× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 59 LIX. PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC - THỨ NĂM MƯƠI CHÍN (3)

Gió của chúng sanh cũng như vậy, cùng chung tứ đại mà hiện hành.

Lúc sanh Ca la la chín lỗ đến chín vạn chín ngàn lỗ. Các lỗ ra vào không có tác giả không có thọ giả, chỉ là gió ra vào khối thịt như vậy.

Do nhơn duyên ấy mà có vô minh đến lão tử các khổ tụ họp.

Nầy thiên nam tử! Ví như hư không không có vật không có ngã. Cũng vậy, các hơi thở ra vào địa thuỷ hỏa phong thọ mạng noãn ấm thức tâm vô minh đến sanh lão bịnh tử cũng không có ngã không có vật.

Chúng sanh mê lầm điên đảo ở trong chẳng phải ngã mà lầm thấy ngã, trong chẳng phải vật mà lầm thấy vật. Nơi những thứ đồng hư không mà tưởng ấm nhập giới. Do điên đảo mê lầm như vậy mà phàm phu luân chuyển sanh tử không có cùng tận.

Nếu Tỳ Kheo quán hơi thở ấy lạnh thì cả thân lạnh, nếu quán hơi thở ấy ấm nóng thì cả thân ấm nóng. Thân thể lúc ấy theo ý theo hơi gió.

Nếu lúc quán lạnh mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào lãnh địa ngục.

Nếu lúc quán nóng mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào nhiệt địa ngục.

Nếu đệ tử Phật tu tập pháp hành lúc quán hơi thở ra vào lạnh hay nóng thì được chánh đạo.

Pháp hành Tỳ Kheo như thiệt quán sát vô minh đến sanh lão bịnh tử, tâm chẳng điên đảo thì gọi là Tịnh Mục đà la ni vậy.

Nầy thiện nam tử! Nếu ông có thể học đà la ni ấy, tức là chơn thiệt quán xuất nhập tức”.

Bửu Tràng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác đến được”.

Tứ Đại Thiên Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào có lưu bố kinh điển nầy, chúng tôi cần phải theo hầu thủ hộ, bao nhiêu ác sự đều làm cho tiêu diệt”.

Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn nơi các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật tu hành pháp hạnh nên khiến Diêm Phù Đề không có tật dịch đói kém và các ác sự.

Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, nếu có tứ tánh chúng sanh cung kính cúng dường thì được bao nhiêu phước đức?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, tuỳ xứ nào có Bồ Tát ấy ở thì xứ ấy có đủ tám sự lành cao thượng.

Một là nhơn dân xứ ấy cúng dường cha mẹ, tăng trưởng tàm quí, cung kính Sa Môn các Bà La Môn, bực kỳ cựu có đức thọ trì cấm giới.

Nầy Đại Vương! Xứ nào có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng thì nhơn dân xứ ấy thành tựu sự lành tốt ban đầu như vậy.

Hai là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tu tập từ tâm xa lìa sát hại, lòng họ điều nhu không có tham dục sân hận mà thường bình đẳng không hai.

Ba là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không tham gian, ưa thích bố thí, quở trách trộm cắp.

Bốn là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy vợ chồng trinh chánh, quở trách gian dâm phi pháp.

Năm là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chơn ngữ, thiệt ngữ, hoà hiệp ngữ, nhu hoà ngữ, quở trách vọng ngôn, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ.

Sáu là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không có lòng ganh tỵ ghét ghen ác độc.

Bảy là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chánh kiến chẳng mê lầm, không có tà kiến.

Tám là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tất cả cung kính cúng dường Tam bửu xa lìa ác kiến.

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy không có tám sự bố uý.

Một là không có sự bố uý về binh cách trong nước và ngoài nước.

Hai là không có bố uý về ác quỉ.

Ba là không có bố uý về ác tinh tú.

Bốn là không có bố uý về ác bịnh.

Năm là không có bố uý về ác thú.

Sáu là không có bố uý về ác tặc.

Bảy là không có bố uý về hạn khô và lụt lũ.

Tám là không có bố uý về thiếu lương thực.

 

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì xứ ấy có tám hạng đại trượng phu:

Một là có các chúng sanh từ quá khứ ở chỗ vô lượng Phật vun trồng thiện căn thích sanh vào xứ ấy.

Hai là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu trì tịnh giới và đa văn thích sanh vào xứ ấy.

Ba là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ hiếu kính cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng kỳ cựu bực có đức thích sanh vào xứ ấy.

Bốn là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu tập nghiệp trời sẽ thọ thân trời mà cố ý chuyển báo trời thích sanh vào xứ ấy.

Năm là có các chúng sanh hay phá trừ ác nghiệp ba ác thú thích sanh vào xứ ấy.

Sáu là có các chúng sanh đủ pháp Thanh Văn thừa thích sanh vào xứ ấy.

Bảy là có các chúng sanh đủ pháp Duyên Giác thừa thích sanh vào xứ ấy.

Tám là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu sáu Ba la mật thích sanh vào xứ ấy.

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy đất đai mầu mỡ, nước dùng lành tốt, có pháp vị vô thượng, tất cả nhơn dân cùng mọi loài có lòng thân yêu nhau, xả thân hiện tại đều được sanh cõi trời được Thiên thân.

Nầy Đại Vương! Như một cái hộp đựng bốn thứ hương thơm là trầm thuỷ hương, đa già la hương, ngưu đầu chiên đàn hương và đa ma la diệp hương. Bốn thứ hương ấy hiệp có bốn lượng. Có người trong tứ tánh đem bốn thứ y phục để vào hộp hương ấy được vài ngày rồi mỗi người mỗi tánh tự cầm y phục của mình mà đi.

Bốn thứ hương ấy vẫn còn đủ phân lượng, không có hao tổn, mà trong các y phục ấy đều có mùi thơm của hương.

Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy thành tựu các thứ công đức, mà Bồ Tát ấy không có tổn giảm”.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tứ vô lượng tâm bất khả tư nghị. Tại sao, vì đại Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng mà có thể làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được lợi ích lớn”.

Bây giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Quang nói với Vô Thắng Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Nay Ngài đã được lợi ích vô thượng. Tại sao, vì Ngài thường tu tập tứ vô lượng tâm vậy.

Vô Thắng Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ ! Nay tôi thế nào được đại lợi ích! Vì trong pháp như vậy không có tác không có thọ, không có giác không có tri không có kiến, không có thử không có bỉ.

Như có người nói tôi có thể đem anh lạc trang nghiêm khắp hư không. Dầu nói như vậy mà chơn thiệt chẳng thể trang nghiêm hư không được.

Tất cả các pháp cũng như hư không, không có xuất không có hoại, không sanh không diệt, không nơi chỗ, không có giác quán, là tịnh tam muội giải thoát không có tướng không có tác không có nguyện. Pháp giới như vậy không có chuyển đổi, không có tan rã, không có hiệp tụ, không có chướng ngại, không có trược, không có biên dường như hư không, không có hòa hiệp, không có mong muốn, không có tánh, không thấy không nói, pháp tánh không số không ít không nhiều, không có cảnh giới, không có hai, không thủ trước, không lượng, không sắc không thanh tịch tĩnh, không biến đổi không biên lượng, dường như hư không, không sánh, không hơn, không thường không đoạn, khó thấy khó biết, khó tư duy được, kiên cố không có hành, không có sân hận, nhiếp chư Phật giới, đây gọi là phạm hạnh, gọi là Tứ vô lượng, Như Lai tu tập tâm không có nhàm đủ siêng tu tinh tiến, đây gọi là Phật pháp, là đại tín, đại niệm, đại bất phóng dật, chí tâm chẳng quên.

Nếu đại Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức là đại Bồ Tát tu hành thậm thâm pháp giới. Bồ Tát như vậy gần nhập vô sanh pháp nhẫn hành sáu Ba la mật hộ trì chư Phật pháp. Bôt Tát như vậy đã gần đệ tam như pháp pháp nhẫn chơn thiệt thấy thân Phật, hay phá ma chúng trừ tà đạo qua sông sanh tử vào biển đại trí, thông đạt tất cả cảnh giới chư Phật, trang nghiêm tất cả công đức chư Phật. Bồ Tát như vậy có sắc thân chủng tánh tài vật đều hơn các chúng sanh. Thứ đệ sẽ ngồi pháp toạ Như Lai, đầy đủ tất cả tam muội tổng trì, chẳng bị tất cả Thánh nhơn khinh, được hàng Duyên Giác tán thán, thường được chư Phật hộ niệm, hay hiểu ngữ ngôn của các loài chúng sanh trong tất cả quốc độ, trong tất cả pháp chẳng thấy người thọ người thí, cũng không thấy có người nói người nghe pháp, không có tác giả không có thọ giả, dường như hư không”.

Tịnh Quang Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Vì lẽ như vậy nên tôi nói Ngài thành tựu vô lượng công đức. Tại sao, vì đã trong vô lượng vô biên đời siêng tu tinh tiến vậy.

Thưa Đại Sĩ! Nếu đức Phật có được Thập lực, Tứ vô sở uý, Thập bát bất cộng pháp, xuất gia khổ hạnh ngồi cội Bồ đề thành Chánh giác chuyển diệu Pháp luân hiện đại thần thông nhập đại Niết bàn, tất cả đều do tu Tứ vô lượng tâm, như vậy tức là Tứ vô lượng quả.

Vì nghĩa như trên nên các thiện nam tử các thiện nữ nhơn phải nên tu tập Tứ vô lượng tâm”.

Lúc nói pháp ấy, có hai vạn chúng sanh được tuỳ từ nhẫn, vô lượng chúng sanh đủ tứ vô lượng tâm, tất cả đại chúng hoan hỷ đồng cúng dường Phật.

Lúc bấy giờ có một đồng tử Bồ Tát tên Vô Thắng Ý quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ vô lượng tâm có những tướng gì? Có những thể gì? Những nhơn duyên gì? Những quả báo gì? Thế nào là đầy đủ?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Vô Thắng Ý có thể hỏi nghĩa thậm thâm như vậy”.

Như Lai liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Điều phục chúng sanh vô sở uý cụ.

Nhập tam muội rồi từ nhục kế Phật phóng đại quang minh. Ánh sáng ấy rất mạnh có các màu sắc chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới, phát ra diệu âm thanh nói kệ rằng:

Trong sình lầy mọc hoa sen đẹp

Cũng còn mọc lên các thứ hoa

Chúng sanh mang lấy cúng dường Phật

Và cùng tất cả chư thiên thần

Tất cả ác quốc cũng như vậy

Sanh các thánh nhơn đại Bồ Tát

Hay điều chúng sanh rất khó điều

Dường như chúng sanh cúng dường hoa

Ta Bà thế giới ngũ trược ác

Trong ấy Thích Ca tuyên nói pháp

Nếu muốn có được vô lượng lợi

Phải nên đến cõi Ta Bà kia.

Các chúng sanh trong vô lượng thế giới nghe tiếng nói kệ ấy đều cúng dường Phật Thế Tôn ở cõi mình. Cúng dường rồi thừa thần lực Phật đều đến tập hội tại Ta Bà thế giới, đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi một phía. Bấy giờ trong Đại Bửu Phường Đình khắp đầy vô lượng chúng sanh.

Các chúng sanh ấy đều riêng tự nghĩ rằng: riêng mình ta đến đây cúng dường Như Lai, riêng mình ta ở trước Phật thưa hỏi chánh pháp, đức Như Lai chỉ riêng mình ta mà thuyết pháp.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy thiện nam tử! Từ có ba thứ. Đó là chúng sanh duyên từ, pháp duyên từ và vô duyên từ.

Chúng sanh duyên là duyên nơi ngũ hữu.

Nếu pháp hành Bồ Tát muốn được đầy đủ sáu Ba la mật, đại từ đại bi, Bồ Tát thập địa mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề chuyển chánh pháp luân, điều phục vô lượng vô biên chúng sanh qua khỏi sông lớn sanh tử không bờ, muốn phá ác ma bạn đảng, nhập đại Niết bàn, thì nên tu tập Tứ vô lượng tâm.

Phải tu tập thế nào?

Nếu đại Bồ Tát vì hạ phương chúng sanh đến thượng phương chúng sanh mà tu tập tâm từ nầy, xem chúng sanh như cha, như mẹ, như Sư trưởng, như Hoà thượng, như Phật Thế Tôn, như Thanh Văn Duyên Giác.

Lúc tu như vậy nên tư duy như vầy: Nếu có chúng sanh vô cớ với tôi mà khởi sự ác hại, nếu tôi có lòng giận hờn chúng sanh ấy thì sẽ bị thập phương chư Phật thấy biết sẽ bị quở trách rất đáng hổ thẹn. Chư Phật sẽ quở tôi rằng: Sao người ấy vì Vô thượng Bồ đề mà chẳng tự điều phục được tâm mình. Người ấy khác gì người không có chưn cẳng mà muốn đến Bắc Uất Đơn Việt, như người mù muốn đọc sách, như người không có tay mà muốn cầm nắm, xa lìa từ tâm mà muốn được Vô thượng Bồ đề cũng như vậy. Nếu chẳng dứt được lòng sân hận còn chẳng thể được Thanh Văn Bồ đề, huống là Vô thượng Bồ đề. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ bị chư Phật, chư Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên Long, Bát Bộ quở trách. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ mắc đại tội thọ khổ địa ngục, chẳng được lợi ích hiện tại và vị lai, vì vậy nên phải tu tập từ tâm.

Pháp hành Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: nếu có ai đối với ta đã làm các sự ác, hoặc đương làm hay muốn làm, hoặc đem sự ác gia nơi người thân của ta, cũng phải tư duy như trước.

Quán như vậy rồi, Bồ Tát trước tiên đối với chúng sanh một phương mà tu từ tâm, lần lần đến cả mười phương.

Đây gọi là Bồ Tát tâm từ duyên nơi chúng sanh.

Trong đại hội có một Thiên tử tên là Minh Tinh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát sơ tu từ tâm. Tâm từ ấy có những quả gì? Hiện tại và vị lai thành tựu bao nhiêu phước đức?

Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát tu tập từ tâm như vậy còn phải đoạ ba ác đạo nữa chăng?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Thưở xưa ông đã cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy. Ông đã vun trồng thiện căn kiên cố, trong vô lượng đời tu tập tâm từ, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy.

Nầy thiện nam tử! Lắng nghe lắng nghe, nay Phật sẽ vì ông phân biệt giải nói.

Nếu có Bồ Tát tu tâm từ như trước đây ta đã nói, người nầy thì được thức ngủ an lành chẳng thấy ác mộng, những vật cần dùng không thiếu, chư Thiên thủ hộ, Nhơn Thiên đều thích thấy. Người nầy chẳng nghe tiếng ác, thân chẳng có ác bịnh, thường thích tịch tĩnh siêng tu tinh tiến, thích học chánh pháp thấy biết vô ngã, thường được Quốc chủ Sa Môn phạm chí nam nữ lớn nhỏ nhẩn đến điểu thú cúng dường. Người nầy thường thân cận bạn lành đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Người nầy thích ban cho, hay độ chúng sanh, những thiện tâm được có không bị tam độc phá hoại. Danh tiếng tốt của người nầy lưu bố bốn phương, hay trị lành ác bịnh của chúng sanh, hay khiến chúng sanh xa lìa các sự khổ, hay giải hệ phược cho chúng sanh, hay điều phục phiền não cho chúng sanh, hay phá tất cả ác kiến dị kiến, hay ban cho chúng sanh tín tâm niệm tâm, đại trí huệ tâm, trụ vững Đại thừa không gì lay động được, chẳng theo lời người, hay trừ thân khẩu ý ác của chúng sanh, hay dứt chúng sanh ba thứ nghiệp chướng chỉ trừ tội ngũ nghịch, tội phỉ báng chánh pháp Đại thừa, phỉ báng bực Hiền Thánh, tội trộm cướp tài vật tứ phương Tăng.

Nầy thiện nam tử! Bồ Tát nếu có thể tu tâm từ như vậy, lúc lâm chung diện kiến thập phương chư Phật Thế Tôn tay xoa đầu, vì tay Phật chạm nên lòng người nầy vui mừng, vì lòng vui mừng nên được vãng sanh quốc độ của Phật ấy, cũng nghe những lời thiện diệu như vầy: Chớ có sợ chớ có sợ! Ngươi là người thuần thiện tu tâm từ quyết định sanh vào Phật độ thanh tịnh, thấy vô lượng chư Phật Thế Tôn, lìa xa ba ác đạo, cứu cánh nhập Niết bàn. Người nầy cũng nghe lời thiện diệu nói pháp duyên từ và vô duyên từ, cũng được đầy đủ tứ vô lượng tâm đến được Vô thượng Bồ đề”.

Thiên Tử Minh Tinh nghe pháp ấy liền được xuất nhập tự tại các thiền định.

Vô Thắng Ý Bồ Tát hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thiên Tử ấy do sức gì mà ở nơi các thiền định nhập mau xuất mau như vậy?”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Minh Tinh Thiên Tử đã ở chỗ vô lượng chư Phật Như Lai trồng các căn lành, đã ở trong vô lượng đời tu từ tâm pháp duyên. Do bổn nguyện nên sanh cõi Trời Tứ Vương Thiên, cách phía trước Trời Nhựt Thiên mười ngàn do tuần. Cung điện của trời ấy ngang rộng ba vạn hai ngàn do tuần, lưu ly làm nền, trước sau tả hữu đầy mười do tuần, có chư Thiên nam nữ cùng vây quanh. Minh Tinh Thiên Tử ở trong cung ấy xa cách quyến thuộc ba do tuần, một mình ngồi giường báu xuất nhập thiền định một ngày một đêm.

Tứ thiên hạ đây có tám mươi xứ trời, sáu mười xứ rồng, bốn xứ A Tu La, bốn xứ Ca Lâu La, năm mươi hai xứ Khẩn Na La, bốn mươi sáu xứ Ma Hầu La Già, tám xứ Cưu Bàn Trà, ba mươi xứ Phú Đơn Na, ba mươi xứ Tỳ Xá  Xà. Tất cả xứ ấy, Minh Tinh Thiên Tử đều có thể điều phục cả.

Chúng sanh như vậy do bổn nguyện lực từ xưa đã phát thệ, Diêm Phù Đề nầy qua canh năm, còn dư một phần đêm, sẽ ở trước mặt nhựt mười ngàn do tuần, làm tướng sáng phá tối Diêm Phù Đề. Nếu các thiện chúng sanh ở Diêm Phù Đề muốn khỏi sanh tử mà tu thiền định, thì Thiên Tử Minh Tinh sẽ vì người ấy mà trừ bỏ ngủ nghỉ ban cho niệm tâm. Nếu muốn thấy thì Thiên Tử ấy sẽ hiện hình Hoà thượng, Sư trưởng, cha mẹ. Nếu có phàm phu tu tập pháp ngoại tà, Thiên Tử ấy sẽ phá hoại tà tâm mà chỉ dẫn chánh đạo, nếu có chúng sanh ở nơi việc thế gian việc xuất thế gian mà giải đãi, Thiên Tử ấy sẽ cho thấy, thấy rồi từ bỏ giải đãi siêng tu sự nghiệp. Nếu có chúng sanh mê mất chánh lộ lúc được thấy Thiên Tử ấy thì thấy chánh đạo trở lại. Nếu có chúng sanh thân mắc bịnh nặng, được thấy Thiên Tử ấy thì bớt hết đau khổ ngủ yên vui vẻ. Nếu có người già nhiều bịnh hay quên mà được thấy Thiên Tử ấy thì lại được niệm tâm. Lúc Thiên Tử ấy xuất hiện có thể làm cho chúng sanh nhiếp tâm niệm pháp lành. Nếu có chúng sanh lúc lâm chung, một niệm sau cùng, Thiên Tử vì người ấy nói kinh Đại thừa, nghe rồi thấy tượng Phật liền được vãng sanh quốc độ thanh tịnh. Nếu có người hoặc cầu Thanh Văn hoặc cầu Duyên Giác, Thiên Tử ấy sẽ vì họ mà nói pháp Thanh Văn hoặc pháp Duyên Giác. Nếu có chúng sanh có ba ác nghiệp nghe Thiên Tử ấy thuyết pháp thì ác nghiệp liền tiêu. Thiên Tử ấy do bổn nguyện lực thường tu hành sáu Ba la mật đến thành Vô thượng Bồ đề”.

Minh Tinh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà nói đà la ni”.

Liền nói chú rằng:

Lô giá na, lô giá na, lô giá na, ba la xoa rũ, sa la xoa rũ, sa la xoa sá, a bà ha ha, a bà trì trà, a bà xà bà, a bà xoa na, a xoa xoa xoa xoa, phú la bà lã, a bà xoa xoa, a bà xà bà, ma ha ca ba, a bà a bà ma ha sa ma, tần đậu, sa xà yết ba, a hoa, a hoa, ha ha ni ma, mạt lã sa luật xà, ca lưu na xà la, sá ha.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hoặc nam hoặc nữ hoặc lớn hoặc nhỏ, nếu ai chí tâm niệm sự của tôi, người ấy thì được thanh tịnh các nghiệp, thần thông, thí, giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và giải thoát cùng Phật độ tứ vô ngại trí. Những người ấy nếu chẳng thành tựu các sự như vậy, thì là tôi khi dối thập phương chư Phật, đời vị lai cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn dân các Phật thế giới phương khác thường nói rằng Ta Bà thế giới tạp uế bất tịnh. Nhưng nay tôi thường thấy thanh tịnh”.

Đức Phật nói: “Đúng như vậy, đúng như vậy. Nầy thiện nam tử! Đúng như lời ông nói.

Trong thế giới nầy có chư Bồ Tát hoặc làm thân Trời điều phục chúng sanh, hoặc làm thân Rồng, thân Quỉ, hoặc làm thân A Tu La, thân Ca Lâu La, thân Khẩn Na La, thân Càn Thát Bà, thân Ma Hầu La Già điều phục chúng sanh. Có Bồ Tát làm thân Dạ Xoa, thân Cưu Bàn Trà, thân Tỳ Xá Xà, thân Lệ Tiết Đà, thân thú, thân chim đi trong Diêm Phù Đề để giáo hoá các chủng loại chúng sanh như vậy.

Nầy Vô Thắng Ý! Nếu làm nhơn thiên điều phục chúng sanh không lấy gì làm khó. Nếu làm súc sanh để điều phục chúng sanh thì rất khó.

Nầy Vô Thắng Ý! Ngoài Diêm Phù Đề trong biển phía Đông có núi lưu ly tên là Triều Sơn cao hai mươi do tuần đủ các thứ bửu, núi ấy có hang tên là Chủng Chủng Sắc, nơi ấy là chỗ ở xưa của Bồ Tát. Hang ấy rộng một do tuần cao sáu do tuần có một độc xà ở trong ấy tu tâm từ Thanh Văn. Núi ấy còn có một hang tên là Vô Tử cao rộng cũng như hang trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, nơi đây có một con ngựa tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Thiện Trụ Xứ, cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con dê tu tâm từ Thanh Văn.

Thọ thần nữ của núi ấy tên là Vô Thắng, có La Sát nữ tên là Thiện Hành, đều có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn cùng đồng thường cúng dường ba thứ ấy.

Ngoài Diêm Phù Đề phương Nam trong biển có núi pha lê cao hai mươi do tuần, có hang tên là Thượng Sắc cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một di hầu tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên Thệ Nguyện cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con gà tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Pháp Sàng cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con chó tu tâm từ Thanh Văn.

Núi ấy có Hoả Thần nữ và La Sát nữ tên là Nhãn Kiến đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường hai thú một chim ấy.

Phương Tây ngoài Diêm Phù Đề, trong biển có núi bạch ngân tên là Bồ Đề Nguyệt cao hai mươi do tuần. Trong ấy có hang tên là Kim Cương, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con heo tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hương Công Đức, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một con chuột tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Cao Công Đức, cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con bò tu tâm từ Thanh Văn.

Núi ấy có Phong Thần nữ tên là Động Phong và La Sát nữ tên là Vô Hộ, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường ba thú ấy.

Diêm Phù Đề ngoài biển phương Bắc có núi hoàng kim tên là Công Đức Tướng cao hai mười do tuần. Trong núi có một hang tên là Minh Tinh, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một sư tử tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Tịnh Đạo ngang rộng cao thấp cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con thỏ tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hỉ Lạc ngang rộng cao thấp như trước cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang nầy có một rồng tu tâm từ Thanh Văn. Núi Công Đức Tướng ấy có một Thuỷ Thần nữ tên là Thuỷ Thiên và có La Sát nữ tên là Tu Tàm Quí, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn ấy thường cùng đồng cúng dường ba thú đó. Mười hai thú và chim như vậy ngày đêm thường đi trong Diêm Phù Đề được nhơn thiên cung kính công đức thành tựu. Các chim thú ấy đã ở chỗ chư Phật phát thâm trọng nguyện: một ngày một đêm thường khiến một thú du hành giáo hoá, mười một thú còn lại an trụ tu tâm từ, luân lưu nhau chung nhi phục thỉ.

Tháng bảy ngày một, chuột du hành đem pháp Thanh Văn thừa giáo hoá tất cả chúng sanh thân chuột khiến lìa ác nghiệp siêng tu thiện sự. Như vậy đến ngày mười ba đến ngày mười ba thì chuột lại tuần hành: luân lưu đến hết tháng mười hai, đến mười hai năm cũng như vậy thường để điều phục các chúng sanh.

Nầy Vô Thắng Ý! Do cớ ấy nên cõi nầy có nhiều công đức, nhẫn đến các loài thú chim cũng hay diễn nói giáo hoá đạo Vô thượng Bồ đề, nên chư Bồ Tát phương khác đều nên cung kính thế giới nầy”.

Trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Đức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể thấy được mười hai thú ấy chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Tịnh Đức! Nếu có ai trong hàng tứ chúng muốn được thấy mười hai thú ấy, muốn được đại trí đại niệm đại thần thông lực, muốn học tất cả sách vở nói về tứ vô lượng tâm, muốn hành chánh đạo được Xa ma tha, muốn được tịch tĩnh, muốn tăng trưởng pháp lành, người nầy nên lấy đất trắng đắp thành núi ngang rộng bảy xích, cao mười hai xích, dùng các thứ hương làm bùn trét, vàng mỏng thếp bốn phía, giáp vòng hai mười xích rải hoa chiêm bặc. Dùng đồ đựng bằng đồng đựng các thứ nước uống phi thời để bốn mặt núi ấy. Người nầy trì giới thanh tịnh, mỗi ngày ba lần tắm gội, kính tin lễ lạy Tam bửu rồi đứng cách núi ấy ba trượng về phía Đông mà tụng chú nầy:

Chiến a la ha, tu lợi xà tỉ ma, kỳ la phiếm, Phật dĩ mâu lã, nhã xà mâu lã, ha ha hi, ba ha ra hi, nhã xà ha hi, tát bà phục đa ha hi, lê tha bà ha hưu, ma sa xa bà mâu lê, ca bà phù, lã xa phù, tu lã xà mâu, khê ca na, ma hi xoa bà, ca sa ma ha, a xoa tỉ bà lã, đa ba tỉ bà, sa trì nhơn trì lợi xà tỳ bà, a xà mâu thâu bà, bà lô bà xoa, bàn đà đá, giá la xoa bà hi, ha ca tỉ mâu, đá tỉ lặc sưu, tán giá lặc sưu, bà bà phù, bà la bà xoa sưu, Phật dĩ giá, đá sá lại sa, dà xoa lã sa, ba lợi ba giá, tu lã tu, sưu bà sa di, hi lã, bà la mâu sa la sa, mâu sa lã tư, lã bà lã bà, tần bà tư lã sa, bà lã sa, đà ma lô giá na lã sa, phú nan toả lan ha la bà, thủ đà lô giá na lã sa, bà ma ma lã sa, tỉ ma lô giá na khê già, tát điên ma lã sa, a lợi na giá na nhục nhục, tỉ ma mâu, bà lã ha man bà ha lã tư miễn miễn, a do tỉ mục hê, mâu ni lã đề trí sa, sá ha.

Đứng ở đó tụng chú mười lăm ngày, thường thấy trên núi có hình tượng mặt nguyệt lưỡi liềm, lúc ấy biết rằng thấy mười hai thú. Thấy rồi sở nguyện tuỳ ý liền được.

Nầy Tịnh Đức! Nếu người có thể khổ hạnh tu hành như vậy thì được mắt thấy mười hai thú ấy”.

Tịnh Đức Ưu Bà Tắc nói với Minh Tinh Thiên Tử rằng: “Thưa Đại Sĩ! Ngài hay giáo hoá điều phục chúng sanh, điều phục thế nào? Là dùng thân hay dùng khẩu dùng ý?”.

Thiên Tử đáp: “Ta không dùng thân khẩu mà chỉ dùng tâm nghiệp”.

Tịnh Đức hỏi: “Nếu Ngài dùng tâm nghiệp, vậy tâm ấy thuộc quá khứ hay vị lai hay hiện tại?”.

Thiên Tử đáp: “Chẳng phải quá khứ vị lai, chỉ là hiện tại. Ta chế phục tâm hiện tại chẳng cho làm ác”.

Tịnh Đức nói: “Ngài còn chẳng khiến được tâm hiện tại được giải thoát thì làm sao điều phục chúng sanh?”.

Minh Tinh Thiên Tử đáp: “Nay ta thọ trì tứ vô ngại trí, do thế lực của Tịnh Mục đà la ni nên có thể điều phục tất cả chúng sanh”.

Tịnh Đức nói: “Tứ vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni ấy cũng còn chẳng thể điều phục chúng sanh được, tại sao, vì không có giác quán vậy. Sao lại nói có thể điều phục chúng sanh?”.

Thiên Tử nói: “Nay ta hỏi Ngài, tuỳ ý Ngài đáp cho.

Nhiếp nhập hệ phược, giải thoát, thanh tịnh đạo và tịch tĩnh, dầu là bình đẳng mà cũng là bất bình đẳng. Bình đẳng và bất bình đẳng như vậy, do nhơn duyên gì sanh, do nhơn duyên gì xuất, nhơn duyên gì tăng trưởng. Chẳng biết Ngài có rõ chăng?”.

Tịnh Đức nói: “Các sự như vậy do nơi ngã và ngã sở mà có sanh xuất và có tăng trưởng”.

Thiên Tử hỏi: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên gì sanh?”.

Tịnh Đức nói: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên phong sanh”.

Thiên Tử hỏi: “Phong trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Phong trụ ở hư không”.

Thiên Tử hỏi: “Hư không trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Hư không trụ ở chí xứ”.

Thiên Tử hỏi: “Chí xứ lại trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Chí xứ trụ ở chỗ nào không thể tuyên nói được. Tại sao? Vì xa lìa tất cả xứ sở vậy, vì tất cả nơi chỗ chẳng nhiếp thuộc vậy, vì chẳng phải đếm chẳng phải cân chẳng phải lường vậy, vì chẳng phải giác quán chẳng phải hữu vô, chẳng phải hành chẳng phải sanh xuất, chẳng phải diệt, chẳng phải có tăng trưởng, chẳng phải chữ, chẳng phải niệm, chẳng phải tác, chẳng phải thọ, chẳng phải minh ám, chẳng phải tăng giảm, chẳng phải trẻ già, tánh chơn thiệt, là môn tất cả pháp vô quái ngại. Vì vậy nên chí xứ không có chỗ ở”.

Minh Tịnh Thiên Tử nói: “Như vậy tức là vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.

Nếu có Bồ Tát tu tập Tịnh Mục đà la ni ấy thì tất cả phiền não bị hư rã mà nhập vào pháp duyên từ, ở trong tất cả pháp không có lòng nghi”.

Lúc nói pháp ấy, thập phương thế giới có vô lượng chúng sanh được pháp duyên từ, vô lượng chúng sanh được gần vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.

Đức Thế Tôn khen hai người rằng: “Nầy các thiện nam tử! Các ông có thể như pháp hỏi, có thể như pháp đáp. Do thế lực nhơn duyên Tịnh Mục đà la ni ấy, nên sau khi Phật diệt độ, Tứ Thiên Vương có thể thủ hộ chánh pháp”.

Minh Tịnh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người Thanh Văn hành pháp Thanh Văn thừa, người Bích Chi Phật hành pháp Bích Chi Phật thừa, hai hạng người ấy tu tâm bi thế nào, tư duy pháp nào, lìa phiền não nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam hay thiện nữ hành Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa chẳng quán những tướng vui của chúng sanh, chẳng quán các tướng oán thân cha mẹ, thương xót chúng sanh tu tập tâm bi, nhẫn đến thập phương chúng sanh cũng như vậy. Họ tư duy thê nầy: Nếu ta chẳng thể ở nơi ác chúng sanh mà tu tập tâm bi, thì nên quán tám tướng khổ của chúng sanh ấy, đó là sanh khổ, lão khổ, tử khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tẳng hội ngộ khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Tại sao ta ở nơi kẻ khổ não như vậy mà chẳng sanh tâm bi! Họ lại tư duy rằng: chúng sanh ấy còn có ba thứ đại khổ cũng còn chưa được giải thoát khổ ba ác đạo, tại sao ta lại chẳng thương xót!

Thế nào gọi là quán sanh khổ?

Từ nghiệp nhơn duyên cha mẹ hoà hiệp thời kỳ ca la la ban sơ thọ ý thức, thân ấy như hột đình lịch, chưa có hơi thở vào ra, chưa hay biết khổ và vui chẳng khổ chẳng vui, đã lìa sắc tướng trước mà chưa đủ các tướng sắc sau, không có sức lực, không có mong muốn, không có tinh tiến, cũng không có kiêu mạn là thượng sắc thượng tánh thượng tự tại, không có tướng ngũ dục, các căn chẳng đủ, chúng sanh như vậy tại sao ta lại chẳng thương xót! Chúng sanh như vậy, quá khứ ái và thủ gọi là vô minh, quá khứ nghiệp hữu gọi là hành, tâm sơ nhập thai gọi là thức, trong ca la la sắc và bốn ấm ban sơ gọi là danh sắc, lúc nầy chưa đủ mười hai hữu chi, do vì nhơn duyên sanh nên có thể nói là có mười hai chi nhơn duyên, chúng sanh như vậy có người trí nào mà chẳng xót thương!

Ca la la trụ sáu lần bảy ngày thì chuyển thành án phù đà hình sắc như trái táo nhỏ.

Án phù đà trụ bảy ngày chuyển thành già na hình sắc như hột hồ đào.

Già na trụ bảy ngày chuyển thành bế thi hình sắc như trái tần bà la. Lúc nầy trên thân có năm u bóng nổi lên, đó là tượng đầu hai tay và hai chưn.

Đến mười ba lần bảy ngày mới có tướng bộ tiêu hoá.

Hai mươi lần bảy ngày thì nam căn và nữ căn sai biệt.

Từ hai mươi mốt lần bảy ngày mới bắt đầu sanh xương lóng.

Trong ba sáu lần bảy ngày thì thân thể đầy đủ thịt máu lông và các căn.

Ba mươi tám lần bảy ngày thì tất cả chi phần thân thể thành tựu trọn vẹn, bốn ngày bốn đêm ở chỗ hôi dơ trong bụng bà mẹ.

Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng xót thương!

Bấy giờ hành giả lại tư duy nhớ lại sự thọ sanh của mình ngày trước, rất buồn rầu lo sợ mà tự suy nghĩ rằng ta phải tu pháp lành nguyện sau nầy chớ còn thọ sanh vào chỗ như vậy nữa, ta phải tinh tiến tu tập bất phóng dật xa lìa hẳn thọ sanh.

Kế đến tư duy lúc mới xuất thai cả thân chịu khổ bức bách gió suông và thân cũng rất khổ vừa rơi xuống đất nước rửa chà lau lại càng khổ hơn, khác gì sự khổ ở địa ngục, lúc nầy lại quên hết sự việc đời trước. Sanh xong lại còn có các sự khổ lớn những là già bịnh chết cứ theo mãi chẳng buông bỏ. Còn có phong bịnh, các bịnh bạch thuỷ hoàng thuỷ hoà hiệp. Tứ đại gây bịnh đều riêng có một trăm lẻ một bịnh cộng thành bốn trăm lẻ bốn bịnh cội gốc biết bao sự đau đớn khổ sở, nên gọi sanh là đại khổ vậy.

Đã chịu sanh khổ rồi, già nua theo dõi tiếp theo làm khổ, những là tóc bạc mặt nhăn, mất trí hổ thẹn, lông tóc thưa thớt, vì các hành đã lâu cũ nên các căn suy yếu dễ hư dễ hoại rã mục mỏng manh, chỉ còn tham hai vị là mặn và chua. Già nua hay làm hư thân căn mất sự an vui thêm nhiều khổ não, đây là sông đại khổ, nó hay phá sắc trẻ trung mạnh khoẻ ba đời của chúng sanh, nó hay quên như trẻ nít, cuồng loạn như bị quỉ nhập. Chúng sanh có đủ sự xấu khổ như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Kế lại bị tử vong nó xâm bức, mất trí huệ thọ mạng. Những sở hữu phải lìa bỏ, thân hoại mạng hoại, tứ đại lìa tan. Sự tử vong là oán thù của tam thế thọ mạng của chúng sanh, tất cả chúng sanh không ai thoát khỏi. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Kế tư duy, các chúng sanh ấy lại còn phải những người những vật không ưa thích cứ đến gần kề, đó là lạnh, nóng, đói, khát, ác nhơn, ác thú v.v… Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Còn có những người và vật yêu thích lại phải xa lìa, đó là trẻ mạnh, của cải, kho tàng, thọ mạng, cha mẹ vợ con thân thích quyến thuộc, sáu trần đẹp vui. Sự biệt ly ấy cũng rất buồn khổ. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Hoặc có chúng sanh trong ba đời cầu sáu trần phẩm thượng mà chẳng được, nên phải chịu các sự khổ não. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng thương xót! Nếu ta lại ở nơi các loại chúng sanh ấy mà chẳng thương thì ta sẽ thế nào được Vô thượng Bồ đề.

Các chúng sanh chịu gánh nặng ngũ ấm, ta cũng vậy, nếu ta không tu tâm đại bi thì làm sao bỏ được gánh nặng ấy. Tất cả Thánh nhơn đa xa lìa được gánh nặng ngũ ấm. Nếu chẳng tu hành ba thứ tịnh giới, chẳng tư duy lành tốt, tâm thường phóng dật chẳng hành chánh đạo chẳng được giải thoát, người như đây phải chịu cả trăm thứ khổ. Chúng sanh đã chịu cả trăm thứ khổ như vậy, tại sao ta không tu tâm đại bi!

Nầy Thiên Tử! Nếu có chúng sanh trong một ngày đêm có thể quán như vậy, người nầy được tâm dường như hư không. Người nầy ở nơi tất cả chúng sanh có thể tu tập đại bi. Người nầy có thể được thân tâm tịch tĩnh. Người nầy chẳng xa lìa chánh chơn pháp giới và chơn pháp tánh. Tu tập như vậy có thể được chúng sanh duyên bi của thừa Thanh Văn và Duyên Giác.

Nếu có Bồ Tát lúc ban sơ tu tập đạo phẩm, tư duy như vầy: giả sử khiến ta có hằng hà sa số thân lớn như núi Tu Di, sẽ đem những thân ấy vì một người mà phải chịu khổ nhiều trong vô lượng đời để cho người ấy được an lạc, ta trọn chẳng hối tiếc cũng chẳng thối thất tâm Bồ đề.

Bồ Tát nầy lại tư duy, giả sử tất cả chúng sanh đều cầm chuỳ sắt lớn như núi Tu Di đến đập thân thể ta trong vô lượng năm, ta sẽ nhịn chịu chẳng sanh ác tâm đối với họ dầu chỉ là một niệm.

Bồ Tát nầy lại tư duy, người ấy đã chịu phải trăm thứ khổ não, tất cả chúng sanh cũng phải khổ như vậy mà họ chẳng biết niệm Vô thượng Bồ đề, nay ta học tập Vô thượng Bồ đề sao ta chẳng chịu được những đao kiếm lửa đá làm hại như vậy! Nếu ta ở nơi tất cả chúng sanh mà sanh ác tâm, chắc sẽ bị sự quở trách của chư Phật, chư Hiền Thánh. Các Ngài sẽ quở ta rằng người muốn được Vô thượng Bồ đề sao với những sự như vậy mà chẳng nhẫn nhục.

Đại Bồ Tát tu tịnh ý liền được nhẫn nhục. Nhẫn nhục là anh lạc trang nghiêm, là tinh tiến đạo tánh, là pháp khí, là của báu. Bồ Tát tu nhẫn như vậy thì có thể thanh tịnh thân tâm, hay tịnh trang nghiêm, hay kiên cố trang nghiêm, được đại trí huệ chẳng đồng chung với hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật. Là thù thắng nhứt trong tất cả chúng sanh. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, tà ngoại chẳng lay động được, hay phá giảm phiền não, tất cả oán thù chẳng hại được, ngôn từ nói năng chẳng cùng tận, trí rất sâu rất rộng dường như đại hải, tinh tiến bền vững như núi Tu Di, bình đẳng với chúng sanh như nước biển nhứt vị, hay làm lợi ích lớn dường như đại địa, rửa sạch những dơ bẩn dường như nước trong, hay làm ánh sáng dường như mặt nhựt, ở giữa chúng vô ngại như gió mạnh, thế pháp không ô nhiễm như hoa sen, nhìn xuống chúng sanh như kim sí điểu, chúng sanh thích thấy như mây ngày mùa hạ, chúng sanh vui nhận như mưa mùa hạ, thấy mừng không mong gì khác như gặp lương y, phá hết nghèo cùng như châu như ý, ban cho chúng sanh thiền định như Phạm Thiên, sanh tử vô ngại như hư không, hiển thị bình bất bình như đèn sáng, nhơn thiên cung kính như Đế Thích.

Nếu có Bồ Tát khởi lòng sân hận thì tất cả oán tặc đều được tiện lợi, hư mất tất cả thiện căn của báu, tất cả ma chúng nắm được tội lỗi, bị các phiền não ô nhiễm, vào chỗ rất tối tăm, mất tất cả thiện căn, bị tất cả Thánh nhơn quở trách.

Nếu có Bồ Tát khởi tâm sân hận đến chừng một niệm thì là hư mất tất cả pháp lành. Phải tư duy như vầy: giả sử ta đều chịu tất cả vô lượng ức số chúng sanh đánh mắng huỷ nhục ta chẳng nên khởi tâm sân hận dù chỉ một niệm, tại sao, vì các chúng sanh như vậy chẳng học từ bi, nếu không có các chúng sanh ấy giận đánh thì ta làm sao tu tập tâm từ bi, vì lẽ như vậy nên lúc chúng sanh giận đánh ta nên vui mừng, tại sao, vì chính đó là nhơn duyên bi của ta vậy.

Nếu có thiện nam thiện nữ có thể quán như vậy liền được chúng sanh duyên bi chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, hàng Duyên Giác, cũng có thể mau được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Thiên Tử! Còn có người quán chúng sanh ba ác đạo khổ rồi tu tập tâm bi. Còn có người quán sát các chúng sanh bị khổ trong tam giới mà tu tập tâm bi. Còn có người quán sát ngũ ấm chúng sanh mà tu tập tâm bi, quán sát các nhập các giới cũng như vậy.

Do các nghĩa ấy nên đại Bồ Tát muốn được Vô thượng Bồ đề phải tu tập từ bi. Tại sao, vì tâm từ bi là chủng tử của tất cả thiện pháp.

Nếu có chúng sanh được thân trời Sắc giới cũng là do nhơn duyên từ bi”.

Lúc nói pháp ấy Minh Tinh ThiênTử được vô sanh nhẫn, nhẫn nầy chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh được như pháp nhẫn. Năm vạn năm ngàn na do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Mười vạn tám ngàn chúng sanh được tâm bất thối. Hai vạn chúng sanh thành tựu từ bi. Năm ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Năm trăm Tỳ Kheo Ni được vô lậu. Mười vạn ức chúng sanh phá đại tà kiến được tâm chánh kiến.

Đức Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Thắng Ý! Thưở quá khứ có Phật hiệu Phát Công Đức Ý Như Lai cũng nói đại từ đại bi như vậy”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng như ấy, thế nào gọi là như?”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Xa lìa thân tướng gọi đó là như”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng thân ấy, tức là thiệt tánh, tức là tịch tĩnh, tức là pháp giới, tức là vô lậu, tức là vô tận”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Như thân ấy, tức là thân tất cả chúng sanh. Như tức là biên tế của quá khứ của vị lai, tức là tịch tĩnh”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả chư Phật, như tức là thân”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Vô Thắng Ý! Pháp giới như vậy không có tăng giảm, tam thế bình đẳng, chẳng sanh chẳng xuất chẳng diệt dường như hư không. Như thân cũng như vậy”.

Lúc nói pháp ấy, ba vạn chúng sanh được như pháp nhẫn.

Đức Thế Tôn bảo Minh Tinh Bồ Tát rằng: “Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu tập tâm hỉ như thế nào?

Nầy Minh Tinh! Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ bi chẳng nhớ đến chúng sanh có những tướng vui, nhẫn đến chẳng quán sát tam thú tam giới có những sự khổ mà cũng quán sát ngũ ấm xuất diệt, quán như vậy rồi sanh tâm hỉ, chỉ thích quán pháp, quán rồi sanh tâm hỉ. Tâm hỉ như vậy nguyện đến cùng chúng sanh, đây gọi là hỉ.

Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu xã thế nào?

Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ tâm nhẫn đến hỉ tâm mà tu xả niệm xả cha mẹ nhẫn đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Lúc tu xả ấy xa lìa tất cả tâm ái tâm sân. Người nầy tu tập không vô tướng vô nguyện. Đã tu tập rồi chẳng lâu quyết định sẽ được nhập Niết Bàn.

Nếu người tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, người ấy được thập phương chư Phật Bồ Tát tán thán, tất cả Trời, Rồng, Dạ xoa, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cúng dường.

Quốc độ nào có hàng tứ chúng tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, cõi nước ấy đã được xa lìa tất cả ác tướng suy hoạ. Chúng sanh xứ ấy xa lìa ác pháp thích tu thiện pháp.

Nầy Minh Tinh! Tứ vô lượng tâm có đủ vô lượng phước đức như vậy”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hàng tứ chúng Duyên Giác thừa tu tập từ bi hỉ xả như thế nào?”.

Đức Phật nói nầy Vô Thắng Ý! Trong hàng tứ chúng Duyên Giác thừa có người tu tập từ bi hỉ xả. Người nầy quán sát chúng sanh an vui, hiểu chúng sanh an vui mà niệm pháp duyên từ trọn chẳng ức niệm chúng sanh duyên từ. Như trong tâm mình có sự thích ưa cũng nguyện chúng sanh đồng chung được đó. Người nầy quán pháp bình đẳng, quán tâm bình đẳng, quán như bình đẳng. Quán như vậy rồi, người nầy trọn chẳng sanh tâm ác dầu chỉ nơi một chúng sanh. Giả sử có nhơn duyên sanh tâm ác, thì phải suy nghĩ như vầy: Nay nếu ta nơi kẻ ấy mà sanh ác tâm thì thế nào sẽ được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát thành tựu vô lượng thuần thiện công đức, nếu ở nơi một người sanh tâm sân ác còn chẳng được Vô thượng Bồ đề, huống là ta chưa thành các thiện công đức, do cớ ấy nên tu chúng sanh duyên từ và pháp duyên từ, bi hỉ xả cũng như vậy.

Nầy Vô Thắng Ý! Nếu có người muốn được Duyên Giác thừa phải tu tập từ bi hỉ xả như vậy”.

Lúc nói pháp ấy, trong đại hội có sáu vạn ức chúng sanh trụ bực Sơ địa, hoặc Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa, hoặc có chúng sanh được Vô sanh nhẫn, hoặc có chúng sanh được Bích Chi Phật đạo, được Thanh Văn đạo. Có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ trong đại chúng có một đồng tử tên là Hư Không Thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo Vô thượng Bồ đề, tu tất cả trí mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả pháp mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả ấm nhập giới phương tiện, giải thoát phương tiện, tam muội phương tiện, đà la ni phương tiện, đắc nhẫn phương tiện, chư địa phương tiện?

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát tu tất cả trí mục môn, đồng hư không huệ qua đến bờ kia, vô duyên phạm hạnh vượt qua bốn dòng dứt bốn ma hệ phược?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Hư Không Thanh! Nay ông có thể vào biển tứ vô lượng, muốn độ chúng sanh qua sông sanh tử, nên ông phát ra lời hỏi như vậy. Ông lại còn muốn chẳng dứt biển Phật đại trí.

Nầy Hư Không Thanh! Thập phương quốc độ nếu có Bồ Tát cùng ông hành tam muội trí huệ, lúc Phật thuyết pháp, các hạng ấy đều làm minh chứng. Nếu không có hạng Bồ Tát như vậy làm minh chứng thì ta chẳng tuyên nói vô duyên pháp hạnh. Tại sao, vì nếu ta tuyên nói pháp ấy, trong đây có nhiều người sanh lòng nghi. Nếu có người chưa được vô duyên phạm hạnh cũng sanh lòng nghi. Vì lẽ như vậy nên chẳng nên tuyên nói”.

Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Hư không tràng. Nhập rồi diện môn của Phật phóng quang minh lớn đủ các màu sắc chiếu khắp đến thập phương thế giới chư Phật làm mờ tất cả ánh sáng nhựt nguyệt. Trong quang minh ấy phát ra tiếng nói rằng: Thế giới Ta Bà hiện có Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sanh mà tuyên nói phạm hạnh phá các phiền não, tuyên nói Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa vô duyên phạm hạnh, có vô lượng chúng sanh vô lượng Bồ Tát thứ đệ ngồi nghe học chánh pháp. Cũng tuyên nói hạnh thanh tịnh Bồ đề. Vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên làm hội đại tập nói các thứ hạnh. Có vô lượng chúng sanh được Nhứt sanh bổ xứ, hoặc Hậu sanh bổ xứ.

Thập phương chúng sanh nghe lời nói trong quang minh phát ra như vậy, tất cả đều tập hội Ta Bà thế giới. Hoặc có Bồ Tát hiện thân chơn kim mưa cát chơn kim, hoặc có Bồ Tát hiện thân bạch ngân mưa cát bạch ngân, hoặc có Bồ Tát hiện thân lưu ly mưa cát lưu ly, hoặc có Bồ Tát hiện thân pha lê bửu mưa cát pha lê, hoặc có Bồ Tát hiện thân trầm thuỷ mưa cát trầm thuỷ, hoặc có Bồ Tát hiện thân chiên đàn mưa cát chiên đàn, hoặc có Bồ Tát hiện thân đa ma la bạt mưa cát đa ma la bạt để cúng dường đức Phật. Cúng dường xong đều đầu mặt lễ kính rồi ngồi một phía.

Đức Phật bảo Hư Không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư Không Thanh! Ngày nay mười phương chư đại Bồ Tát, trong ấy hoặc có vị được pháp nhẫn, có vị được vô sanh nhẫn, có vị được nhứt sanh, có vị được hậu sanh đều vì ta mà chứng minh.

Chư Bồ Tát ấy tu tập tâm từ bi hỉ xả tỏ rõ thông đạt tánh các pháp, cũng hay xa lìa thân tướng nghiệp tướng. Tâm chư Bồ Tát ấy chẳng tham trước hữu vi vô vi, cũng chẳng tham trước nhãn nhĩ đến ý, chẳng tham trước sắc thanh đến pháp. Đều chí tâm tu tập vô duyên phạm hạnh, không có giác quán, chẳng sanh kiêu mạn, không có chỗ tham trước, biết chơn thiệt tánh, quán tất cả pháp đều bình đẳng đó là tam thế, tam giới, tam tịnh giới, cũng được tăng trưởng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả. Tất cả đều xa lìa ấm giới nhập, xa lìa tất cả tự tụ danh tụ cú tụ các pháp hữu vi.

Bồ Tát ấy lúc quán như vậy liền được đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, tu tập đồng hư không tam muội phạm hạnh sáu ba la mật, được chư Phật hộ niệm, có thiện phương tiện trụ đệ tam nhẫn quá đạo Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật, xa lìa tất cả nhãn sắc nhơn duyên, nhĩ thanh nhơn duyên đến ý pháp nhơn duyên, quán pháp giới như tuỳ thuận chẳng điên đảo, được năng lực đại từ đại bi đại hỉ đại xả, trong tất cả pháp được đại tự tại, mà ở nơi sanh tử chẳng sanh tâm nhàm hối, có đại lực thế điều phục chúng sanh, ở trong tam thừa được trí phương tiện, hay mưa pháp vũ, được vô ngại trí, hiểu biết tất cả ngữ ngôn của các chúng sanh.

Đây gọi là Thánh Mục đà la ni đủ vô ngại trí tu tập phạm hạnh.

Nầy Hư Không Thanh! Nếu có Bồ Tát tu phạm hạnh nầy, thì Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, hay đủ Phật pháp thanh tịnh Phật độ, Bồ Tát tánh tịnh, chúng tịnh, hành tịnh, trí tịnh, ý tịnh, cúng dường cũng thanh tịnh, hay đủ thập địa thứ đệ sẽ ngồi pháp toà Như Lai. Như vậy gọi là thanh tịnh pháp hành, đây gọi là Như Lai, là Thế Tôn, là quá bốn dòng, là Bồ đề đạo. Hay được Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân.

Thế nào gọi là Nhứt thiết trí?

Nếu trí có thể thấy tất cả pháp bình đẳng, chúng sanh bình đẳng, tam thế bình đẳng, chẳng điên đảo bình đẳng. Bình đẳng tất cả pháp như vậy thấy Hư Không mục thấy pháp, Hư Không mục thấy vô hành, Hư Không mục thấy tánh, Hư Không mục thấy như không, Hư Không mục thấy như nội không, Hư Không mục thấy như ngoại không, Hư Không mục thấy như nội ngoại không, Hư Không mục thấy như đại không, Hư Không mục thấy như đệ nhứt nghĩa không, Hư Không mục thấy như hữu vi không, Hư Không mục thấy như vô vi không, Hư Không mục thấy như tất cánh không, Hư Không mục thấy như vô thỉ không, Hư Không mục thấy như tánh không, Hư Không mục thấy như tán không, Hư Không mục thấy như tự tánh không, Hư Không mục thấy như nhứt thiết pháp không, Hư Không mục thấy như vô sở giác không, Hư Không mục thấy như vô pháp không, Hư Không mục thấy như hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô pháp hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô tánh không, Hư Không mục thấy như thiệt tánh không, Hư Không mục thấy như vô tướng vô nguyện, Hư Không mục thấy như Nhứt thiết pháp vô biên vô xứ, Hư Không mục thấy như đại từ đại bi, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí thấy không, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí. Thấy như vậy rồi chuyển chánh pháp luân. Đây gọi là bất cộng chúng sanh pháp giới, đây gọi là Nhứt thiết trí, là Phật cảnh giới”.

Lúc nói vô duyên phạm hạnh ấy, có chín vạn hai ngàn chúng sanh thành tựu pháp ấy. Có hằng hà sa số chúng sanh được như pháp nhẫn, hằng hà sa số chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có một ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Vô lượng Nhơn Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đều dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật. Đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc trược Như Lai ở Diêm Phù Đề chuyển chánh pháp luân, hôm nay ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy Như Lai lại chuyển đại pháp luân, đó là vì Bồ đề hành vậy.

Tất cả đại chúng lại nói như vầy: “Cảnh giới Như Lai bất khả tư nghị. Tại sao, vì đức Như Lai ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy lúc chuyển pháp luân, trong vô lượng các thế giới mười phương có bao nhiêu Bô Tát đều tập hội nơi đây để nghe pháp hành Hư Không mục như vậy”.

Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi đồng tử, Kim Cương đồng tử, Kim Cương Sơn đồng tử, Vô Thắng Tràng đồng tử, Vô Thắng Ý đồng tử, Hư Không Thanh đồng tử, chúng đồng tử như vậy số đến chín vạn hai ngàn ức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì nguyện lực làm cho pháp hành Hư Không mục ấy được còn lâu ở Ta Bà thế giới nầy và ở mười phương quốc độ không diệt mất. Tại sao, vì trong pháp ấy nói ba phạm hạnh, nếu Bồ Tát tu ba phạm hạnh ấy thì được Vô thượng Bồ đề”.

Đức Phật nói: “Nầy các thiện nam tử! Nam phương thế giới có Phật hiệu Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Tây phương thế giới có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Bắc phương thế giới có Phật hiệu Phát Quang Công Đức Như Lai, Đông phương thế giới có Phật hiệu Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai, bốn Phật Như Lai ấy trước đã có phát nguyện. Do nguyện lực ấy, kinh nầy về sau sẽ lưu bố mười phương khiến các Bồ Tát đều được tu hành ba phạm hạnh như vậy.

Nay ta đem chánh pháp nầy phó chúc cho Tứ Đại Thiên Vương, Công Đức Thiên Nữ, Tứ Đại Long Vương, Thành Thiệt Ngữ Thiên, Tứ A Tu La Vương, Kiến Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, Địa Thần Nữ v.v…

Tại sao, hoặc có chúng sanh tánh nó tệ ác có đại thế lực, tạo nhiều nghiệp trọng tội chẳng học kinh nầy, người ấy chết rồi thọ thân đại ác quỷ, thân ác long, các ác quỷ, ác long ấy muốn phá hoại Phật pháp nên tuôn mưa ác gió ác bụi mù để ở nơi các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp gây bịnh nặng, lấy tay mò bụng lấy tim gan thổi khí độc vào trong món ăn uống, khiến người ăn vào mắc phải bịnh nặng, thầy thuốc bó tay chẳng trị lành được. Các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp như vậy do đó đều chết cả, đây gọi là pháp diệt. Các ác quỷ ấy còn làm cho hàng đệ tử Phật những Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, những đại thần trưởng giả đều sanh ác tâm, đã sanh ác tâm rồi họ tàn hại nhau. Lúc bấy giờ, trong Diêm Phù Đề quốc độ thành thị thôn ấy đều hoang trống không người. Nhơn dân đã không thì còn ai lưu bố kinh điển như vầy. Vì cớ ấy nên nay ta không đêm kinh nầy phó chúc chư Bồ Tát và hàng tứ chúng, mà đem giao phó cho các Thiên Vương các Long Thần, Địa Thần. Chư Thiên, chư Thần như vậy chí tâm hộ trì chánh pháp.

Nếu có hàng vua quan tứ tánh tứ chúng thọ trì đọc tụng kinh điển như vậy, chư Thiên, chư Thần ấy sẽ chí tâm thủ hộ, khuyến hóa các đàn việt khiến dâng cúng các món vật dùng như món uống ăn, y phục, thuốc men, giường nệm, nhà cửa, đèn đuốc. Các đàn việt ấy nếu có ác tướng ác bịnh, do oai lực chư Thiên, chư Thần đều khiến tiêu trừ cả. Vì vậy mà chánh pháp được tăng trưởng không diệt mất”.

Chư Thiên, chư Thần tất cả đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoặc hiện tại nay, hoặc sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cần phải bỏ lìa công việc mình mà thủ hộ chánh pháp Như Lai. Nếu hàng tứ chúng đệ tử Phật có người hay thọ trì những kinh điển như vậy siêng tu tinh tiến, mặc dầu họ còn thọ chứa tám vật bất tịnh, chứa nuôi vợ con vàng bạc ruộng vườn nhà cửa người ở làm công, chúng tôi vì chánh pháp nên cũng sẽ thủ hộ họ, ngăn các ác quỷ chẳng cho đến gần nhiễu hại. Xứ nào có kinh điển nầy, chúng tôi làm cho đất đai mầu mỡ, nhựt nguyệt tinh tú chẳng trái vượt thường độ, oán thù binh cách đều tiêu phục. Nhơn dân nam nữ lớn nhỏ đều ưa thích thọ trì đọc tụng các kinh điển nầy, họ trì giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến.

Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy nên tất cả chư Thiên thích ở nhơn gian. Người trì kinh ấy chết liền được sanh cõi Trời, làm cho chư Thiên tăng trưởng sắc, lực và thọ mạng, những ác tướng diệt hêt không còn thừa sót. Người không tin tôi có thể khiến họ tin.

Nếu hàng tứ chúng đệ tử phật, với kinh điển như vậy chẳng thể thọ trì đọc tụng thơ tả, chẳng ưa tịch tĩnh, chẳng thiện tư duy, thích cầu cúng dường, chẳng trì tịnh giới, lười biếng kiêu mạn, tâm không tàm quí gần kề hàng bạch y. Tỳ Kheo như vậy dùng sức lực của cải thế tục huỷ báng đệ tử Phật hoặc đánh hoặc giết, hoặc trói hoặc mắng, đến vua đến quan nói lỗi xấu. Hàng đệ tử phật nghe sự ấy rồi sanh tâm đại ác. Sanh ác tâm rồi, các thiện quỉ thần bỏ xứ ấy qua xứ khác, do đây ác quỷ được tiện lợi. Ác quỷ được tiện lợi rồi, các nước hưng binh đánh lẫn nhau, mưa gió xấu ác làm cho xứ ấy mất mùa nhơn dân đói kém, cướp giết lẫn nhau”.

Bấy giờ chư Bồ Tát thập phương thế giới bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai vì các chúng sanh ở thế giới ngũ trược như vậy mà chế cấm giới. Duy nguyện Như Lai vì chánh pháp còn lâu mà chế cấm giới, đó là thân giới, khẩu giới, ý giới, chẳng được thọ chứa vật bất tịnh, chẳng được ác tâm đâú tranh, chẳng được gần kề vua quan trưởng giả thọ chứa tất cả vật của người tục, như các Phật độ khác đã chế cấm giới”.

Đức Phật nói: “Thôi thôi, Phật tự biết thời. Nầy các thiện nam tử! Nhơn duyên chưa phát xuất, thì Như Lai chẳng dự chế cấm giới”.

Đức Phật bảo vua Tần Bà Sa La rằng: “Nầy Đại Vương! Quốc pháp của nước vua, thế nào gọi là đại tội, sao gọi là tiểu tội?”.

Vua Tần Bà Sa La nói: “Bạch đức Thế Tôn! Quốc pháp nước tôi có bốn trọng tội: Một là giết chết người. Hai là trộm đến năm tiền. Ba là dâm phụ nữ khác và bốn là vì năm tiền mà ở bên vua bên đại chúng cố ý nói dối.

Bốn tội như vậy, người phạm bị tử hình”.

Đức Phật nói: “Nay Phật cũng vì đệ tử vị lai mà chế bốn trọng ấy.

Lại nầy Đại Vương! Vương Tử bao nhiêu tuổi thì chẳng cho vào nội cung?”.

Vua nói: “Bạch Thế Tôn! Quá hai mười tuổi thì chẳng cho vào nội cung”.

Đức Phật nói: “ Ta cũng vậy! Sa Di hai mươi tuổi nhẫn đến đắc đạo chẳng cho nhập chúng”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như quốc pháp của tôi có người phạm trọng tội thì quyết định phải chết, hoặc phải tội đánh, hoặc mắng, hoặc nhốt, hoặc trói, hoặc thâu tài vật, hoặc đuổi ra khỏi nước.

Trong pháp Phật thì thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đai Vương! Trong pháp Phật của ta cũng như vậy. Nếu có người sai phạm thì hoặc bắt phải làm việc nhọc một tháng hai tháng, hoặc chẳng cùng nói chuyện, chẳng cùng ngồi chung ăn chung, hoặc chẳng ở chung, hoặc đuổi đi, hoặc ra một nước, hoặc ra bốn nước. Xứ có Phật pháp xử trị các ác Tỳ Kheo như vậy rồi, các thiện Tỳ Kheo an lạc học chánh phá nên làm cho Phật pháp còn lâu chẳng dứt diệt.

Nầy Đại Vương! Đời vị lai nếu có đệ tử Phật giàu sang nhiều của nhiều thế lực được vua quan thân ái, tất cả đại chúng chẳng đuổi trị được thì các vua chúa sẽ trị phạt. Nếu Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà chẳng thể trị được thì hàng tứ tánh như vậy làm dứt chủng tánh Tam bửu của Phật, hay làm tắt đuốc pháp, làm chìm thuyền pháp, cháy cạn pháp vị, cướp mắt chúng sanh. Lúc chánh pháp Phật diệt hoại thì tâm buông bỏ.

Nầy Đại Vương! Ví như một người đoạt tất cả con mắt của mọi người thì tội ấy có nhiều chăng?”.

Vua nói: “Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Chẳng thể cân lường được, chẳng thể tính đếm được”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có hàng tứ tánh có thế lực lớn thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, người nầy mắc tội cũng như vậy.

Nầy Đại Vương! Nếu có quốc chủ trong vô lượng đời tu thí giới huệ thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, thì vô lượng thiện căn đã vun trồng thảy đều diệt mất. Xứ ấy sẽ có ba sự bất tường: một là gạo quí, hai là binh cách và ba là tật dịch. Tất cả thiện thần đều bỏ đi qua xứ khác, giáo lịnh nước ấy nhơn dân chẳng theo, thường bị lân quốc xâm lăng nhiễu loạn, lửa dữ ngang nổi dậy, mưa gió xấu ác, lụt lũ tăng trưởng cuốn trội nhơn dân, người thân tín trong ngoài cùng nhau mưu phản. Vua xứ ấy chẳng lâu sẽ mắc trọng bịnh, chết sanh vào địa ngục. Nếu phước lành đời trước theo đến được lại sanh trong loài người, thì nhiều đời thường đui mù, nghèo cùng linh đinh xin ăn để sống thường sanh ác tâm, do ác tâm ấy nen lại đoạ trong địa ngục. Như vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, chủ thành, chủ thôn, tướng soái, quận thú, tể quan cũng như vậy”.

Vua Tần Bà Sa La tai nghe lời ấy buồn khóc nghẹn ngào lau lệ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi được gặp Như Lai mà vẫn còn chưa trị nước đúng chánh pháp, huống là đời vị lai các vua chúa phóng dật chẳng thể trì giới tu hành tinh tiến, chẳng trị được ác Tỳ Kheo để hộ trì Phật pháp, chẳng thể nối thạnh chủng tánh Tam bửu. Các vua chúa như vậy mãi mãi thường đi trong ba ác đạo”.

Lúc ấy các vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, thành chủ, thôn chủ, tướng soái, quận thú, tể quan đều bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay trong đời hiện tại, chúng tôi cần phải siêng tâm thủ hộ Phật Pháp, cũng nên cúng dường người thọ trì chánh pháp những món vật cần dùng như y phục, món ăn uống, giường nệm, thuốc men, chúng tôi phải trị ác Tỳ Kheo, nối thạnh Tam bửu”.

Đức Phật nói: “Nầy đại chúng! Nếu các người có thể kiến lập sự việc ấy, đó là cúng dường tam thế chư Phật, cũng được vô lượng bất khả tư nghị các thiện công đức”.

Đức Phật lại bảo chư Thiên rằng: “Nầy chư Thiên Tử! Hôm nay các Ngài chớ có lòng lo lắng. Nay ta vì các chánh pháp nên sẽ lập nghiêm cấm chế cho hàng đệ tử Phật ở vị lai, vì để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu, vì muốn tăng trưởng các thiện pháp, vì tăng trưởng đa văn đầy kho pháp bửu, vì lìa tất cả khổ phiền não, vì thành đạo Vô thượng Bồ đề.

Nầy chư Thiên Tử! Nay chỗ Phật nói tất cả Thanh Văn đầy đủ thành tựu được Thanh Văn thừa, tất cả Duyên Giác đầy đủ thành tựu được Duyên Giác thừa, tất cả Bồ Tát thành tựu đầy đủ ba thứ phạm hạnh được trí vô thượng.

Nầy chư Thiên Tử! Kinh nầy có thể lìa các ác chúng sanh, hay phá hoại các pháp ác bất thiện của các chúng sanh, hay diệt thân khẩu ý ba nghiệp bất thiện, hay phá trừ tất cả các quả báo ác.

Nếu có thiện nam thiện nữ cúng dường kinh nầy thì là cúng dường thập phương chư Phật”.

Lúc bấy giờ Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh khác miệng đồng lời nói rằng: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Tôi trước chưa nghe pháp tụ lớn nầy nay được nghe đó. Tôi có thể thọ trì thủ hộ pháp ấy, vì cớ hộ pháp tôi chẳng tiếc thân mạng. Nếu có hàng tứ chúng đệ tử Phật thọ trì pháp ấy, tôi sẽ cúng dường tuỳ chỗ cần dùng đều cung cấp cho họ. Nếu còn có người hay cúng dường những người thọ trì kinh nầy, chúng tôi cũng sẽ siêng thủ hộ người ấy, khiến nội ngoại của cải vàng ngọc chẳng bị tổn hao. Xứ nào có kinh nầy lưu bố, tôi cũng thủ hộ xứ ấy khiến không có các sự ác”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Người có thể thủ hộ chánh pháp như vậy đó là cúng dường tam thế chư Phật.

Nầy thiện nam tử! Nếu các chúng sanh có tâm hộ pháp hoặc sanh nhơn thiên được đại tự tại, nhẫn đến sanh trong loài chim thú cũng có đại lực, người nể trọng chẳng bị các sự khốn khổ.

Nầy thiện nam tử! Người hộ pháp ấy, ác chẳng hại được, lòng không sợ sệt, không ai phá hoại được, các ma phiền não chẳng được tiện lợi, quyến thuộc đông nhiều, trí huệ đầy đủ. Phàm có nói ra không bị chướng ngại, thích làm thập thiện tu tập chánh định. Cha mẹ các vua quan thấy thì cung kính, hay thăng pháp toà chuyển chánh pháp luân, pháp đã được nghe trọn chẳng quên mất”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngồi trên toà sư tử phóng đại quang minh dường như nhựt nguyệt, được đại tự tại như Phạm Vương, Đế Thích, công đức cao hiển như núi Tu Di, pháp giới thậm thâm dường như đại hải. Đức Thế Tôn ở trong đại chúng diễn nói chánh pháp sơ trung hậu thiện, tự nghĩa chơn chánh, đầy đủ thanh tịnh ban tuyên phạm hạnh, vì chư Bồ Tát mà thanh tịnh pháp ấn, khiến chư Bồ Tát nghe rồi tinh cần tu tập.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy