng sanh cung kính, xô ngã tràng thánh, chẳng tu phạm hạnh, tăng trưởng xan tham, thích ở nhà tục, chẳng có thể thanh tịnh được bốn nghiệp ở nơi miệng, thường tu tâm thực xa lìa tâm pháp, thích nói sự thế gian vô ích, đây gọi là Tỳ Kheo tướng ban sơ phá giới. Nếu người nầy thọ chứa tôi, tớ, voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, heo nhẫn đến tám thứ vật bất tịnh, đây gọi là đầy đủ phá cấm giới vậy. Đây gọi là cặn bã trong Sa Môn, là vạy vò trong Sa Môn, là ảo huyễn trong Sa Môn, là giặc trong Sa Môn, là say sưa trong Sa Môn, là Chiên Đà La trong Sa Môn. Tỳ Kheo như vậy chẳng nên cộng trụ, chẳng cộng hoà hiệp, chẳng nên chung làm chín mươi chín yết ma. Đây gọi hư mất sự nghiệp Tỳ Kheo đoạ vào chỗ nghèo cùng.

Nầy Đại Vương! Thà cùng chung ở với hàng Chiên Đà La mà chẳng ở chung với ác Tỳ Kheo như vậy. Tại sao, vì Tỳ Kheo như vậy thiêu diệt thiện căn, dứt tam thế tâm thiện từ mẫn. Ác Tỳ Kheo ấy chính là cầu tiêu thêm lớn pháp sanh tử, tức là chủng tử ác nhơn thiên, tại sao, vì người nầy khi dối nhơn thiên khác. Tỳ Kheo nầy làm tắt đèn giải thoát xô ngã tràng pháp làm khô biển pháp, hay phá người thuyết pháp, hay phỉnh gạt thí chủ, phá hoà hiệp Tăng. Nếu có ác vương hoặc hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà ủng hộ các ác Tỳ Kheo như vậy, thì là thêm lớn nghiệp ác đạo, là gieo trồng các giống ác nhơn thiên.

Nầy Đại Vương! Nếu ác Tỳ Kheo quở mắng Tỳ Kheo như pháp trụ, thì các vua quan kính tin Tam bửu phải nên phạt đuổi. Nếu phạt đuổi kẻ ấy thì được nhiều phước. Nếu là vua không có tín tâm thì như pháp Tỳ Kheo chẳng nên cùng ác Tỳ Kheo cộng trụ.

Tỳ Kheo có trí nên trước qua chỗ vua mà thưa rằng: “Nay vua có thể hộ trì Phật pháp chăng? Nếu vua đáp là hay hộ trì thì Tỳ Kheo có trí nên nín lặng. Nếu vua ấy có tâm tham bảo rằng: Nầy Đại Đức! Trong chùa miếu ấy có đông chúng Tăng, sao ta lại vì năm Tỳ Kheo mà xua đuổi nhiều người. Tỳ Kheo có trí nghe lời ấy thì chẳng nên đến nữa, bèn nên bỏ đi đến chỗ tịch tĩnh”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có ác vương tuỳ thuận theo lời ác Tỳ Kheo như vậy thì cả đại địa nầy làm sao chở được vua ấy, từ đây quá hằng hà sa số kiếp sau trọn không còn được thọ thân người. Vô lượng chúng sanh được giải thoát rồi, ác vương ấy vẫn còn chưa khỏi được nghiệp ba ác đạo”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu đời vị lai có các vua có lòng kính tin Tam bửu, hoặc Sát Lợi, hoặc Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể thủ hộ Pháp sư tạo lập tháp tượng cúng dường chúng Tăng các món cần dùng, vì hộ chánh pháp mà trị ác Tỳ Kheo, thà bỏ thân mạng để hộ một Tỳ Kheo như pháp, chớ chẳng hộ vô lượng ác Tỳ Kheo, người hộ pháp nầy xả thân sẽ sanh thanh tịnh Phật độ, thường gặp Tam Bửu, chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Đại Vương! Nay Phật chẳng cho một người thọ chứa tám vật bất tịnh, chỉ cho đại chúng được thọ chứa và dùng.

Nầy Đại Vương! Nếu có người có thể hộ trì chánh pháp, nên biết người nầy là đại đàn việt của thập phương chư Phật Thế Tôn.

Nầy Đại Vương! Tăng vật khó chấp chưởng. Nay Phật chỉ cho hai hạng người chưởng hộ: một là A La Hán Tỳ Kheo đủ bát giải thoát, hai là người Tu Đà Hoàn. Trừ hai hạng người nầy không còn có ai chưởng hộ được Tăng vật vậy”.

Lúc đức Thế Tôn vì vua Tần Bà Sa La nói pháp ấy rồi, phương Đông có quốc độ tên là Vô lượng, có Phật hiệu là Ngũ Công Đức thường nói diệu pháp giáo hoá chúng sanh. Cõi ấy có một Bồ Tát tên là Nhựt Mật chí tâm lắng nghe pháp ngước nhìn hư không thấy có vô lượng vô biên Bồ Tát từ phương Đông đến đi thẳng qua Tây phương, liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thấy phương Đông vô lượng Bồ Tát đi qua phương Tây. Có nhơn duyên gì mà họ bỏ nước tịnh diệu đi qua uế độ?”.

Đức Phật Ngũ Công Đức nói: “Nầy Nhựt Mật! Phương Tây quá đây vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, chúng sanh tệ ác đầy trong nước ấy. Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong thế giới ấy nói pháp tam thừa, vì muốn tăng trưởng Phật chánh pháp, vì chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, vì phá ma giới dựng pháp tràng, vì chánh pháp còn ở lâu mà chẳng diệt tận. Thế giới ấy có vô lượng Phật, vô lượng Bồ Tát tuyên nói bửu kế đà la ni pháp. Đã nói pháp ấy rồi, Thích Ca Như Lai lại nói pháp tam thừa tứ vô ngại trí, bốn thứ phạm hạnh và bốn nhiếp pháp. Vô lượng chúng sanh lúc nghe pháp ấy lòng không mỏi nhàm vì họ thích vị cam lộ vậy. Do bổn nguyện lực của Thích Ca Như Lai nên vô lượng chư Phật, vô lượng chư Bồ Tát đều tập hội cõi ấy. Lúc Phật Thích Ca nói pháp chúng Bồ Tát nhập thiền định. Đã nhập định rồi thân phóng quang minh sáng như một ngọn đèn đuốc nhẫn đến sáng như ánh sáng cả ức mặt nhựt. Nầy Nhựt Mật! Nếu muốn hộ pháp thì nên khởi định đi đến thế giới Ta Bà.

Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh cõi Ta Bà phiền não bền chặt, hệ phược sâu nặng, thân hình xấu xí hôi dơ, họ nhiều kiêu mạn ác khẩu lưỡng thiệt xa lìa thiệt ngữ, họ thiệt ngu si mà hiện tướng trí huệ, nhiều lòng xan tham mà hiện tướng xả ly, có nhiều siểm khúc mà hiện tướng chất trực, tâm nhiều trược loạn mà hiện tướng thanh tịnh, có nhiều tật đố mà hiện tướng nhu nhuyến, thích làm cho người ly biệt mà hiện tướng hoà hiệp, lòng nhiều tà kiến mà hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi ấy theo lời phụ nữ, vì nghe theo lời phụ nữ nên đoạn tuyệt thiện căn tăng trưởng ba ác đạo.

Nầy Nhựt Mật! Nay ông vả có thể vì ta mà làm sứ giả chăng? Ta muốn giữ dục khiến Như Lai ấy khéo nói pháp yếu. Nói dục ấy đó là chơn đà la ni. Chơn đà la ni nầy thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt được dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, ngã mạn, tất cả thủ tham, tất cả ngũ cái, tất cả ngã kiến, đoạn kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến, thường kiến, chúng sanh kiến, sĩ phu kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, nhơn kiến, thiên kiến, sắc, thanh, hương, vị, xúc kiến, tứ đại kiến, xuất kiến, sanh kiến, trụ kiến, diệt kiến. Đây gọi là tuỳ như thuận nhẫn. Đà la ni nầy chơn thiệt biết sắc đến thức, nhãn đến ý, ấm nhập giới, giải thoát pháp giới, vô thượng diệu lạc.

Nầy Nhựt Mật! Chúng sanh Ta Bà thế giới kia như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á, tham dục say cuồng, vì vậy nên ta giữ dục pháp tuỳ như chơn thiệt đà la ni, đây là tạng tất cả pháp, là pháp môn bất khả tư nghị có thể phá hoại tất cả bạn đảng ma và cảnh giới ma.

Nầy Nhựt Mật! Đà la ni nầy cũng hay điều phục tất cả ma chúng, hay khủng bố tất cả ác độc long, hay khiến ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay cảm hoá tất cả A Tu La chúng, hay điều tất cả kim sí điểu, hay bố tất cả Khẩn Na La, hay làm cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà sanh lòng kính tin, hay phá tất cả kẻ tham thân nữ, khiến người đa văn sanh lòng ưa thích, người tập thiền định tâm được tịch tĩnh, hay khéo chữa lành tất cả ác trọng bịnh, hay trừ tất cả ác tướng trong quốc độ như là ác tặc, ác điểu, ác thú, ác phong, ác vũ, ác hàn, ác nhiệt.

Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay tụng đà la ni nầy thì có thể được thấy vô lượng chư Phật.

Nầy Nhựt Mật! Ông thọ trì chú nầy đến thế giới Ta Bà kia hướng hàng tứ chúng mà tuyên nói đầy đủ đó”.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai liền nói đà la ni rằng:

Bà di bà xà ba lợi bà linh, bà hê bà ha ba lợi bà linh, ti lợi si tỉ ti lợi si ba lợi bà linh, a tỳ a bà ba lợi bà linh, để để để xà ba lợi bà linh, ma linh ma la ba lợi bà linh, khê kỳ khước già ba lợi bà linh, a lộ xí a lộ ca ba lợi bà linh, đá mế đá ma ba lợi bà linh, tư linh tư la ba lợi bà linh, già mế già ma ba lợi bà linh, a bộ bà a bộ bà ba lợi bà linh, la ma, la ma, la ma, la mế, la ma, lã la, lã la, ma tỉ toá nhã na, phục đa kỳ hê phục đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, giá táp kỳ lực hê giá táp kỳ lực ma ba lợi bà linh, thâu lộ đa kỳ lực hê thâu lộ đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, kỳ lãng na kỳ lực hê kỳ lãng na kỳ lãng ma ba lợi bà linh, thời chúc kỳ lực hê thời chúc kỳ lãng ma ba lợi bà linh, ca xà kỳ lực hê ca xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, ma na kỳ lực hê ma na kỳ lực ma ba lợi bà linh, bát thi kỳ lực he bát đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, tỳ đà na kỳ lực hê tỳ đa na kỳ lực ma ba lợi bà linh, thất nang kỳ lực hê thất nang kỳ lực ma ba lợi bà linh, ưu ba đà kỳ lực hê ưu ba đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, bà bà kỳ lực hê bà bà kỳ lực ma ba lợi bà linh, xa đề kỳ lực hê xà đề kỳ lực ma ba lợi bà linh, xà lã ma na la kỳ lực hê xà lã ma na la kỳ lực ma ba lợi bà linh, đậu khê tát đa ba kỳ lực hê đậu khê tát đa ba kỳ lực ma ba lợi bà linh, a lã ba lã chuỳ xà kỳ lực hê a lã ba lã chuỳ xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, a bạt đa, tỉ bạt la tả, a ba lã mâu ba ma tát tả tỉ già, tỉ ni bạt đa, a đà lợi dã lại mế, tán tỉ già phiến đề, sá ha.

Nhựt Mật đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có thể đến nơi Ta Bà thế giới kia tuyên nói chú ấy, chỉ ở nơi cõi ấy sanh lòng e sợ. Tại sao, vì vừa rồi Như Lai vì tôi mà tuyên nói chúng sanh cõi Ta Bà có nhiều tệ ác dường như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á tuỳ theo ý nữ nhơn.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thuận theo ý nữ nhơn thì nên biết người ấy dứt hẳn thiện căn”.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai nói: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chẳng vì hiện lợi hậu lợi mà nên vì lợi ích tất cả chúng sanh, chỉ qua đó tuyên nói thần chú chớ có lo sợ.

Nầy Nhựt Mật! Ông chẳng phải là Duy Ma Cật ở bên kia ư! Cớ chi ông lại lo sợ?”.

Nhựt Mật Bồ Tát nín lặng không đáp.

Đức Phật nói: “Nầy Nhựt Mật! Sao ông yên lặng vậy?”.

Nhựt Mật Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Duy Ma Cật kia tức là thân tôi. Tôi ở cõi kia hiện thân hình bạch y vì các chúng sanh mà tuyên nói pháp yếu, hoặc có lúc tôi hiện thân Bà La Môn, hoặc Sát Lợi, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà, hoặc thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đế Thích, thân Phạm Thiên, hoặc hiện thân Long Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, hoặc hiện thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân Trưởng giả, thân Nữ nhơn, thân Đồng nam, thân Đồng nữ, thân Súc sanh, thân Ngạ quỷ, thân Địa ngục, tôi hiện các thứ thân hình như vậy để điều phục chúng sanh”.

Lúc ấy trong chúng có tám vạn Bồ Tát đồng một tam muội xuất nhập cùng đồng, còn có vô lượng vô số Bồ Tát tâm điệu động chí tâm hệ niệm muốn được gần lễ lạy Thích Ca Mâu Ni Phật và đại chúng, cũng muốn nghe học kinh điển Đại thừa vi diệu. Đại chúng như vậy đều đồng lòng muốn qua Ta Bà thế giới.

Nhựt Mật Bồ Tát nghĩ rằng: Ta vì đại chúng nầy muốn nói đại sự. Tại sao, vì đại chúng nầy tâm họ chưa định, nếu qua cõi kia hoặc có thể họ sanh tâm điên đảo gần kề ác tri thức.

Đức Ngũ Công Đức Phật bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Nay ông chớ nên sanh lòng e sợ, nay ta sẽ ban cho đại chúng Bồ Tát bất cộng pháp hành, vô tưởng hành, điều phục hành, giải thoát hành, phân biệt sanh tử hành, bất đoạn Tam bửu hành, đại từ đại bi hành, Nhứt thiết trí giải thoát hành, phá hoại tứ ma ác tà luận hành, tận trí vô sanh trí hành, tất cánh nhập Niết bàn hành. Đây gọi là liên hoa đà la ni môn. Đà la ni nầy làm cho Bồ Tát chẳng thích ưa tam giơi mà chứng vô tướng giải thoát môn và nhập vô hành giải thoát môn.

Nầy Nhựt Mật! Nếu người tin thì nên chí tâm lắng nghe liên hoa đà la ni nầy, người ấy hay nhẹ mỏng tất cả tham dục tất cả phiền não xả thân bảy đời thường được sanh cõi trời nhớ biết túc mạng, dầu ở Dục giới chẳng bị dục làm ô nhiễm, thường thích xuất gia được nhơn thiên vui cúng dường. Nếu có người hay bảy ngày chí tâm rồi lắng nghe đà la ni nầy thì trọn chẳng đoạ lạc trong ba ác đạo. Nếu hàng nhơn thiên lắng nghe đà la ni nầy thì xa lìa tham dục mà tu tập thiền định. Nếu có người hay đối với Quốc Vương, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà tuyên nói liên hoa đà la ni nầy, người nghe liền phát tâm xuất gia. Nếu nữ nhơn chí tâm nghe đà la ni nầy thọ trì đọc tụng liền chuyển thân nữ nhơn được thân nam tử nơi Vô thượng Bồ đề tâm không thối chuyển nhẫn đến được Đại bát Niết bàn, trọn chẳng còn thọ thân nữ nhơn trừ tự phát nguyện.

Nầy Nhựt Mật! Nếu có người hay đem chú nầy mà chú các cây cỏ thuốc, rồi đem sơn trét trống loa, lúc đánh lúc thổi, người nghe tiếng tất cả tà kiến cổ độc các bịnh tệ ác đều không làm hại được. Liên hoa đà la ni nầy thành tựu vô lượng phước đức”.

Liền nói chú rằng:

Tư đà ma đề, tỉ lộ ca ma đề, y lê sí để lợi tỉ, lưu giá tu lưu giá, phật đề tỉ phật đề, ma ha phật đề, ôn ma đề ôn ma đa ba la đề tỉ đa ninh, la già bà la ca đà ba lợi đề tỉ đà ninh, tần đậu tần đậu ma đề, chí tra chí tra ba la đề tỉ đà ninh, át sí chiến đà đậu, ha ha chí trí, ha đa ni mế, ha đa ca ma tỉ kỳ, ha đa phú na bà bà la xà, ha đa tam mộ để, ha đa tỉ ma đa phật đề, ha đa xà kỳ ly, ha đa tỉ tam ma kỳ ly, ha đa tam mâu đà xà tỳ, ha đa tỉ ma đa lã kỳ, ha đa hi hê, ha đa giá tri, ha đa đạt ba la xà, ha đa bà hưu la xà, ha đa bà xà ma đề, ha đa lưu già ma đề, ha đa ô già lại mế, ha đa đà ma mật đề, ha đa tát bà ưu ba đà na, nhã nhã nhã, tỉ xà nhã nhã, tỉ bà xà nhã nhã, bà lã mạt lực già nhã nhã, y sa an đâu lã già đậu xí, sá ha.

Nầy Nhựt Mật! Liên hoa đà la ni ấy hay dứt tứ lưu ông nên chí tâm thọ trì đà la ni ấy mà đến cõi Ta Bà. Tại sao, vì thế giới kia có trăm ức ma chúng hay phá hoại các thiện pháp của chúng sanh, các ông nếu tụng đà la ni ấy thì chẳng bị ác ma kia xâm phạm.

Nhựt Mật Bồ Tát cùng vô lượng ức chư Bồ Tát và vô số nhơn thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai trí huệ bất khả tư nghị, từ trước chúng tôi chưa từng nghe đà la ni ấy”.

Lúc ấy tám vạn bốn ngàn nữ nhơn thế giới vô lượng nghe liên hoa đà la ni rồi liền chuyển thân nữ thành thân nam.

Phật Ngũ Công Đức lấy tràng hoa chiêm bà bảo Nhựt Mật Bồ Tát rằng: “Nầy Nhựt Mật! Ông cầm tràng hoa chiêm bặc nầy và đà la ni qua thế giới Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni”.

Trong đại hội có tám vạn Bồ Tát đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới”.

Đức Ngũ Công Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, các ông nếu đi thì nên hiện thân Phạm Thiên”.

Đại chúng Bồ Tát ấy liền hoá làm thân Phạm Thiên qua Ta Bà thế giới đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni đầu mặt lễ lạy hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía, bấy giờ cả cõi Ta Bà liền có trận mưa hoa chiêm bà khắp mọi nơi.

Đức Phật vẫn vì vua Tần Bà Sa La tuyên nói pháp hành.

Nam phương quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có một thế giới tên là Ca Sa Tràng đủ ngũ trược, có Phật hiệu là Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại vì chúng sanh tuyên nói pháp yếu. Có một Bồ Tát hiệu là Hương Tượng Vương ngước nhìn hư không thấy có vô lượng Bồ Tát từ phương Nam đến đi thẳng qua phương Bắc liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng đại Bồ Tát từ phương Nam đi thẳng qua phương Bắc?”.

Đức Phật Sơn Vương Như Lai nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Về phương Bắc quá số thế giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có thế giới tên Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu Ni ở đó tuyên nói kinh Đại Tập vi diệu, phân biệt tam thừa để chẳng dứt chủng tánh Tam bửu, chẳng dứt pháp hành phá ma giới dựng pháp tràng. Tất cả mười phương chư Phật Thế Tôn ở nơi cõi ấy tuyên nói giải bày Bửu tràng đà la ni, nói chư Phật trở về bổn xứ. Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn tuyên nói pháp yếu. Các ông có muốn qua Ta Bà thế giới nghe học pháp chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy, đó là Đoạn nghiệp đà la ni tuỳ thuận không môn dứt tham sắc kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến để được tận trí vô sanh trí vậy”.

Liền nói chú rằng:

Đậu mạc đề, đậu mạc đề, áo xoa đậu mạc đề, ba la bà sa đậu mạc đề, tát bà a ca xá đậu ma, a tỳ khê già, tỳ mế đa khê già, a tỳ xoa khê già, a bà mạc a khước già, a na nhã khước già, tỳ dã phật đề khước già, bà lộ giá khước già, thức xí khước già, tỉ đề di lã khước già ô số ma khước già, ô la khước già, a xoa khước già, xà bà ma na khước già, thấp ba ba khước già, xà bà tỉ nhã na khước già, giá táp đà đâu khước già, xà bà ma ná tỉ nhã na đà đâu khước già, ti lợi si tỉ đà đâu khước già, xà bà tỉ nhã na đà đâu khước già, chiết toá lợi mật đâu ba na khước tỉ già, xà bà a tỳ đà ni ca khước già, đậu khê khước già, xà bà mạt lực khước già, tỉ bà bà na, a tỉ xoa bà, a bà na na, tỉ na na, bà mâu đà na na, tát bà ca lã na na, tát bà tán đá na tỉ cụ ba na na, a ký chi na na, xoa bà, xoa bà, y lợi, mật lợi, y y lợi, y y lan di lợi, sá ha.

Nầy Hương Tượng Vương! Đây gọi là tuỳ không tam muội đà la ni vậy. Đà la ni nầy có năng lực dứt hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham nhẫn đến dứt trừ tất cả phiền não. Ông nên nhứt tâm thọ trì đọc tụng đà la ni nầy qua thế giới Ta Bà kia giáo hoá chúng sanh”.

Hương Tượng Vương Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đọc tụng đà la ni tuỳ thuận không tam muội ấy, nay tôi muốn qua thế giới kia nhưng có lòng e sợ. Tại sao, vì tôi từng nghe đức Phật nói chúng sanh cõi Ta Bà tệ ác có nhiều tham sân si”.

Đức Phật Sơn Vương nói: “Nầy Hương Tượng Vương! Ông thường hoá hiện nhiều thân để giáo hoá chúng sanh, hoặc hiện thân Bà La Môn, thân Ma Hê Thủ La, thân Đế Thích, thân Na La Diên, thân chư Thiên, thân Quỷ, thân Rồng, thân A Tu La, thân Chuyển Luân Vương, thân Bà La Môn, thân Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà, thân Đại thần, Trưởng giả, thân Thanh Văn, Duyên Giác, thân Nam, thân Nữ để giáo hoá chúng sanh. Sao lại nói với thế giới kia có lòng e sợ ư!

Nay ta sẽ ban cho ông đại pháp hành pháp Nhứt thiết trí huệ hay biết được các hành, hay phá tứ ma hành, hay điều tất cả chúng sanh hành, hay hỉ tất cả chúng sanh hành, chẳng dứt Tam bửu hành, hay điều tất cả ác long hành, hay phá tất cả chúng sanh ác nghiệp hành, đại từ đại bi hành, phá tam ác đạo hành, cứu chúng sanh hành, phá ác kiến hành, hay phá nữ nghiệp hành, tất cả pháp vô tận hành, hay phá tất cả xan tham hành, hay được tất cả tam muội thần thông hành, hay khiến chúng sanh hoan hỉ hành, nhẫn đến có thể được Bồ đề đạo hành.

Nếu có chúng sanh nghe các hành nầy thì nên biết người nầy có thể phá hoại hằng hà sa các ác nghiệp nhơn duyên, dứt tuyệt ba chướng, chỉ trừ tội ngũ nghịch huỷ báng kinh phương đẳng Đại thừa và chê bai Thánh nhơn. Vì thế nên có người tín tâm hay nghe hay học các hành như vậy, thì người nầy tuỳ ý chứng được tam thừa, chẳng rời thập phương chư Phật, chư Bồ Tát A La Hán, hay thanh tịnh ba nghiệp tuỳ chúng sanh ý. Nên biết người nầy có thể xả thí tất cả nhẫn đến đầu mắt, tất cả các ác độc chẳng gia hại được. Người nầy nếu lúc Thi la Ba la mật thì được đủ nhẫn giới, giới Thánh nhơn ưa, giới Thánh nhơn nhớ, giới đại tịch tĩnh, giới điều phục Phạm, Thích, Tứ Vương, giới điều phục Sát Lợi, Bà La Môn,Tỳ Xá, Thủ Đà, người nầy trọn chẳng tự khen mình mà chê trách người, tâm thường quở trách lợi dưỡng thế gian, ngủ yên thức an, thân không bịnh khổ dễ được uống ăn, mọi người đều thích thấy, lúc chết người ấy được thấy chư Phật, chư Bồ Tát khen rằng: Lành thay lành thay, người khéo trì cấm giới tinh tiến không lười sẽ sanh nước ta, ta có thể làm cho ngươi trụ bực Thập trụ. Do thấy Phật lòng hoan hỷ, do nhơn duyên ấy nên xả thân liền sanh tịnh quốc vị ngang bực Thập trụ nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Người nầy nếu hành Tỳ lê gia Ba la mật thì thành tựu đại lực thân tâm không tật bịnh đi đứng mạnh mẽ, thành tựu Bố thí Giới Ba la mật. Hàng chư Thiên và Bát Bộ Thần đều đến cúng dường, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Nếu lúc hành Sằn đề Ba la mật, được pháp duyên nhẫn, chẳng giác chẳng thấy tất cả chúng sanh. Người nầy nếu bị tất cả chúng sanh cắt thẻo thân thể trọn chẳng sanh một niệm giận thù nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.

Người nầy nếu lúc hành Thiền Ba la mật được pháp duyên thiền định giải thoát, thập phương chư Phật không lúc nào chẳng hộ niệm, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được hàng nhơn thiên cúng dường.

Người nầy nếu lúc hành Bát Nhã Ba la mật, thường được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, thích nơi tịch tĩnh điều phục tâm giới, tỏ rõ thông đạt tất cả pháp giới, tâm không nghi ngại, tất cả nhơn thiên chẳng thể trở ngại phá hoại được tâm người nầy, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề, thường được nhơn thiên cúng dường.

Nầy Hương Tượng Vương! Người thọ trì hành ấy thì qua thế giới Ta Bà không còn kinh sợ.

Nầy Hương Tượng Vương! Nếu là kẻ mà tịnh thế giới không chấp nhận thì đều ở cõi Ta Bà ấy, đó là kẻ phạm tội ngũ nghịch, huỷ báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai Thánh nhơn, phạm tứ trọng cấm. Những kẻ như vậy làm ô nhục thế giới Ta Bà. Phật Thích Ca Mâu Ni vì bổn nguyện nhơn duyên nên hiện thân trong cõi ấy.

Nầy Hương Tượng Vương! Nếu người ác cõi ấy nghe hành nầy thì trong bảy năm tu từ bi tâm lìa bốn lỗi nơi miệng tu tập lục niệm. Người nầy lại phải tự tắm gội sạch sẽ mặc y phục mới sạch hướng về phương Đông chí tâm lễ lạy tụng đại hành đà la ni nhẫn đến bảy năm, tất cả các tội ác đêu tiêu diệt cả. Nếu có nữ nhơn hay hành như vậy liền chuyển thân nữ thành thân nam, nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề”.

Liền noi chú rằng:

Xá la na tỳ xà, thức xoa tỳ xà, mật đề tỳ xà, ba la ha na tỳ xà, luật đề tỳ xà, nhơn đề lợi xà tỳ xà, bà la tỳ xà, bộ trừng già tỳ xà, tam ma đề tỳ xà, đà la ni tỳ xà, xoa đề tỳ xà, trường na tỳ xà, a lưu ba tỳ xà, đà ni xà tỳ xà, mạt lực già tỳ xà, a bí nhã tỳ xà, ba la đề tán tỉ đà tỳ xà, phục di tỳ xà, bí đà tỳ xà, ma ha mế la tỳ xà, ma ha già lưu na tỳ xà, ty lợi si tỉ tỳ xà, tát đoả tỳ xà, đà ma tỳ xà, đa ma tỳ xà, a lộ ca tỳ xà, ba la đề ba sa tỳ xà, ba la đề thủ lục ca tỳ xà, già già na tỳ xà, ma lưu đa tỳ xà, thủ nhã đa tỳ xà, ba la đề đa tỳ xà, a ni mật đa tỳ xà, cụ sa tỳ xà, cần giá na tỳ xà, a tỷ bà sa, a nâu na, a nâu na, a bà ha giá giá, giá giá la tỉ mâu, xoa xà tỉ mâu, a ma tỳ xà tỉ mâu, a tam mâu đà giá la tỉ mâu, xa đà tỉ mâu, a ca xá tỉ mâu, bộ ba xá ma tỉ mâu, a na bà sa tỉ mâu, a ha ha tỉ mâu, a la ba lã tỉ mâu, úc ba xá ma sa lợi la tỉ mâu, sá ha.

Hương Tượng Vương Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi thọ trì đọc tụng thơ tả đại hành đà la ni rồi qua Ta Bà thế giới”.

Cõi ấy còn có vô lượng đại Bồ Tát khởi định đồng bạch Phật Ngũ Công Đức rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn cùng qua Ta Bà thế giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và nghe học kinh điển Đại Tập”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, các ông muốn qua cõi đó thì tuỳ ý, nay chánh là phải lúc. Các ông nên hoa làm thân Thiên Đế Thích”.

Hương Tượng Vương Đại Bồ Tát cùng đại chúng Bồ Tát đều biến thân làm Thiên Đế Thích cùng đến Ta Bà thế giới. Đến nơi rồi, liền mưa các thứ hương xuống Ta Bà thế giới, đó là hương ngưu đầu chiên đàn, hương kiên ngạnh, hương đa ma la bạt, hương trầm thuỷ, hương đa già la để cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật.  

Hương Tượng Vương đại Bồ Tát cúng chúng Bồ Tát từ hư không xuống đầu mặt lễ Phật hữu nhiễu ba vòng ngồi qua một phía.

Tây phương thế giới quá bốn mười hằng hà sa số chư Phật thế giới, có thế giới tên là Kiên Tràng đủ ngủ trược, có Phật hiệu là Cao Quý Đức Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn hiện đương tuyên nói pháp yếu giáo hoá chúng sanh. Có một Bồ Tát tên là Quang Mật Công Đức ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát chúng từ phương Tây đến đi thẳng qua phương Đông?”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Phương Đông quá bốn mười hằng hà sa số chư Phật thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, do nhơn duyên ấy nên Thích Ca Mâu Ni Như Lai vì các chúng sanh tuyên nói diệu pháp tên là Đại Tập phân biệt tam thừa để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam bửu, để phá ma giới, để dựng pháp tràng, ấy tuyên nói pháp tràng đà la ni, nói rồi chư Phật đều trở về bổn trụ xứ.

Thích Ca Như Lai vì chư Bồ Tát chúng Thanh Văn phô diễn tuyên nói tứ vô ngại trí thanh tịnh phạm hạnh.

Nay ông có muốn qua cõi đó để thấy đức Phật Thích Ca chăng? Nay ta cũng muốn giữ dục cho đức Phật ấy. Nói là dục ấy, đó là đoạn nghiệp đà la ni tuỳ vô nguyện định thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến tận trí vô sanh trí được Vô thượng Bồ đề”.

Liền nói chú rằng:

Xá na xá bà, ma xá na xá bà, a bà xoa xá, xoa táp xá bà, giá táp xá bà, thâu lô đa xá bà, kỳ lãng na xá bà, thị chúc bà, ca xà xá bà, ma na xá bà, xoa bà bí đà, giá táp ti lợi si tỉ xoa bà, thâu lô đa a bà xoa bà, kỳ lãng na để kỳ xoa bà, thị chúc bà do xoa bà, ca xa ca lã ma xoa bà, ma na ô xà xoa bà, a lộ ca nhã xà xoa bà, tần xà tán ca la ma xoa bà, an cừu lã khứơc già xoa bà, ma lưu ba tỳ xà xoa bà, xá ma ca xà xoa bà, xoa xà lã sa xoa bà, phiến đa tỳ sa lã xoa bà, na nô na, nê na nô na, a bà nê na nô na, na xà ba na di na nô na, y bàn đô đầu khê tả, sá ha.

Nầy Quang Mật Công Đức! Ông thọ trì đà la ni nầy qua thế giới Ta Bà, trước lễ Phật thăm hỏi mạnh khoẻ rồi tuyên đọc chú ấy.

Quang Mật Công Đức Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đà la ni ấy. Tôi dầu muốn qua đó mà lòng e sợ. Tại sao, tôi có từng nghe đức Thế Tôn nói chúng sanh cõi Ta Bà thành tựu ác kiến nhiều tham sân si tuỳ theo lời nữ nhơn hay mau tạo nghiệp địa ngục A Tỳ”.

Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ông chẳng phải chính là đại kim sí điểu ở tứ thiên hạ giữa hai giới Dục Sắc nơi cõi kia ngày hai mươi mốt khủng bố đại hải sáu vạn bốn ngàn ức các đại Long Vương khiến được quy y Tam bửu Phật, Pháp, Tăng phát tâm Vô thượng Bồ đề ư?”.

Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật dạy, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Quốc độ bị khô hạn, ông chẳng phải là tượng long, mã long, kim sí điểu long trong bảy ngày đêm tuôn mưa lớn và khủng bố các ác long ư?”.

Bồ Tát nói: “Thiệt như lời Phật vừa nói, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương nói: “Nầy Quang Mật Công Đức! Ở trong các ác long như vậy mà ông còn chẳng e sợ, nay duyên cớ gì mà lại e sợ ư?”.

Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Ví như người trí nghe xứ khác có nhiều bửu tàng bèn đến nơi ấy bươi tìm. Bươi lần lần thấy báu lòng rất vui mừng trọn không mỏi nhàm. Nay tôi cũng vậy, nhơn hỏi Phật được nghe thiệt ngữ. Nghe lời Phật rồi tôi được đại thế lực có thể chấp Phật ấn điều phục chúng sanh cõi Ta Bà ấy”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, ta sẽ ban cho ông đại thần chú hay tịnh các nghiệp, hay tịnh nhơn duyên, hay tịnh điều phục, hay tịnh nơi dục, tịnh tăng trưởng, tịnh bình đẳng, tịnh ác phong, tịnh hành, tịnh vô minh, tịnh sanh tử, tịnh tất cả phiền não, tịnh tất cả pháp hữu vi tam giới, tịnh bỉ thử. Đây gọi là thần chú.

Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh cõi ấy được nghe thần chú nầy thì kiết sử thượng trung hạ đều mỏng kém, Sắc giới, Vô Sắc giới phiền não cúng kém mỏng, đều được siêu việt các nghiệp trong hằng hà sa số kiếp, tất cả ngũ đạo thân khẩu ý ác đều khiến thanh tịnh.

Nếu có người nghe học chú nầy thọ trì đọc tụng nhẫn đến bảy ngày chí tâm chẳng quên, nên biết rằng người nầy tất cả tội ác đều tiêu diệt, trừ ngũ nghịch huỷ báng kinh điển phương đẳng Đại thừa, chê bai thánh nhơn, phạm bốn trọng tội. Người nầy cầu mong điều gì nhẫn đến Bồ đề đều tuỳ ý liền được. Nếu người nầy muốn tu hành Đàn Ba la mật nhẫn đến Bát Nhã Ba la mật liền được thành tựu.

Nầy Quang Mật Công Đức! Chúng sanh nơi thế giới Ta Bà kia không có nhơn duyên gì mà phải bị pháp quở trách, tại sao? Vì mười phương thế giới các chúng sanh bị phạt đuổi đều đến sanh trong thế giới Ta Bà. Vì vậy mà họ hay tạo nghiệp ngũ nghịch huỷ báng Đại thừa chê bai thánh nhơn phạm bốn tội trọng. Do nhơn duyên nghiệp ác như vậy nên họ sanh trong ba ác đạo thọ vô lượng khổ. Đã thọ khổ rồi họ lại chẳng thể được pháp thập thiện, vì vậy mà họ lại sanh ở Ta Bà thế giới. Người ấy nếu trước có tu tập thiện căn như tín căn đến huệ căn thì trọn chẳng sanh vào quốc độ tệ ác. Vì họ tạo nghiệp nhơn ác nên sanh nơi ác quốc độ các căn thiếu khuyết tàn tật, thân người chẳng đủ, không có niệm tâm, những món cần dùng và các thứ uống ăn, y phục ngoạ cụ thuốc men phòng nhà đều khó được, thọ mạng ngắn ngủi ngủ thức chẳng yên, trí huệ thiện căn phược đức đều không đủ, sự lành tốt ít có, họ không có tâm từ bi ưa làm việc ác độc, ưa tu ác kiến, thích đọc sách tà luận, ưa tin bạn xấu ác, ưa phát nguyện xấu ác, thân nhiều bịnh dữ, nhiều sự việc ác, thường vui thích thêm lớn nhiều pháp tam ác đạo, kính thờ tà thần, bẩm tánh tệ ác, ưa cợt đùa ganh ghét, thành tựu đầy đủ các nghiệp bất thiện, ưa huỷ báng Tam bửu, thích đi trong ba ác đạo.

Các chúng sanh như vậy nếu được nghe thần chú nầy rồi thì ở trong sanh tử họ sẽ sanh lòng hối rời lìa ác đạo tu tập tín căn đến huệ căn, họ cũng sẽ thích tu hành sáu Ba la mật thanh tịnh phạm hạnh, thêm thọ thêm phước, trừ bịnh ác khổ, trí huệ xí thạnh, thân hậu không giảm, tất cả thiện pháp không có hao tổn, thành tựu đầy đủ pháp thập thiện, thêm thạnh Tam bửu, thích tu pháp hành. Thần chú nầy có thể làm cho các chúng sanh đầy đủ vô lượng thiện pháp như vậy.

Nầy Quang Mật Công Đức! Các chúng sanh cõi Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni , nếu là người thọ trì cấm giới kính tin Tam bửu thưa hỏi diệu pháp đọc tụng thơ tả được tâm hoan hỉ, do nhơn duyên ấy liền được qua khỏi nghiệp ba ác đạo, nếu có tội trọng ácvị lai thì hiện tại thọ, hoặc hơi nhức đầu, hoặc mất tài vật, hoặc quyến thuộc hư lìa, danh xấu đồn xa, hoặc bị đánh mắng thì được trừ khỏi.

Thần chú nay hay phá tất cả ác nghiệp đã có, hay làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay làm đại quang minh, được đại niệm tâm, làm đại tịch tĩnh. Người nầy thường được thập phương chư Phật, chư Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác hộ niệm, được Thiên, Long, Quỷ, Thần thường ủng hộ. Lúc lâm chung, người nầy thấy thập phương chư Phật, nghe Phật thuyết pháp, chư Phật khen rằng: Lành thay lành thay, nhà người đến sanh trong quốc độ tịnh diệu của ta, ta có thể khiến ngươi mau trụ bực Thập địa. Người nầy nghe lời Phật nói liền sanh lòng hoan hỉ. Vì tâm hoan hỉ nên được thâm tín, do đây được sanh nơi quốc độ tịnh diệu. Sanh rồi liền lên bực Thập trụ được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Quang Mật Công Đức! Ông nên thọ trì thần chú nầy đọc tụng thông thuộc qua Ta Bà thế giới, trước thăm hỏi lễ kính Thích Ca Mâu Ni Như Lai rồi sau tuyên đọc đó”.

Đức Phật Cao Quý Đức Vương liền nói chú rằng:

Khước già ba lợi xa đà, kiệt bà xoa tư, kiệt bà linh, bí đà ba lã bà già sai, xoa bà du kỳ, ba lã đề ha linh, xa ma na tư ca đề, tam ma mế già thọ tỉ, ha xoa xà na để, xoa bà bà kỳ, ni đà na xà tỉ, tam ma na xà tỉ, a đà xá xà xà tỉ, tỉ ba lã bà xà tỉ, tư xoa xà tỉ, tư nhã xà bà xà tỉ, xa lợi la cừu ha xà tỉ, sa la cừu ha xà tỉ, xí bà na câu thi, sa đà na câu bạc, tư bà đà na đề, tỉ bà ba lã la để, ưu ba ca la ma na đề, a na bà đá la xí, ba la đề ca lã mế na, ba ca tha thi, bà lô giá na bà mế ca lã tha đà linh, ca ma sa thi, a xá khước kỳ, na xà quân kỳ, bí đà bà ninh, cơ ly na bà ninh, lưu giá bà ninh, bà mế ma ca linh, xá lợi xà bà ninh, ma già xà tỉ, ha lợi câu na bà, na xà na mục xí, sa la xoa câu la, na xà na thọ linh, nhơn đà la bà sa ninh, ô a, a bà a, a lã bà a, bà lã a bà lã lã, bà mế già đậu khê ni đề la niết bàn hi, sá ha.

Đức Cao Quý Đức Vương Như Lai nói thần chú xong, Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đa la ni ấy sẽ qua Ta Bà thế giới tuyên đọc điều phục chúng sanh”.

Còn có vô lượng Bồ Tát đại chúng đồng thanh nói: “Lành thay lành thay, hôm nay chúng tôi cũng đều muốn qua thế giới đó”.

Đức Phật nói: “Đã phải lúc, các ông có qua đó thì nên biến làm thân Na La Diên”.

Quang Mật Công Đức đại Bồ Tát và đại chúng Bồ Tát tất cả biến thân làm Na La Diên đồng đến Ta Bà thế giới. Đến rồi mưa cát vàng ròng mịn nhuyễn để cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni rồi từ hư không xuống đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

Phương Bắc quá tám vạn hằng ha sa số thế giới chư Phật, có thế giới tên là Phổ Hương Thân đủ ngũ trược, Phật hiệu là Đức Hoa Mật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn hiện tại vì chúng sanh thuyết pháp giáo hoá. Có Bồ Tát tên là Hư Không Mật ngước nhìn hư không thấy vô lượng Bồ Tát từ Bắc phương đến đi thẳng qua phương Nam liền bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà vô lượng Bồ Tát từ phương Bắc đến đi thẳng qua Nam phương?”.

Đức Phật nói: “Nầy Hư Không Mật! Phương Nam quá tám vạn hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiện tại vì chúng sanh tuyên nói diệu pháp phân biệt tam thừa dựng pháp tràng rộng nói pháp tụ. Thập phương chư Phật đều tập hội cõi ấy vì chư Bồ Tát giải nói bửu tràng đà la ni rồi đều trở về bổn trụ xứ. Thích Ca Như Lai vẫn vì đại chúng Bồ Tát Thanh Văn tuyên nói pháp yếu có nhiều lời bí mật cam lồ. Nếu muốn nghe thì nên qu cõi đó.

Thích Ca Như Lai thường phát đại nguyện, nếu có thập phương chư Bồ Tát đến nghe ta nói pháp liền được mười tám pháp bất cộng. Lại nguyện rằng lúc ta thành Phật rồi nguyện đất đai cõi ta có đủ thượng vị. Chư Bồ Tát cõi ấy có đại niệm tâm tinh tiến trì giới trí huệ đầy đủ như ở thế giới thanh tịnh chư Phật, tu tập đầy đủ thiền định, lúc nhập thiền định thân họ phóng quang minh hoặc sáng như một ngọn đèn nhẫn đến sáng như trăm ngàn vô lượng nhựt nguyệt. Họ đều tập hội nghe Phật thuyết pháp. Hoặc có thập phương chư Bồ Tát chúng khởi định đều đến cõi ấy kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai lắng nghe đà la ni du hí thần thông.

Nầy Hư Không Mật! Chúng sanh thế giới Ta Bà thọ mạng ngăn ngủi nhiều ác bịnh, trí huệ thiện căn phước đức thiện hành thảy đều kém mỏng, họ chẳng biết sợ ba ác đạo khổ, họ tham trước của cải tâm chẳng thanh tịnh, lòng nhiều tật đố không có tàm quý, ưa làm mười điều ác, các chúng sanh ấy hoặc có tạp hành sau khi xả thân liền ở cõi ấy làm đại ác quỉ nhẫn đến làm ác ca na, phú đơn na, họ làm ác quỷ rồi thâu lấy vị đất nhẫn đến tất cả các vị dưa trái, lúa gạo, cỏ cây,ai ăn thứ ấy thì sanh ác bịnh thân mất thể lực. Các ác quỷ ấy thường rình chúng sanh lúc sơ sanh lúc trưởng đại có thể cướp mất tánh mạng, đây cũng là một cớ mà chúng sanh cõi ấy đoản thọ.

Nầy Hư Không Mật! Trước kia lúc ta tu tập Bồ đề đạo cũng thường phát nguyện tôi đời vị lai thường siêng tinh tiến chẳng thôi chẳng nghỉ cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nghe học chánh pháp thưa hỏi thâm nghĩa. Tôi sẽ thế nào thủ hộ người ở thai khiến mẹ con kia sản sanh yên ổn. Hoặc Trời, Rồng Quỷ Thần, hoặc Quỷ La Sát, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, hoặc Câu Biện Trà, Lệ Lê Đa, Tỳ Xá Giá, Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Thọ Đa La, A Vệ Mạt La, hoặc nhứt hành đến tứ hành, hoặc quỷ khởi thi, hoặc độc cổ, hoặc ác độc dược xúc thân tâm, các độc sự như vậy không làm tổn hại được mẹ con ấy, nhẫn đến lúc bú mớm ăn uống nuôi lớn khôn cũng chẳng làm hại được, cũng chẳng khiến tâm loạn trược được, cho đến trong giấc mộng cũng không làm tổn não được, thường hành thập thiện, thích bố thí, thích trì giới, với ba ác đạo lòng sanh bố uý, có chú dược nào hay xong những sự việc như vậy. Lúc bấy giờ vô lượng Phật liền ban cho ta tịnh đà la ni. Do sức lực của đà la ni ấy khiến ta thuở trước trong vô lượng đời điều phục vô lượng vô số chúng sanh khuyên họ thật hành sáu Ba la mật.

Trong vô lượng vô số đời trước ta thường nghĩ nhớ xứ nào có nữ nhơn chửa nghén để phòng ngăn ác quỷ nhẫn đến độc dược. Ta đến chỗ họ dạy tam quy y. Dạy họ tam quy rồi tất cả ác quỷ độc dược chẳng làm hại được. Đứa con sanh ra thường được thiện tâm trí huệ đầy đủ thân thể không thiếu khuyết, lúc nó du hành thường được vô lượng thiện thần ủng hộ, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy, ưa tu từ bi, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, ở nơi tịch tĩnh thích tu thiền định, gần thiện tri thức có đủ trí huệ, phá các khổ não nhàm lìa sanh tử ưa mến Niết bàn, tất cả thiên thần quỷ thích cúng dường. Nếu nó phát tâm Vô thượng Bồ đề thì được Bồ đề Vô thượng, nếu phát tâm Bích Chi Phật thì được Bích Chi Phật đạo, nếu phát tâm Thanh Văn thì được như thiệt nhẫn. Các chúng sanh ấy xa lìa hẳn ba ác đạo thường đi trong thiện đạo.

Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh vì Vô thượng Bồ đề.

Nầy Hư Không Mật! Nếu có chúng sanh bị bịnh rất nặng, lấy da sư tử tụng chú nầy vào rồi trao cho người bịnh. Nếu không có da thì dùng thịt hoặc xương. Nếu không có thịt xương sư tử thì dùng phẩn hoặc chỗ đất mà sư tử đái. Nếu không có phẩn có đất ấy thì tụng chú cột gút hoặc làm sách bùa trao cho người bịnh, thì bịnh liền lành. Nếu cây không trổ hoa trái thì tụng chú vào nước mưa rồi xối tưới, cây ấy liền có bông trái. Hoặc lúc hạn khô, tìm tim rùa tụng chú năm biến đem đặt trong long tuyền thì trời sẽ mưa lớn. Hoặc lúc mưa nhiều lũ lụt hại lúa mạ thành ấp tụ lạc, tìm da mãng xà tụng chú bảy biến đem đặt trong long tuyền thì mưa liền dứt. Nếu quốc độ nhiều tướng quái dị, ác phong, ác vũ, ác tinh nhựt nguyệt, thì nên bảy ngày tắm gội sạch sẽ ăn cháo sữa, trong bảy ngày đọc tụng chú nầy thì các tướng quái di liền tiêu diệt.

Nầy Hư Không Mật! Nếu có người nghe đà la ni nầy thì bao nhiều phiền não đều nhẹ mỏng nhập chánh định tụ.

Ta dùng vô lượng phương tiện như vậy điều phục chúng sanh khiến họ tu tập sáu Ba la mật nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Hư Không Mật! Đà la ni nầy có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, hay dứt tất cả các ác trọng bịnh, hay thủ hộ tất cả nữ nhơn thai nghén và kẻ ở trong thai, hay dứt tất cả kiết sử biết ấm nhập giới, xô dẹp bốn ma cảnh giới, hay làm cho tất cả chư Thiên hoan hỉ, khiến các ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay làm các ác long kinh sợ, hay phá tất cả các luận tà ác khiến hàng tứ tánh hoan hỉ, hay khiến nữ nhơn trừ dứt tâm tham, khiến người đa văn niệm tâm vững chắc, người toạ thiền tâm được thiện tịch, hay trừ tất cả tướng xấu trong quốc độ, hay làm cho chủng tánh Tam bửu không đoạn tuyệt, hay làm cho pháp giới tăng trưởng không giảm, hay làm cho Phật pháp lưu bố khắp nơi, hay phá tất cả khối si vô minh, hay được tận trí vô sanh trí. Tất cánh hết khổ, đây gọi là chú”.

Đức Phật Đức Hoa Mật Như Lai liền nói đà la ni chú:

Ma na xoa, a bà xoa, già la bà xoa, xà la xoa, ma ma na xoa, ma đà xoa, na đồ xoa, na đồ la hưu, tỉ bà na tra, khước già na tra, a tra na tra, cứu na tra, ba lợi cứu bà na tra, na đồ na tra, phú lợi ca na tra, ưu đa la na tra, già tỳ na tra, quân xà na tra, a mục khê na tra, giá phàm bà la na tra, khước kìm bà la na tra. phật ca la na tra, đế bà lưu đà lã na tra, ma la xà na tra, thi lợi câu bà na tra, kiêu đa tra, đa đồ la bà, ma lưu đa khước bà, đề hưu xoa, bà đề lã thù, toá ma na thù, bà ha na phú trí, tán đề lã xà bà, a ma ma xà bà, ma hưu la già xà la, a niết na, a niết na lã bà, a niết na xoa, a bà ha mạt lực già niết na xoa, y bàn đô đậu khư tả, sá ha.

Lúc Phật nói chú ấy, trong đại chúng kia có sáu vạn ức người được như pháp nhẫn. Lại có sáu vạn người nhập chánh định tụ.

“Nầy Hư Không Mật! Nay ta dùng tịnh đà la ni nây giữ dục cho Phật Thích Ca Mâu Ni, ông nên thọ trì phúng tụng thơ tả”.

Hư Không Mật đại Bồ Tát kính vâng lời Phật thọ trì thơ tả đà la ni ấy rồi cùng vô lượng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới, tất cả đều biến thân làm Chuyển Luân Vương, dâng các thứ châu báu cúng dường Phật, đầu mặt kính lễ hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.

Vua Tần Bà Sa La thấy vô lượng Bồ Tát hoặc là Phạm Vương, hoặc là Thiên Đế Thích, hoặc là Na La Diên, hoặc là Chuyển Luân Vương, từ bốn phương đến tập hội, vua liền đứng dậy cung kính chắp tay.

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy