× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 59 LIX. PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC - THỨ NĂM MƯƠI CHÍN (2)

Nầy Kiều Trần Như! Năm bộ như vậy dầu đều dị biệt mà đều chẳng phòng ngại chư Phật pháp giới và đại Niết bàn.

Thế nào gọi là tuỳ tín hành?

 Nếu tin Tam bửu có đủ tín căn, từ tín nhơn duyên nhập vào quyết định được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán. Từ tín được giải thoát nên gọi là tín giải thoát, cũng gọi là nhứt phần, cũng gọi là thân chứng, cũng gọi là huệ giải thoát. Đây gọi là tuỳ tín hành.

Thế nào gọi là tuỳ pháp hành?

Nếu có người từ nơi pháp nhập quyết định đầy đủ huệ căn được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán, đây gọi là kiến đáo nhị phần giải thoát, đây gọi là vô học giải thoát, đây gọi là pháp hành, đây gọi là thành tựu thân thân quán nhẫn đến thành tựu pháp pháp quán, đây gọi là thành tựu Tỳ bà xá na và Xa ma tha.

Thế nào là Xa ma tha?

Xa ma tha gọi là diệt. Có thể diệt tâm tham, tâm sân, tâm tán loạn gọi là Xa ma tha.

Thế nào là tướng Xa ma tha?

Hay diệt tướng tham, tướng sân, tướng si, gọi là tướng Xa ma tha.

Nếu có thể tuỳ tu Xa ma tha hạnh tôn trọng tán thán hướng Xa ma tha phương tiện trang nghiêm, đây gọi là Xa ma tha tướng.

Nếu có Tỳ Kheo thâm tự tư duy rằng tham tâm của ta chỉ quán bất tịnh mới phá hoại được. Sân tâm của ta chỉ quán từ mới phá hoại được. Tâm si của ta chỉ quán thập nhị nhơn duyên mới phá hoại được. Đây gọi là Xa ma tha tướng.

Thế nào gọi là Tỳ bà xá na?

Nếu tu thánh huệ hay quán ngũ ấm thứ đệ sanh diệt, đây gọi là Tỳ bà xá na.

Còn nữa, nếu quán các pháp đều như, pháp tánh, thiệt tánh, thiệt tướng, chơn thiệt biết rõ, đây gọi là Tỳ bà xá na.

Thế nào gọi là tướng Tỳ bà xá na?

Nếu có thể thành tựu đầy đủ niệm tâm quán tất cả hành từ duyên mà sanh từ duyên mà diệt, tất cả hành không tự tại, không tác, không thọ, đây gọi là tướng Tỳ bà xá na.

Thế nào gọi là Tỳ bà xá na nhập quyết định?

Nếu chí tâm Tỳ bà xa na cung kính tôn trọng hướng trang nghiêm đạo, đây gọi là từ nơi Tỳ bà xá na nhập vào quyết định.

Thế nào gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo có thể quán tâm xuất nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành xuất nhơn duyên, đây gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.

Thế nào gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay thâm quán diệt tâm nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành diệt nhơn duyên, đây gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm.

Thế nào gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.

Thế nào là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán xuất tức mà chẳng quán nhập tức, đây gọi là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.

Thế nào là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán nhập tức chẳng quán xuất tức, đây gọi là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm.

Thế nào gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu Tỳ Kheo hay nhiếp tâm thì được tám mươi môn tam muội và tu ba môn giải thoát.

Nếu Tỳ Kheo quán quá khứ thân và tu trang nghiêm, quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô nguyện giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi chỉ thấy tâm mà chẳng thấy thân và tu trang nghiêm quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô tướng giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi, chẳng thấy tác chẳng thấy tác giả. Tác giả không có thân, thân không có tác giả, tu trang nghiêm đạo quán thân thấy thân, đây gọi là không giải thoát môn.

Quán thọ tâm và pháp cũng như vậy.

Còn nữa, nầy Kiều Trần Như! Ba môn giải thoát tu quán trang nghiêm, quán tất cả hành bất xuất bất diệt, xuất rồi thì diệt, diệt không có chỗ đến, chẳng đến chẳng đi chẳng tới, đây gọi là trang nghiêm vô nguyện giải thoát môn.

Còn nữa, vị lai thế các hành chưa xuất, nếu hành chưa xuất thì không có diệt, không có xuất không có diệt, đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.

Còn nữa, quán hành tất cánh tận, tất cánh tận thì không có sanh diệt. Nếu không có sanh diệt thì tất cánh tận. Nếu tất cánh tận thì tức là không nhơn duyên. Nếu quán tất cánh tận như vậy, đây gọi là trang nghiêm không giải thoát môn.

Còn nữa, nếu quán hành tất cánh tận thì không có sanh diệt, nếu không có sanh diệt tức là không có rỗng không. Tại sao, vì trước có sau không có gọi là rỗng không. Nếu là bổn không có thì không có sau không. Nếu không có sau không thì thế nào gọi là rỗng không.

Nếu không có hành tức là vô vi. Tất cánh tận ấy chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Rỗng không chẳng phải hành chẳng phải không có hành. Vì vậy nên tất cánh tận ấy chẳng phải nhiếp thuộc hữu vi chẳng phải nhiếp thuộc vô vi. Đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.

Còn nữa, nếu các hành tất cánh tận ấy thì tức là Niết bàn, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, vì vậy nên chẳng phải quá khứ hành diệt gọi là Niết bàn, cũng chẳng phải vị lai hiện tại hành diệt gọi là Niết bàn. Người Tu Đà Hoàn thấy Niết bàn ấy nhẫn đến người A La Hán thấy Niết bàn ấy.

Thế nào gọi là khổ đế?

Quán tất cả hành chẳng thấy Đệ nhứt đế. Quán tất cả nhơn chẳng thấy Đệ nhị đế. Quán tất cả diệt chẳng thấy Đệ tam đế. Quán tất cả đạo chẳng thấy Đệ tứ đế.

Thế nào gọi là sanh?

Bổn không có sau mới gọi là sanh.

Thế nào gọi là diệt?

Có rồi hoàn không gọi là diệt.

Không có xuất diệt đây gọi là tận.

Do nhân duyên gì không có xuất diệt gọi đó là đạo?

Đạo có sáu hành đó là tu và chẳng phải tu, hành và chẳng phải hành, tri và chẳng phải tri.

Nếu có Tỳ Kheo hay thấy các pháp sanh diệt như vậy, thì hay nhàm tất cả các hành, hay thấy tướng vô thường của tất cả hành.

Thế nào là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường?

Nếu có tướng tạp với hành sơ vô lậu tướng, nếu có tướng tạp với hành vô nguyện giải thoát môn, nếu có tướng không rỗng, tướng khổ, tướng bất tịnh, tướng vô ngã, đây gọi là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.

Thế nào là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường?

Đó là tam giới sắc tướng thanh tướng đến pháp tướng, đây gọi là điên đảo tướng, gọi là xả tướng chẳng phải vô thường tướng. Đây gọi là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường.

Thế nào là vô thường tướng cũng vô thường pháp?

Đó là tất cả chúng sanh chưa được quyết định, do thế tục đạo nhập các tam muội tuỳ pháp tướng nhẫn. Đây gọi là tướng vô thường cũng là pháp vô thường.

Thế nào là chẳng phải tướng vô thường và chẳng phải pháp vô thường?

Đó là tướng tịch tĩnh thường và tướng giải thoát tịnh. Đây gọi là chẳng phải tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.

Thế nào gọi là được Đệ nhứt đế?

Đó là quán sáu căn ngũ ấm dường như tượng trong gương, đây gọi là được đế thứ nhứt.

Thế nào là nhứt tâm quán Tứ đế?

Nếu quán các hành đều là nhơn khổ. Vì là nhơn khổ nên thấy được diệt dứt được xa lìa được, như vậy gọi là tâm duyên vô lậu. Vì vậy nên nhất tâm được tứ đế, gọi là tâm vô lậu được giải thoát.

Nếu có Tỳ Kheo quán tâm số, đây gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Quán tâm số rồi quán mười hai sự:

Mười hai sự là: Nghiệp, hành, khổ, không, hoại, chẳng tự tại, quá khứ, hiện tại, vị lai, nhơn duyên, vô tác và thọ.

Đây gọi là thấy tâm tâm số gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Nếu có Tỳ Kheo quán sát tâm ấy, không có tâm sanh không có xuất nhập, không có năng viễn ly, đây gọi là thấy tâm tâm số được không giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán không có tâm nhập định mà được xa lìa tất cả phiền não, vì không nhơn duyên nên phiền não chẳng sanh. Đây gọi là viễn ly phiền não mà thấy tâm tâm số được vô tướng giải thoát môn.

Nếu quán như vậy thì được xa lìa tâm hữu lậu mà được vô lậu giải thoát.

Nầy Kiều Trần Như! Tất cả các hành hữu vi đều không có quyết định. Nếu đã bất định thì thế nào được nhập vào định tụ. Nếu nói rằng quán sát tam thế rồi được nhập định tụ, nghĩa ấy không phải. Tại sao, vì quá khứ đã hết, vị lai chưa xuất, hiện tại vô thường, tam thế quán sai khác thì thế nào được nhập định tụ ư! Vì thế nên tất cả dị quán, tánh nó chẳng quyết định.

Như điện đường có bốn bực thang. Nếu nói rằng chẳng do bực thang thứ nhứt mà đến bực thang thứ tư thì chẳng có lẽ ấy.

Lúc lên bực thang thứ nhứt chẳng được gọi là lên bực thứ tư. Đã có bốn bực như vậy thì chẳng gọi là một.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu bốn đế ấy là một đế thì mới có thể nhứt tâm được!

Nầy Kiều Trần Như! Lúc quán khác lúc được cũng khác.

Lúc quán khác đó là nhơn và quả đều hoại hết.

Lúc được khác đó là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.

Nếu có Tỳ Kheo quán các hành là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, là vô trụ, là lậu, là kiết duyên, là tất cả hữu, đây gọi là hệ phược, vì vậy nên chẳng cầu các ấm các hành mà nhàm tất cả hành và thích cầu Niết bàn, chí tâm tư duy công đức Niết bàn, rất thích tịch tĩnh, chẳng tiếc thân mạng, tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là Tỳ Kheo tâm có thể quán sát tâm?

Nếu có Tỳ Kheo có thể quán sát tâm. Tâm vô thường là pháp sanh diệt, đây gọi là Tỳ Kheo tâm hay quán tâm.

Tỳ Kheo như vậy tu không tam muội.

Thế nào gọi là không?

Đó là ngũ ấm không, thập nhị nhập không, thập bát giới không, tứ đế không, thiệt không, thập nhị nhơn duyên không, tánh không.

Thế nào là Ngũ ấm không?

Đó là sắc ấm không, không có ngã ngã sở, đến thức ấm không, không ngã ngã sở. Đây gọi là ngũ ấm không.

Nhập và giới không cũng như vậy.

Thế nào là Tứ đế không?

Đó là khổ đế không có đắc không có xả, đến đạo đế không có đắc không có xả. Đây gọi là Tứ đế không.

Thế nào gọi là thiệt không?

Trong tất cả pháp không có giác quán không có ngã ngã sở. Đây gọi là thiệt không.

Thế nào là Thập nhị nhơn duyên không?

Thập nhị nhơn duyên tứ là thập nhị hữu chi, Quán thập nhị chi không có ngã ngã sở, đây gọi là thập nhị nhơn duyên không.

Thế nào là Tánh không?

Nếu có Tỳ Kheo quán nhãn không, không có ngã ngã sở, đến quán ý không, không có ngã sở. Đây gọi là Tánh không.

Đây gọi là pháp hành có thể quán tâm tâm số.

Tỳ Kheo như vậy chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu. Tỳ Kheo ấy biết tất cả pháp tánh chơn thiệt hiểu biết thế đế vì là lưu bố vậy. Nói ấm nhập giới, biết tất cả pháp tánh không có xuất diệt.

Tỳ Kheo như vậy có thể qua khỏi sanh tử, có thể biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, có thể dứt phiền não.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập pháp hành biết tất cả pháp từ nhơn duyên sanh từ nhơn duyên diệt. Tỳ Kheo như vậy được ba giải thoát, biết sắc chơn tướng. Sắc chơn tướng ấy tức là ngại tướng, thọ thọ tướng, tưởng giác tướng, hành hành tướng, thức tri tướng. Đây gọi là chơn thiệt biết tất cả pháp tướng, quán như vậy rồi được Không giải thoát môn.

Thấy tất cả pháp không có tác giả thọ giả, không có thọ mạng tự tại, chỉ thấy vô thường khổ vô ngã bất tịnh, đây gọi là được Vô nguyện giải thoát môn.

Quán tất cả pháp không có sanh không có diệt, đây gọi là được Vô tướng giải thoát môn.

Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo có thể được thần thông không có ác giác quán, miệng trọn chẳng nói bốn thứ ác, không có đấu tranh, không nghe lời ác, lúc bấy giờ xa lìa ngũ cái tăng trưởng năm thiện căn được Sơ thiền.

Nhập sơ thiền rồi muốn được thần thông, cột tâm đầu mũi quán hơi thở ra vào sâu thấy chín vàn ngàn lỗ lông, hơi thở ra vào thấy thân đều rỗng không, đến tứ đại cũng như vậy.

Quán như vậy rồi xa lìa sắc tướng được thần thông, đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhãn thông?

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào chơn thiệt thấy sắc. Đã thấy sắc rồi tư duy như vầy: như ta được thấy tam thế các sắc, ý nếu muốn thấy tuỳ ý liền thấy. Đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhĩ thông?

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào. Quán hơi thở ra vào rồi thứ đệ quán âm thanh, đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Tha tâm trí?

Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na, đây gọi là Tha tâm trí, đến tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Túc mạng trí?

Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào lúc được Sơ thiền được nhãn thông. Được nhãn thông rồi quán thân ban sơ lúc ca la la nhẫn đến ngũ ấm sanh diệt, trong vô lượng kiếp ngũ ấm sanh diệt. Đến Tứ thiền cũng như vậy.

Nói là thiền ấy, cớ sao gọi là Thiền?

Vì mau chóng gọi là Thiền. Mau rất mau, trụ đại trụ, tĩnh tịch tĩnh, quán diệt viễn ly, đây gọi là Thiền.

Sơ thiền ấy cũng gọi là cụ túc, cũng gọi là viễn ly.

Thế nào là cụ túc? Thế nào là viễn ly?

Nói viễn ly là xa lìa ngũ cái.

Nói cụ túc là có đủ năm chi, đó là giác, quán, hỉ, an và định.

Thế nào là giác?

Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy quán nơi tâm tánh. Đây gọi là giác.

Thế nào là quán?

Nếu quán tâm hành, đại hành, biến hành, đều tuỳ ý. Đây gọi là quán.

Thế nào là hỉ?

Như chơn thiệt biết, biết rất rõ, tâm động chí tâm. Đây gọi là hỉ.

Thế nào là an?

Đó là thân an, tâm an, thọ an, thọ nơi lạc xúc. Đây gọi là an.

Thế nào là định?

Nếu tâm trụ đại trụ, chẳng loạn nơi cảnh duyên, chẳng sai lầm, không có điên đảo. Đây gọi là định.

Nhị thiền ấy, đồng xa lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là hỉ, an, nội tịnh và định.

Nhập Tam thiền cũng xa lìa ngũ cái, có đủ năm chi là niệm, xả, huệ, an và định.

Nhập Tứ thiền cũng lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là niệm, xả, bất khổ bất lạc và định.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ Tứ thiền, đây gọi là pháp hành.

Nếu có Tỳ Kheo quán thân nhàm sợ, xa lìa thân tướng, tất cả thân xúc, hỉ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc ấm, xa lìa sắc ấm, quán vô lượng không xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thức xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo tu Xa ma tha, Tỳ bà xá na quán tâm ý thức, tự biết thân nầy chẳng thọ ba thứ thọ, đã được xa lìa ba thứ thọ ấy, vì vậy nên gọi là được thức xứ định. Đây gọi là pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo quán tam thế không, biết tất cả hành cũng sanh cũng diệt, không xứ và thức xứ cũng sanh cũng diệt. Quán như vậy rồi thứ đệ quán thức: nay ta quán thức cũng chẳng phải thức, chẳng phải chẳng thức. Nếu chẳng phải thức ấy đây gọi là tịch tĩnh. Nay ta thế nào dứt hẳn thức ấy. Quán như vậy rồi được ít thức xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định.

Thế nào là Tỳ Kheo được Phi tưởng phi phi tưởng xứ định?

Nếu Tỳ Kheo có chẳng phải tâm tưởng, suy nghĩ như vầy: nay tưởng ấy của ta là khổ là thống là nhọt, là ung, là chẳng tịch tĩnh, nếu ta có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là tịch tĩnh.

Nếu Tỳ Kheo có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là được vô tướng giải thoát môn. Tại sao, pháp hành Tỳ Kheo suy nghĩ rằng:

Nếu có thọ tưởng, nếu có thức tưởng, nếu có xúc tưởng, nếu có không, nếu có thức, nếu có phi tưởng phi phi tưởng. Các thứ tưởng ấy gọi là thô tưởng. Nay nêu ta tu vô tướng tam muội thì có thể dứt được các tưởng như vậy, vì thế nên thấy phi tưởng phi phi tưởng là tịch tĩnh xứ. Thấy như vậy rồi nhập phi tưởng phi phi tưởng định.

Nếu được Phi tưởng phi phi tưởng định rồi mà không ái không ái không tham thì có thể phá vô minh, phá vô minh rồi thì gọi là được quả A La Hán.

Ba định trước không thức và thiểu xứ hai đạo sở đoạn. Định thứ tư sau đây trọn chẳng thể dùng thế tục đạo đoạn được. Phàm phu dù ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có thô phiền não cũng còn có mười pháp. Đó là thọ, tưởng, hành, xúc, tư, dục, giải, niệm, định và huệ.

Thọ là thức thọ, tưởng là thức tưởng, hành là pháp hành, xúc là ý xúc, tư là pháp tư, dục là muốn nhập định muốn xuất định, giải là pháp giải, niệm là niệm tam muội, định là tâm như pháp trụ, huệ là hụê căn và huệ lực.

Quán hướng tứ quả hành đến được A La Hán quả, quán sanh diệt và không tam muội. Quán tứ đại như bốn rắn độc. Mười pháp như vậy, không xứ thứ tư có đủ cả. Do vì không có thô phiền não nên phàm phu gọi đó là Niết bàn.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập thánh đạo nhàm lìa tứ thiền và tứ không xứ, quán nơi diệt định đạo trang nghiêm tư duy như vầy: Các hơi thở ra vào đều là vô thường, nếu ta dứt được xuất nhập tức thì là an lạc. Do đây nên tất cả các hành nhơn duyên đều diệt, thọ diệt, tưởng diệt, nhẫn đến huệ diệt. Vì giác quán diệt nên ấm nhập giới đều diệt, tham sân si diệt, tất cả tâm số pháp diệt, tất cả phi tấm số pháp cũng diệt. Đây gọi là pháp bất cộng với phàm phu, chẳng phải pháp thế gian, là pháp vô học.

Nầy Kiều Trần Như! Bực Tu Đà Hoàn, bực Tư Đà Hàm trọn chẳng thể được diệt định ấy. Thứ đệ được quả A Na Hàm cũng chẳng thể được. Nếu người A Na Hàm xả thân nầy rồi được quả A La Hán cũng không thể được diệt định ấy.

Nếu người được bát giải thoát đầy đủ, người nầy mới được diệt định ấy.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu giả sử Như Lai cùng kiếp tận kiếp nói môn Pháp Mục đà la ni ấy mới cùng tận được. Đây gọi là pháp vô ngại trí.

Nầy Kiều Trần Như! Pháp mục đà la ni như vậy chẳng thể nghĩ bàn.

Giả sử có người dùng quỷ mao đếm được số giọt nước biển, nhưng chẳng đếm biết được công đức của Pháp Mục đà la ni. Nếu trừ Như Lai, có ai nói hết được thì không có lẽ ấy. Nhẫn đến tất cả vi trần trong Ta Bà thế giới cũng như vậy.

Đức Phật bảo Kim Cương Sơn Đồng tử rằng: "Nầy Kim Cương Sơn! Pháp Mục đà la ni của ông mang đến đây cùng với chỗ được nói hôm nay có khác không?”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: "Bạch đức Thế Tôn! Không có khác vậy”.

Đức Phật hỏi: "Nầy Kim Cương Sơn! Nói như vậy chăng?”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: "Bạch đức Thế Tôn! Thiệt nói như vậy”.

Đức Phật nói: "Với pháp nầy, nếu có người thọ trì đọc tụng thơ tả rộng vì người giảng nói. Nên biết rằng người ấy thường được Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Bát Bộ Thiên Thần thủ hộ. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, qua sông phiền não nhập vào Bát chánh đạo”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: "Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Thiệt đúng như lời đức Phật dạy”.

Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: "Nầy Kiều Trần Như! Nếu có người trong hàng tứ chúng mà tu pháp ấy thì không gì phá hoại được. Đây gọi là thí quang, hay thanh tịnh tịch tĩnh, không có hành xứ, không trược, không động, không có sở y, không ít, không nhiều, gọi là chí xứ hành, là tế hành, là kiên hành, hay phá bốn ma và tứ ma chúng, cùng tất cả tà kiến, qua sông sanh tử vào biển trí huệ, thường được chư Thánh tán thán, được gần chỗ ngồi của Như Lai, dầu chưa dứt hết tất cả phiền não, cũng được thượng thân thượng sắc thượng lực thượng biện thượng niệm thượng huệ thượng xứ. Hoặc được làm Chuyển Luân Vương thống lãnh bốn ba hai một thiên hạ. Hoặc làm Thiên Đế Thích đến Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương. Hoặc làm Phạm Thiên Vương. Hoặc được toà kim cương dưới cội Bồ đề, phạm âm thâm viễn, tâm thường bình đẳng, được tâm đại bi, được Xa ma tha phá các phiền não gọi là Vô Thượng Tôn”.

Lúc Phật nói pháp ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên v.v… từ chỗ ngồi được quả A La Hán.

Tất cả chư Thiên và thế nhơn tán thán rằng: "Như Lai công đức bất khả tư nghị”.

Vô Lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Tứ Thiên Vương và Công Đức Thiên bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào lưu bố kinh điển nầy, tôi sẽ ủng hộ tứ bộ đệ tử tại xứ ấy, cũng ủng hộ quốc độ ấy những thành ấp thôn xóm tụ lạc quốc vương và nhơn dân”.

Lúc bấy giờ Thế Tôn phóng my gian bạch hào tướng quang chiếu suốt thế giới chư Phật mười phương làm mờ cả những nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc. Những nơi được ánh sáng bạch hào ấy chiếu đến thì tất cả gai gốc độc không còn hiện. Chúng sanh trong vô lượng hằng hà sa số thế giới mười phương thấy ánh sáng ấy, họ đều nhiếp niệm tư duy pháp lành.

Chư Phật mười phương thấy ánh sáng ấy đều bảo đại chúng mình rằng: "Nầy các thiện nam tử! Cách đây vô lượng hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược. Nơi đó hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu. Mười phương có vô lượng Bồ Tát, vô lượng Thanh Văn đều đến đó tập hội. Phật ấy vì đại chúng tuyên nói pháp hành môn Pháp Mục đà la ni. Phật ấy vì hàng Thanh Văn nói pháp hành xong phóng đại quang minh, sắp sửa tuyên nói môn Tịnh Mục đà la ni, để người trung thừa được quả Duyên Giác, để chư Bồ Tát trang nghiêm thành tựu Vô thượng Bồ đề đầy đủ thập địa mười tám pháp bất cộng chuyển pháp luân bất thối, phá ba ác thú, khiến tu Bát thánh đạo được quả Vô thượng”.

Vô lượng đại chúng chư Bồ Tát nghe đức Phật mình tuyên lời ấy, tất cả đều bạch Phật mình rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng tôi đều muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và cũng để nghe học môn Tịnh Mục đà la ni”.

Bấy giờ mười phương vô lượng đại chúng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới chỗ đức Thế Tôn đầu mặt lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Thế giới nầy, vô lượng Phạm Thiên đồng đến chỗ Phật cúng dường kính lễ rồi ngồi qua một phía.

Trăm ức Ma Thiên, trăm ức Tha Hoá Tự Tại Thiên, trăm ức Hoá Lạc Thiên, trăm ức Đâu Suất Đà Thiên, trăm ức Dạ Ma Thiên, trăm ức Đao Lợi Đế Thích Thiên, trăm ức Tứ Thiên Vương Thiên, trăm ức Nhựt Nguyệt Thiên, trăm ức Diêm La Vương, trăm ức Địa Hành Quỉ, bốn trăm ức A Tu La, bốn trăm ức Long Vương. Đại chúng như vậy đều đến cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Vô lượng Sa Môn, Bà La Môn, những người có thần thông cũng đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi qua một phía.

Trong thế giới có các ngoại đạo tướng sư thấy quang minh ấy đều suy nghĩ rằng:

Ánh sáng ấy chẳng phải ánh sáng nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc, ắt là ánh sáng lạ, có thể chẳng bao lâu có bảy mặt nhựt mọc sẽ đốt cháy hết đại hải, sông núi, cây cỏ, sau đó Dục giới sẽ có thuỷ tai.

Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa độc giết hại tất cả.

Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa đao kiếm giết hại người vật. Thời kỳ ác hại sắp đến rồi, ai có thể cứu được.

Có người nói: chỉ có Cù Đàm Sa Môn thương xót tất cả có lẽ ông ấy sẽ cứu được khỏi chết.

Bấy giờ mọi người chí tâm niệm Phật. Niệm rồi liền thấy Đại Bửu Phường Đình, do Phật thần lực, họ đến trong phường đình.

Vua Ba Tư Nặc, do Phật thần lực cũng thấy bửu phường và cũng được đến đó.

Vua Ưu Điền Đà Na, vua Ác Tánh, vua Luân Đầu Đàn, vua Ma Hê Đà, vua Đầu Đà Xa Na, vua Tần Bà Sa La. Các vua ấy cũng do Phật thần lực thấy bửu phường đều được đến đó. Các vua đến nơi rồi cúng dường kính lễ phật rồi ngồi qua một phía.

Các vua ngồi rồi bảo nhau rằng: "Trong đây có đại tiên nhơn, có Phật Thế Tôn. Vậy nhơn duyên của ánh sáng ấy nên đem hỏi ai?”.

Vua Đầu Đà Xa Na nói: "Tôi có một đại Bà La Môn sư tên Điện Man, giỏi biết tướng pháp, hay giải hay nói, là người đáng nên hỏi”.

Tướng sư Điện Man nghe rồi liền nói: "Tôi xem rộng hết tất cả tướng thơ đều không có ghi sự nầy. Thiệt tôi chẳng thể hiểu được điềm ánh sáng ấy. Chẳng riêng gì tôi, mà cả năm trăm tướng sư trong Diêm Phù Đề nầy cũng đều chẳng hiểu được”.

Vua Tần Bà Sa La nói: "Nầy các vua! Sao các vua lại rối vậy. Trong đại chúng nơi bửu phường nầy có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ Nhứt thiết trí, giỏi biết tất cả tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ sách tướng lành mười hai tháng, có lòng đại từ bi thương mến tất cả chúng sanh, thiệt ngữ chánh ngữ. Chỉ có Phật Thế Tôn đây có thể giải nói điềm ánh sáng ấy. Chúng ta nên hỏi Phật”.

Các vua và đại chúng đều tôn ngưỡng đồng bạch rằng: "Ngữa mong Như Lai vì chúng tôi mà nói sách tướng mười hai tháng”.

Đức Phật nói: "Nầy các vua! Nay đại hội nầy chẳng nên nói sách tướng thế gian”.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Nay trong đại chúng nầy có những người chẳng tin công đức Như Lai. Họ lại chẳng tin Thế Tôn là bực Nhứt thiết trí. Nguyện Phật vì phá hoại lòng nghi như vậy mà vì chúng tôi tuyên nói sách ấy. Những người như vậy được nghe rồi ắt vui mừng sanh lòng tin. Họ sanh lòng tin rồi mới có thể vì họ nói đạo xuất thế. Những người nầy cũng thường thích học hỏi để điều phục”.

Đức Phật nói: "Nầy Đại Vương! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ nói đó.

Nầy Đại Vương! Thưở xưa tại Tuyết Sơn có một tiên nhơn tên Bạt Già Bà. Tiên ấy ăn rau quả rễ củ, tu tập từ tâm, chưa dứt được phiền não kiết sử, chẳng điều phục được lòng tham dục.

Chỗ tiên nhơn ấy có một cọp cái bèn cùng hành dục. Cọp cái có thai đủ ngày tháng đến chỗ tiên nhơn đẻ mười hai người con trai. Vì lòng thương, tiên nhơn tắm rửa các trẻ và mớm nuôi chúng. Cọp mẹ cũng mến yêu luôn cho chúng bú.

Tiên nhơn đặt tên cho chúng: Thứ nhứt tên Đoan Già, thứ hai tên Bạt Già Bà, thứ ba tên Hổ, thứ tư tên Sư Tử, thứ năm tên Đảm Trọng, thứ sáu tên Bà La Đoạ Xà, thứ bảy tên Bộ Hành, thứ tám tên Bà La Nô, thứ chín tên Kiện Thực, thứ mười tên Ác Tánh, thứ mười một tên Sư Tử Thiềm, thứ mười hai tên Kiện Hành.

Mười hai đồng tử ấy đều ăn rau quả rễ củ, lúc lên bảy tuổi thì cả cha và mẹ đều chết. Các trẻ ấy sầu não lo lắng kêu khóc, ngước mặt lên trời mà nói rằng: Tại sao một lúc không có nơi nương dựa thế nầy.

Có thọ thần nghe lời kêu khóc ấy bảo rằng: Nầy các đồng tử chớ kêu khóc. Có chỗ dựa nương đó là Phạm Thiên thường thương mên chúng sanh.

Các ngươi ngày đêm sáu thời nên tự tắm gội, hướng lên hư không chí tâm lễ lạy cầu khẩn Phạm Thiên.

Phạm Thiên sẽ dùng vô ngại thiên nhĩ nghe tiếng của các ngươi. Nghe rồi Phạm Thiên sẽ đến chỗ chúng ngươi ở. Đến rồi vì thương xót Phạm Thiên sẽ phá trừ si ám cho các ngươi mà ban cho ánh sáng trí huệ. Được trí huệ rồi thì tất cả chư Thiên sẽ  cúng dường các ngươi huống là thế nhơn.

Các đồng tử y theo lời thọ thần mà thi hành suốt mười hai năm Phạm Thiên mới nghe tiếng kêu cầu của họ mà xuống cung Trời Đao Lợi.

Thiên Đế Thích thấy Phạm Thiên đến liền cung kính cúng dường rồi hỏi rằng: Đại Sĩ muốn việc gì?

Phạm Thiên nói: Nầy Kiều Thi Ca! Ông chẳng thấy mười hai tiên nhơn trong Tuyết Sơn kia sao? Nên cùng qua đó.

Thích Đề Hoàn Nhơn cùng vô lượng chư Thiên theo Phạm Thiên xuống Tuyết Sơn.

Thấy Phạm Thiên đến, mười hai tiên nhơn vui mừng hớn hở lễ bái cúng dường.

Phạm Thiên Vương hỏi:

Các người cớ chi trong mười hai năm tinh cần khổ hạnh cúng dường ta muốn cầu sự gì? Vì cầu danh tiếng sắc lực của cải, hay cầu thánh đạo trí huệ, hay cầu được thân chư Thiên?

Kiệt Già Tiên bạch Phạm Thiên: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi chẳng cầu những sự ấy. Tôi muốn cầu trí huệ để vì chúng sanh. Chúng tôi côi cút trẻ nít sớm mất cha mẹ tự theo ý mình không có ai dạy bảo.

Duy nguyện Đại Sĩ ban cho chúng tôi trí huệ, cho chúng tôi biết các nghiệp thiện ác, cũng rõ chúng sanh những nghiệp thiện ác, cũng biết chúng sanh quốc độ thành ấp Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, nam nữ đại tiểu các tướng thiện ác các sự khổ vui, các vua tham nước chẳng biết chán đủ hưng binh đánh nhau các tướng thạnh suy. Nếu tôi được biết rồi sẽ dùng phương tiện dạy họ dứt diệt tướng xấu ác cho họ được an lạc.

Nầy Đại Vương! Đây là nhơn duyên có sách tướng lành mười hai tháng, là nhơn sanh diệt thế gian chẳng phải pháp nhơn duyên vượt qua tam giới lục đạo cũng chẳng phải pháp dứt diệt ba ác đạo khổ”.

Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát ở trước Phật tâm niệm nói kệ hỏi nơi đức Phật Thế Tôn:

Chẳng phải có đướng sá

Mà cũng có luân chuyển

Như Lai cũng chẳng trụ

Tất cả đạo phi đạo

Phi đạo thấy là đạo

Đạo thấy là phi đạo.

Đức Phật nói: "Nầy Di Lặc! Phi đạo là chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ, chẳng phải trí chẳng phải cảnh giới của trí, chẳng phải minh ám, chẳng phải thường đoạn, chẳng phải thiện ác, chẳng phải sắc ấm đến thức ấm. Đây gọi là thiệt tánh, là pháp tánh, là nhứt thiết hành, là chơn thiệt tiết. Đây gọi là phi đạo.

Trong đạo ấy, chư Phật Như Lai chuyển chánh pháp luân mà chẳng thủ trước.

Các đạo như vậy, nếu có chúng sanh đạo thấy là phi đạo, phi đạo thấy là đạo thì chẳng đạt được đạo và phi đạo. Mới biết rằng ba đạo Như Lai đều hay phân biệt giải nói nhẫn đến chẳng dứt nơi đạo.

Nầy Di Lặc! Như Lai Thế Tôn ở trong không có đạo mà chuyển pháp luân để phá hoại chúng sanh ba thứ đạo vậy. Những gì là ba thứ đạo? Đó là phiền não đạo, khổ đạo và nghiệp đạo.

Nghiệp đạo là hành và hữu. Phiền não đạo là vô minh, ái và thủ. Khổ đạo là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử.

Ba đạo như vậy do nhơn duyên gì mà có. Đó là do xúc làm duyên mà có.

Nầy Di Lặc! Nhơn nhãn thấy sắc mà sanh ái tâm, ái tâm ấy là vô minh. Do ái tâm gây tạo nghiệp gọi là hành, chí tâm chuyên niệm gọi là thức, thức cùng đi chung với sắc gọi là danh sắc, sáu căn sanh tham gọi là lục nhập, nhơn nhập cầu thọ gọi là xúc, tâm tham trước gọi là ái, cầu lấy các pháp ấy gọi là thủ, pháp như vậy sanh gọi là hữu, thứ đệ chẳng dứt gọi là sanh, thứ đệ dứt gọi là tử, sanh tử nhơn duyên các khổ bức bách gọi là não, nhẫn đến thức nhơn duyên sanh tham cũng như vậy.

Mười hai nhơn duyên ấy, nơi một người trong một niệm đều có đủ cả.

Xuất có ba thứ, đó là nhơn xuất, vật xuất và đạo xuất.

Nếu có Tỳ Kheo tu hành pháp hạnh quán sát tướng mạo ái tâm mà mình có. Tỳ Kheo nên quán sát nếu có ái tâm tức là vô minh.Thể tánh của vô minh hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra hành và thức. Thức cũng hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra danh và sắc. Danh sắc xuất ra hai là vô trụ và làm lục nhập. Lục nhập xuất ra hai là chẳng nhàm dục và xúc. Xúc cũng xuất ra hai là sanh tâm thọ và cầu thọ. Thọ xuất ra hai là thọ khổ lạc và tâm tham ái. Ái xuất ra hai là hệ phược bền chắc và cầu lấy tức là thủ. Thủ xuất ra hai là tâm thâm và cầu có tức hữu. Hữu xuất ra hai là thích ở và nhơn duyên. Duyên xuất ra hai là sanh già và khổ duyên. Già xuất ra hai là hư hoại sắc trẻ và làm nhơn cho tử. Tử cũng xuất ra hai là hư hoại thọ mạng và ái biệt ly. Đây gọi là xuất nhơn.

Nếu Tỳ Kheo tu tập pháp hành quán các pháp như vậy cũng là xuất  cũng là diệt thì gọi là vật xuất”.

Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như: "Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là đạo xuất?

Nếu Tỳ Kheo kiến đạo thì có hai hạng là hành hành và huệ hành. Chừng ông có biết hành hành và huệ hành ấy chăng?”.

Tôn giả Kiều Trần Như nói: "Bạch đức Thế Tôn! Tôi chưa biết. Duy nguyện Như Lai vì Tỳ Kheo quán mười hai nhơn duyên được đại trí huệ phá phiền não kiết sử mà phân biệt giải nói. Tỳ Kheo nghe rồi sẽ thọ trì đầy đủ”.

Đức Thế Tôn hỏi Bửu Tràng đồng tử rằng: "Nầy Bửu Tràng! Chừng ông có biết hơi thở ra vào chăng?”.

Bửu Tràng đồng tử bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng biết”.

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Pháp hành Tỳ Kheo trước tiên quán vô minh đến lão tử.

Thế nào gọi là trước quán vô minh?

Trước tiên quán trung ấm nơi cha mẹ sanh tâm tham ái. Do ái nhơn duyên nên tứ đại hoà hiệp hai giọt tinh huyết hiệp thành một giọt bằng hột đậu gọi là ca la la. Ca la la ấy có ba sự là mạng căn, thức và hơi nóng. Nghiệp duyên quả báo trong đời quá khứ không có tác giả và thọ giả. Sơ tức xuất nhập gọi là vô minh ca la la. Lúc ấy hơi thở ra vào có hai đường đó là theo hơi thở lên xuống của bà mẹ cứ bảy ngày thì một lần biến đổi. Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng đây gọi là phong đạo. Chẳng thúi chẳng rã đây gọi là noãn nóng. Tâm ý trong ấy gọi là thức.

Nếu người muốn được quả Bích Chi Phật thì nên quán mười hai nhơn duyên như vậy.

Lại quán ba thứ thọ, nhơn duyên ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới. Quán thế nào?

Theo nơi niệm tâm quán hơi thở ra vào, quán sát nội thân da thứa thịt gân xương tuỷ như mây trên không. Gió động trong thân cũng như vậy. Có gió hay lên, có gió hay xuống, có gió hay đầy, có gió hay cháy, có gió hay tăng trưởng. Vì vậy nên hơi thở ra vào gọi là thân hành. Vì hơi thở ra vào theo giác quán mà sanh nên gọi là ý hành. Hoà hiệp phát ra âm thanh nên gọi là khẩu hành. Do nhơn duyên ba hành ấy nên có thức sanh. Do nhơn duyên thức nên có bốn ấm và sắc ấm nên gọi là danh sắc. Nhơn duyên ngũ ấm mà thức hiện hành sáu chỗ gọi là lục nhập. Nhãn và sắc đối nhau đến ý và pháp đối nhau gọi đó là xúc. Nhơn duyên xúc nên nhớ ghi sắc ấy đến pháp ấy gọi là thọ. Tham trước nơi sắc đến pháp thì gọi đó là ái. Nhơn duyên ái nên tìm cầu bốn phương đây gọi là thủ. Do nhơn duyên thủ nên có thân sau đây gọi là hữu. Do nhơn duyên hữu nên có sanh và lão tử các thứ khổ.

Đây gọi là cội cây lớn mười hai nhơn duyên, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới vậy.

Vì thế nên duyên nơi xuất nhập tức hay sanh ra tất cả các khổ phiền não. Phàm phu lúc sanh là phiền não hệ phược, lúc tử cũng phiền não hệ phược, trọn chẳng được thân tâm tự tại, chẳng được tam muội, chẳng hết các lậu.

Nếu có Tỳ Kheo quán xuất nhập tức như gió trong hư không, không có ngã ngã sở, không có tác giả không có thọ giả, nó theo duyên mà sanh cũng từ nơi duyên mà diệt, không có tướng không có vật không có giác quán.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy