× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 57 LVII. PHÁP HỘI BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT - THỨ NĂM MƯƠI BẢY 2

Nếu người chẳng thể hành những pháp như vậy, nên biết người ấy chẳng thể báo ơn, lại còn chẳng biết được ơn Như Lai.

Có hai hạng người quyết định chết chẳng trị chữa được rốt ráo chẳng thể biết ơn và báo ơn:

Một là hàng Thanh Văn và hai là hàng Duyên Giác.

Nầy pháp huynh! Ví như có người sa vào hố sâu, người ấy chẳng thể tự lợi lợi tha. Hàng Thanh Văn và Duyên Giác cũng như vậy, sa vào hố giải thoát chẳng thể tự lợi và lợi tha.

Lúc ấy Vô Úy Bồ Tát liền cởi thượng y cùa mình đang mặc để báo đáp ơn thuyết pháp của Bửu Nữ.

Bửu Nữ chẳng chịu nhận y ấy.

Vô Úy Bồ Tát nói: "Ta vì pháp vậy, mong nhận lấy đó.

Bửu Nữ nói: "Thưa pháp huynh! pháp lìa nơi tham, vì vậy nên chẳng nên thuyết pháp mà thọ nhận, pháp không có lấy vì vậy nên chẳng nên lấy vật cúng dường, pháp không có tham vì vậy nên chẳng nên tham vật cúng dường, pháp vô ngã và ngã sở vì vậy nên chẳng nên đem vật ngã sở để cúng dường, pháp thanh tịnh vì vậy nên chẳng nên đem vật bất tịnh để cúng dường, pháp không có thân tâm vì vậy nên thân tâm làm là chẳng pải cúng dường vậy, pháp chẳng phải tâm ý thức nên tâm ý thức chẳng phải cúng dường vậy, pháp không kéo níu nên có kéo níu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng hữu vô vì vậy nên pháp hữu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải các hữu và vậy nên tướng hữu là chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng phải giác quán người có giác quán là chẳng phải cúng dường vậy, pháp không tăng giảm người có tăng giảm là chẳng phải cúng dường vậy, pháp không cao hạ người có caoi hạ là  chẳng phải cúng dường vậy, pháp chẳng nói được chẳng nghe được không có văm tự, xả bỏ tất cả âm thanh lắng nghe, lìa xa thánh đạo vì vậy chẳng thể đem y cúng dường được, pháp không có cảnh giới chẳng phải nhãn cảnh giới nhẫn đến ý cảnh giới không có chỗ y trụ vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp tức là mười hai nhơn duyên chẳng phải thường chẳng phải đoạn vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp không chướng ngại, chẳng điên chẳng đảo, chẳng thể lường đo, không có ngã nhơn chúng sanh thọ mạng, bất sanh bất diệt bất xuất vô vi vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường.

Vô Úy Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Nữ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thọ pháp cúng dường như vậy.

Bửu Nữ nói: "Đức Như Lai dầu thọ pháp cúng dường, như pháp giới tánh mà chẳng phân biệt.

Vô Úy Bồ Tát nói: "Thế nào là phân biệt pháp giới?.

Bửu Nữ nói: "Nếu nói pháp khác, cúng dường khác, người thọ khác, người thí khác, đây thì gọi là phân biệt pháp giới. Nếu chẳng phân biệt pháp và cúng dường chẳng phân biệt người thọ người thí, đây thì gọi là bất phân biệt pháp giới.

Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nếu pháp giới ấy không có phân biệt sao lại nói phân biệt pháp giới và bất phân biệt pháp  giới?.

Bửu Nữ nói: "Tánh pháp giới ấy dầu không có phân biệt, mà vì các chúng sanh tâm họ điên đảo sanh ra phân biệt. Như có món đồ nên gọi là có bể hư, nếu có tạo tác có thủ trước thì gọi là phá hư gọi là phân biệt. Như món đồ hư hoại mà hư không trong món đồ trọn chẳng bị hư hoại. Tánh pháp giới cũng như vậy.

Đức Phật nói: "Lành thay lành thay! Nếu người có thể thành tựu pháp ấy, người như vậy kham thọ sự cúng dường của nhơn thiên trong Đại Thiên thế giới.

Đức Phật nói lời ấy xong, đại chúng mỗi người đều riêng cởi y Uất Đa La Tăng dâng lên Bửu Nữ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Phàm có nói được ấy tức là pháp thế gian, còn chẳng nói được tức là xuất thế. Tuyên nói được ấy tức là ái tâm, chẳng nói được ấy tức là ly ái. Nói được ấy tức là thế gian hành, chẳng nói được ấy tức là xuất thế hành.

Bạch đức Thế Tôn! nghĩa xuất thế là không có tạo tác, không có tạo tác thì không tranh tụng. Không tranh tụng là pháp Sa Môn. Pháp Sa Môn là pháp xuất thế. Pháp xuất thế là không có tội lỗi. Không có tội lỗi là chẳng thủ chẳng sanh chẳng diệt. Chẳng thủ chẳng sanh chẳng diệt là xuất thế. Pháp xuất chẳng tuyên nói được chẳng hiển thị được. Do nghĩa nầy nên tất cả các pháp chẳng tuyên nói được.

Lúc ấy trong đại chúng có một Thiên Tử tên Thắng Ý nói với Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng: "Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp chẳng tuyên nói được, sao chúng sanh được có ngôn thuyết?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy Thiên Tử! Chừng Ngài có biết âm hưởng có ngôn thuyết chẳng?.

Thắng Ý nói: "Thưa Đại Sĩ! Âm hưởng đều tùy theo nhơn duyên mà có.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nhơn của Am hưởng ấy định ở trong hay định ở ngoài?.

Thắng Ý nói: "Thưa Đại Sĩ! Nhơn của âm hưởng ấy chẳng định ở trong cũng chẳng định ở ngoài.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Thiên Tử! Vì chúng sanh cưỡng làm hai tướng nên có ngôn thuyết. Tánh của các pháp thiệt chẳng nói được.

Thắng Ý Thiên Tử hỏi: "Nếu tất cả pháp chẳng nói được, sao đức Như Lai nói tám vạn bốn ngàn pháp môn khiến hàng Thanh Văn thọ trì đọc tụng?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Như Lai Thế Tôn thiệt không có chỗ nói. Không có chỗ nói tức là Như Lai.

Nầy Thiên Tử! Ngài biết những gì là Như Lai chăng?Ngài toan chẳng cho là sắc thọ tưởng hành thức là Như Lai chăng?Ngài toan chẳng cho Phật là khứ lai hiện tại hữu vi vô vi ấm giới nhập là nhơn là quả nhiếp thuộc tam là hòa hiệp chăng?Ngài toan chẳng cho Phật là tưởng chẳng phải tưởng cũng tưởng cũng phi tưởng chẳng phải tưởng  chẳng phải phi tưởng chăng?.

Thắng Ý nói: "Chẳng phải vậy, thưa Đại Sĩ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nếu tất cả như vậy chẳng phải là Phật thì thế nào nói được. Nếu là chẳng nói được sao lại nói rằng đức Như Lai Thế Tôn diễn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì thế nên tám vạn bốn ngàn pháp môn thiệt chẳng nói được. Người Thanh Văn nghe thọ ấy cũng chẳng nói được. Chẳng nói được ấy là chánh nghĩa. Nghĩa nếu không có nói tức là chơn thiệt. Nếu là nói được thì là bất định. Nếu chẳng nói được thì là chứng được, nếu nói được thì chẳng thể chứng, tại sao, vì điên đảo vậy.

Thắng Ý Thiên Tử bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát ai sẽ tin đó?.

Lúc ấy Bất Khả Thuyết Bồ Tát liền dùng thần thông lực hóa ra một Tỳ Kheo nói rằng: "Nay tôi thâm tín chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát. Tại sao?Vì tôi như đức Như Lai, cũng như pháp giới. Như Lai các uẩn chẳng nói được, tôi các uẩn cũng chẳng nói được. Như Lai giới nhập chẳng nói được, tôi giới nhập cũng chẳng nói được. Như Lai Bồ đề, tôi Bồ đề cũng vậy bình đẳng không có sai biệt. Như Lai biết rõ các chúng sanh giới, tôi cũng biết rõ các chúng sanh giới. Như Lai chuyển pháp luân vô thượng, tôi cũng chuyển pháp luân như vậy. Như Lai nhập vô thượng Niết bàn, toi cũng nhập Niết bàn như vậy.

Thắng Ý Thiên Tử hỏi: "Nầy Tỳ Kheo! Phải chăng ông là ma tạo ra ư, mà tự nói rằng đồng với Như Lai?.

Hóa Tỳ Kheo nói: "Nầy Thiên Tử! Nếu có người nói rằng tôi khác Phật khác. Nên biết người ấy là đệ tử ma.

Nếu người nói rằng lấy tôi bình đẳng nên quán pháp bình đẳng. Vì pháp bình đẳng nên chúng sanh bình đẳng. Vì chúng sanh bình đẳng nên Như Lai bình đẳng. Người như vậy là chơn thiệt biết có thể vượt quá ma giới.

Lúc hóa Tỳ Kheo nói lời ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận giới thoát, tám ngàn Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn liền đem hoa hương cúng dường hóa Tỳ Kheo.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Chư Đại Sĩ! Cớ chi cúng dường hóa Tỳ Kheo ấy?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chư Đại Sĩ! Các Ngài nay chẳng biết là Bất Khả Thuyết Bồ Tát hóa ra chẳng?.

Chư Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ví như đức Phật lại hóa Như Lai. Có người cúng dường hóa Như Lai. Như vậy là cúng dường ai?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Người ấy tức là cúng dường Như Lai.

Chư Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Người cúng dường hóa Tỳ Kheo nầy tức là cúng dường Bất Khả Thuyết Bồ Tát vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Chư Đại Sĩ! Đại Bồ Tát Bất Khả Thuyết ấy sắm sửa cúng dường gì để tha hồ cúng dường?.

Chư Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Nếu có người trí không âm thanh hành không tên, không sắc, không tâm, không làm, không chỗ tuyên nói, không tự không tha, không pháp không phi pháp, không tinh không uế, cúng dường như vậy mới tha hồ cúng dường.

Hóa Tỳ Kheo nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: "Nầy Đại Đức! Ý Ngài cho rằng nay tôi khác với Ngài chăng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Nầy Tỳ Kheo! Chẳng có khác, tại sao, Như Lai thường nói tất cả các pháp dường như ảo hóa. Như Lai như thuyết ta cũng như tín.

Hóa Tỳ Kheo nói: "Nếu người có thể cúng dường Như Lai thì tức là cúng dường hóa, không có sai khác vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Bất Khả Thuyết Bồ Tát: "Thưa Đại Sĩ! Ai nhập vào hóa Tỳ Kheo mà nói lời như vậy?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Đại Đức! Như tượng trong gương. Ai ở trong gương mà có hiện tượng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Không có ai ở trong gương cả, do vì nhơn duyên tứ đại thanh tịnh mà có tượng hiện.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Hóa cũng như vậy. Do vì pháp tánh thanh tịnh nên có thể nói lời như vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu là như vậy, cớ sao tất cả chúng sanh chẳng thể tuyên nói như vậy?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Phía sau lưng gương chẳng rời lìa gương có chi tượng không hiện?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Do vì phía lưng gương tứ đại chẳng thanh tịnh vậy nên tượng không hiện.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Chúng sanh cũng vậy, vì chẳng thanh tịnh được pháp giới tánh nên chẳng tuyên nói được.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Lời và nghĩa trước sau của Ngài chẳng tương ưng nhau. Tại sao, vì trước đây Ngài nói tất cả pháp giới tánh tự thanh tịnh, nay sao Ngài lại nói pháp giới chẳng thanh tịnh?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Nếu chẳng như vậy, Tôn giả sao lại nhơn nơi A Thấp Tỳ Kheo mà được pháp nhãn tịnh?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Tôi chỉ nhơn A Thấp Tỳ Kheo khai đạo trừ diệt khách phiền não nên gọi là pháp nhãn tịnh kỳ thiệt vô sở đắc. Như có người nói rằng tôi được hư không. Nói như vậy không đúng nghĩa, tại sao, vì hư không tánh thường tự thanh tịnh, nếu đã là thường thanh tịnh thì làm sao khả đắc, do mây mù che phủ nên người chẳng thấy, trừ mây mù rồi thì gọi là thấy. Tánh pháp giới cũng như vậy, nên tôi thiệt ra không có được pháp nhãn. Thưa Đại Sĩ! Nay sao Ngài lại nói những nghĩa chẳng tương ưng, đó là nói pháp giới tánh hoặc tịnh hoặc bất tịnh? .

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Lời của Ngài nói với lời tôi nói đều là cảnh giới chư Phật Như Lai, chẳng phải chỗ thấy biết của chúng ta.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: Thưa Đại Sĩ! Nếu cho rằng lời nói như vậy là cảnh giới Phật, chẳng phải chỗ biết của tôi, sao lại còn nói tánh pháp giới không có phân biệt. Nếu có phân biệt thì nên biết pháp giới có vô lượng.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Pháp giới tánh nhứt, thiệt chẳng phải vô lượng.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Như pháp giới tánh ấy là nhứt, sao lại nói rằng là Phật cảnh giới chẳng phải chỗ biết của tôi. Như pháp giới tánh ấy là nhứt, thì do cớ gì mà tất cả chúng sanh chẳng gọi là Như Lai?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Ngài muốn phân biệt chúng sanh và Như Lai có tướng khác chăng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Như lời nói trước của Ngài, tôi chẳng muốn chúng sanh và Như Lai có tướng khác biệt.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ý Ngài định cho rằng có vô sinh chăng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Có, đó là pháp giới vậy.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ý Ngài lại cho rằng có tà chánh chăng?.

 Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Chẳng có, khối tà chánh ất ức là điên đảo.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ngài cho rằng có pháp chẳng sanh sanh chăng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chẳng có. Nếu là bất sanh thì cứu cánh bất sanh.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Ý Ngài cho rằng pháp bất sanh có phân biệt chăng?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chẳng có. Thưa Đại Sĩ.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Như là chẳng có ấy, cớ sao lại nói tất cả chúng sanh chẳng phải Như Lai. Nếu là như vậy thì ai là chúng sanh ai là Như Lai?.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Tôi đã trước hiểu nghĩa như vậy, vì hiển thị trí huệ mà hỏi như vậy .

Thưa Đại Sĩ! Nếu ai chẳng hiểu ý của Ngài nói, các chúng sanh ấy sẽ đọa địa ngục, tại sao, vì sanh phỉ báng vậy.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Pháp như vậy không người nào có thể phỉ báng, không người hay thọ nhận. Tại sao, nếu có phỉ báng nhận thọ, thì nên biết người ấy cũng sẽ được pháp như vậy.

Thưa Tôn giả! Như đối với đại lực sĩ, những kẻ yếu kém chẳng thể sanh nghi. Pháp của tôi cũng vậy. Nếu người chẳng ở chỗ vô lượng chư Phật trồng thiện căn thì trọn chẳng thể nghi được, chẳng thể thọ trì được.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa Đại Sĩ! Như tôi hiểu nghĩa lới nói của Ngài thì nếu có người hay tin thuận pháp ngũ như vậy hơn vô lượng kiếp hành đàn Ba la mật, thì Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tiến Ba la mật, thiên Ba la mật, thế gian huệ Ba la mật.

Đức Phật nói: "Lành thay lành thay! Như lời Xá Lợi Phất nói, nếu ai tin hiểu những lời như vậy, thì nên biết người ấy đã ở nơi vô lượng a tăng kỳ kiếp tu hành sáu Ba la mật như vậy. Nếu người chẳng thể tin được lời nói ấy thì chẳng thể được Phật thọ ký thành Vô thượng Bồ đề. Nếu người có thể tin thì được Phật thọ ký Vô thượng Bồ đề.

Này Xá Lợi Phất! Ta nhớ thuở trước trong vô lượng kiếp tu lục Ba la mật, vì chẳng thể tin lới nói như vậy nên chẳng được thọ ký, chẳng thành Vô thượng Bồ đề. Về sau ta tin rồi liền được thọ ký thành Vô thượng Bồ đề.

Vì thế nên biết rằng nếu người có thể tin hiểu lời nói ấy liền được thọ ký thành Vô thượng Bồ đề.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Do phần gì mà được thọ ký thì nghĩa ấy chẳng đúng, tại sao, vì là diệt pháp vậy. Nếu là phần vị lai mà được thọ ký thì nghĩa ấy cũng chẳng đúng, tại sao, vì chưa sanh vậy. Nếu là phần hiện tại mà được thọ ký thì cũng chẳng đúng, tại sao, vì chẳng nói được vậy. Nếu ba phần không có thọ ký ấy, sao lại nói rằng Bồ Tát thọ ký.

Đức Phật nói: "Nếu đại Bồ Tát tin bất khả thuyết, biết bất khả thuyết, nói bất khả thuyết, nơi bất khả thuyết chẳng sanh lòng kinh sợ, biết bất khả thuyết và sắc hai pháp ấy không có sai biệt, thọ tưởng hành thức, nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý, Phật Pháp Tăng Tam bữu, sanh tử giải thoát, pháp giới bất khả thuyết, những hai pháp ấy cũng đều không có sai biệt, đây gọi là Bồ Tát được nhẫn nhục phần, vô sanh phần, vô xuất phần, vô thủ phần, vô phần, vô hữu phần, vô tác phần, được đầy đủ thành tực những phần như vậy, nơi tất cả pháp chẳng sanh hai tướng hai tâm hai ý hai phần hai duyên.

Nếu có Bồ Tát có thể quán như vậy thì gọi là bất khứ bất lai bất trụ. Vì bất trụ nên không sở tác, vì không sở tác nên không nguyện cầu, vì không nguyện cầu nên chẳng đoạn chẳng thường, nếu không đoạn thường tức là trung đạo, nếu trung đạo tức là mười hai nhơn duyên, mười hai nhơn duyên không tác không cầu. Do vì nghĩa như vậy nên gọi là thậm thâm. Chẳng sanh mà sanh chẳng xuất mà xuất, do nghĩa nầy lại gọi là thậm thâm. Không có tác giả không có thọ giả, do nghĩa nầy lại gọi là thậm thâm.

Ví như ngọn lửa từ nhơn duyên lành, không có tác giả không có thọ gỉa. Lửa ấy tắt rồi không có chỗ đi không có chỗ đến. Tất cả các pháp cũng như vậy, không có tác giả không có thọ gỉa.

Nầy Bất Khả Thuyết! Nếu Bồ Tát có thể biết được như vậy, nên biết người ấy được thọ ký Vô thượng Bồ đề.

Lúc Phật nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn. Được nhẫn rồi, chư Bồ Tát ấy thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la chắp tay cung kính nói kệ rằng:

Nếu hay quán sắc ấm phần nầy

Và bất khả thuyết không hai tướng

Người nầy liền được trí bình đẳng

Cũng như Phật trước đã chứng được

Quán bốn ấm thọ tưởng hành thức

Cũng không sắc ấm không có hai

Chơn thiệt biết rõ bất khả thuyết

Liền được thọ ký như Phật trước

Và tất cả pháp không hai tướng

Không tiếng không chữ không có tiết

Vì vậy các pháp bất khả thuyết

Bất khả thuyết phần tam thế phần

Tức là nhứt phần không sai biệt

Thiệt tánh chơn tướng đều bình đẳng

Quán như vậy là chơn Bồ Tát

Tham dục sân hận và ngu si

Không vô tướng nguyện đều bình đẳng

Sanh tử Niết bàn không sai biệt

Phật Pháp Tăng cũng không có hai

Nghĩa của các pháp bất khả thuyết

Không có sanh diệt như hư không

Không tác không thọ như ngọn lửa

Có duyên thì sanh không duyên diệt

Diệt rồi không có chỗ đến đi

Tất cả các pháp cũng như vậy

Các pháp đều từ nhơn duyên sanh

Vì nhơn duyên dứt nên gọi diệt

Nếu các pháp bất sanh bất diệt

Cũng lại chẳng thường cũng chẳng đoạn

Tức là thậm thâm thập nhị duyên

Còn chẳng theo duyên mà xuất sanh

Vốn không có sanh mà nay sanh

Vốn không có xuất mà nay xuất

Không có tạo tác không thọ gỉa.

Không có các nhơn và quả báo

Cũng chẳng phải có chẳng phải không

Chẳng có thử bỉ hai thứ tướng

Cũng chẳng tại nội chẳng tại ngoại

Tức là thậm thâm thập nhị duyên

Pháp ấy vốn không mà nay có

Pháp có rồi sau trở lại không

Nếu là pháp có tam thế nhiếp

Tánh tướng nó như trên đã nói

Nếu là nội pháp trung ngoại không

Tánh của ngoại pháp nội trung không

Tất cả các pháp cũng như vậy

Đây là đệ nhứt chơn không nghĩa

Tất cả chúng sanh tâm bổn tánh

Thanh tịnh không nhơ như hư không

Phàm phu chẳng biết tâm tánh không

Nói bị khách phiền não ô nhiễm

Nếu khách phiền não làm tâm nhơ

Trọn chẳng sạch được như hờm bẩn

Vì khách phiền não che chướng tâm

Nói rằng phàm phu tâm bất tịnh

Như tâm tánh ấy là bổn tịnh

Lẽ ra phiền não khách che chướng

Vì vậy nên chẳng được giải thoát

Tâm chẳng sanh được thứ đệ tâm

Tâm chẳng thấy được thứ đệ tâm

Tất cả các tâm từ duyên sanh

Vì vậy thứ đệ tâm chẳng dứt

Có thể thấy biết tâm như vậy

Dường như hư không và tướng huyễn

Người ấy liền được tâm tự tại

Cũng hay thấy rõ thứ đệ tâm

Dường như ảo sư làm ảo tướng

Vô lượng thế nghiệp sư cũng vậy

Như tâm chúng sanh cũng như vậy

Biết rõ thì được tâm tự tại

Nếu người hay được nhẫn như vậy

Dường như ảo huyễn không nhơn duyên

Biết được như vậy chẳng sanh tham

Chẳng do nhơn duyên được giải thoát

Tất cả chúng sanh các tâm tánh

Như Lai nói là tam thế nhiếp

Dường như vật áo không chơn tánh

Tâm các chúng sanh cũng như vậy

Tâm hay biết rõ các chúng sanh

Chúng sanh cũng hay rõ nơi tâm

Tâm chẳng phải sắc chẳng thấy được

Như tâm chúng sanh cũng như vậy

Như chúng sanh tánh chư pháp tánh

Tánh pháp vô vi bất khả thuyết

Như Lai biết rõ chơn pháp tánh

Vì vậy gọi là vô ngại trí

Tất cả phàm phu chẳng thấy biết

Lưu chuyển trong vô lượng sanh tử

Bị vô minh che me chơn thiệt

Chẳng biết như vậy và pháp giới

Tánh của pháp giới như hư không

Tất cả thế gian chẳng nói được

Như Lai tu tập đại từ bi

Trong pháp không chữ mà diễn nói

Dường như thế gian  sáu mùi vị

Riêng riêng đều chẳng tự hay biết

Chúng sanh dầu nói ấm giới nhập

Mà chẳng rõ biết tánh tướng nó

Chúng sanh hư không và ảo huyễn

Vì xa lìa tất cả điên đảo

Nên gọi đây là tịnh trí huệ

Như Lai biết rõ tất cả pháp

Không tác không thọ như cỏ cây

Nếu hay quán sát pháp như vậy

Người ấy liền được Vô sanh nhẫn

Nếu có vô lượng chư Bồ Tát

Chúng được Vô sanh nhẫn như vậy

Người ấy liền được vô lượng Phật

Thọ ký Bồ đề Vô Thượng đạo

Nếy hay buông bỏ nội ngoại vật

Nhẫn đến chẳng tiếc thân mạng mình

Hay điều tất cả các chúng sanh

Người ấy liền được Phật thọ ký

Nếu hay thanh tịnh các chúng sanh

Đã thanh tịnh rồi chẳng kiêu mạn

Nói các chúng sanh đều thanh tịnh

Do nhơn duyên ấy được thọ ký

Nếu biết các pháp niệm niệm diệt

Vì chúng sanh mà tu nhẫn nhục

Lại hay diễn nói chúng sanh nhẫn

Nhơn nơi nhẫn nầy được thọ ký

Xa lìa ác pháp siên tinh tiến

Tu tập thiện pháp chẳng thôi nghỉ

Lại hay diễn nói siêng tinh tiến

Nhơn tinh tiến mà được thọ ký

Tất cả các pháp bổn tánh tịnh

Bình đẳng không khác như hư không

Lại hay diễn nói bình đẳng ấy

Nhơm tam muội nầy được thọ ký

Nếu hay biết pháp bất khả thuyết

Lúc nói chẳng sanh lòng kinh sợ

Hay dùng phương tiện hóa chúng sanh

Do nơi trí nầy được thọ ký

Lúc bấy giờ Ma vương đem bốn binh chủng, dù là xa binh, mã binh, tượng binh và bộ binh đến chỗ đức Phật. Ma vương tự hóa thân làm tượng Tỳ Kheo nói với Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng: "Nầy Đại Sĩ! Ma vương Ba Tuần nay đem bốn binh chủng đến chỗ Phật, nay Ngài muốn sắp đặt phương tiện gì?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nếu ông ấy đến đây tôi sẽ làm cho ổng phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Tỳ Kheo nói: "Nầy Đại Sĩ! Ma vương Ba Tuần ấy đều không có tâm lành làm sao khiến ổng phát tâm Bồ đề được?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Tôi sẽ điều phục khiến ổng được tâm lành, được tâm lành rồi do nhơn duyên ấy mà ổng phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Ta sẽ điều phục ổng thế nào?Ta sẽ ở cung Trời Tha Hoá Tự Tại kia làm chủ cảnh giới ấy, cung trời kia sẽ thuộc về ta. Đã thuộc về ta rồi ta sẽ tùy ý mà điều phục họ.

Ma vương nghe lời ấy lòng rất lo sợ liền muốn lui về mà không thể được, tự nghĩ rằng nay đây ta đã chẳng bị trói lại chẳng thoát được, lại cũng chẳng thể hiện sức thần thông.

Lúc ấy ma vương liền nghe trong hư không có tiếng nói rằng đây là thần thông lực của Bất Khả Thuyết Bồ Tát.

Ma vương liền đến lễ lạy Bất Khả Thuyết Bồ Tát mà sám hối rằng: "Nay tôi bỏ lìa tất cả ma nghiệp.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy Ba Tuần! Ai trói buột ông?.

Ma vương nói: "Thưa Đại Sĩ! Tôi không có trói thả mà chẳng đi được.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy Ba Tuần! Như nay ông chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được, tất cả chúng sanh cũng như vậy, chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được. Tại sao, vì bị vô minh ái v.v điên đảo trói buộc mà chẳng được giải thoát.

Nầy Ba Tuần! Nay ông muốn phá hoại sự trói buộc thì ông phải mau phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tất cả chúng sanh thành tựu mấy pháp thì có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề?.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Chúng sanh thành tựu mười sáu pháp thì có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Những gì là mười sáu pháp?Đó là:

Thường tu thượng tâm mài sáng các căn, siêng làm các thiện pháp trang nghiêm công đức, chí tâm trì giới chẳng sanh lòng hối nhàm. Tu tập đại bi thương xót chúng sanh, tin Phật Thế Tôn có đại từ bi, vì các chúng sanh thọ làm các điều khổ, hay phá các khổ não của chúng sanh, điều phục các căn, có đủ chánh niệm, tâm không kinh sợ, chẳng cầu các cõi, thích cầu Phật trí, chẳng thích Nhị thừa, thọ vui chẳng kiêu, thọ khổ chẳng hối, cung kính bực trí huệ, phá hoại kiêu mạn, biết ơn báo ơn, có đủ sức lực nơi thân hộ trì chánh pháp chẳng dứt Tam bữu. Đây là mười sáu pháp vậy.

Nầy Ba Tuần! Nếu chúng sanh có đủ mười sáu pháp như vậy, nên biết rằng người ấy có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề”.

Ma vương nói: "Thưa Đại Sĩ! Nếu chúng sanh có đủ các pháp như vậy có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay tôi thiệt không có các pháp ấy thì làm sao phát tâm Vô thượng Bồ đề được”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Như trồng cây là vì bông trái hột. Lúc đầu đầu chưa có, nên biết về sau chắc sẽ được chẳng nghi.

Chúng sanh nếu hướng về Bồ đề tâm mà tu hành cũng lại như vậy, dầu chưa hiện hữu mà lần lần sẽ được mười sáu pháp ấy”.

Ma vương nói: "Lành thay lành thay! Thưa Đại Sĩ! Đúng như lời Ngài nói”.

Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn chư Thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào là hướng về Bồ đề tâm mà tu hành?”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Có ba mươi hai pháp hướng về Bồ đề tâm mà được tăng trưởng.

Một là chí tâm. Hai là định tâm. Ba là tịnh tâm. Bốn là nguyện dục tâm. Năm là tâm chẳng phóng dật. Sáu là tu tập thiện pháp. Bảy là trang nghiêm xu hướng Vô thượng Bồ đề. Tám là hay dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh. Chín là thích là phương tiện. Mười là điều phục chúng sanh. Mười một là hay thành thực chúng sanh. Mười hai là có thể biết  nhơn duyên. Mười ba là siêng tu tinh tiến. Mười bốn là thân cận thiện hữu. Mười lăm là có đủ tín tâm. Mười sáu là vì có tín tâm bèn sanh lòng hoan hỉ. Mười bảy là cúng dường cung kính Sư trưởng Hoà thượng người có đức. Mười tám là có thể săn sóc người bịnh khổ. Mười chín là có thể thiện tư duy. Hai mươi là như pháp mà trụ. Hai mươi mốt là vì hộ pháp mà chẳng tiếc thân mạng. Hai mươi hai là thành tựu tổng trì. Hai mươi ba là có đủ niệm tâm. Hai mươi bốn là hay nói thâm pháp. Hai mươi lăm là đầy đủ trí huệ. Hai mươi sáu là có đủ các lực. Hai mươi bảy là nguyện muốn Bồ đề. Hai mươi tám là chẳng bỏ chúng sanh. Hai mươi chín là tu tập tâm từ bi hỉ xã. Ba mươi là du nơi sanh tử mà chẳng sanh hối. Ba mươi mốt là vì thọ thân mà trang nghiêm trí huệ. Ba mươi hai là biết tất cả pháp chẳng tuyên nói được. Đây là ba mươi hai pháp hướng về Bồ đề tâm mà được tăng trưởng.

Bồ Tát có thể tăng trưởng những pháp nầy quyết được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Ba Tuần! Ví như đêm mùa thu, mặt trăng đầu tháng tăng trưởng cũng sáng cũng tịnh. Chúng sanh chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề có đủ ba mươi hai pháp cũng như vậy.

Nầy Ba Tuần! Bồ Tát nếu có thể đủ ba mươi hai pháp như vậy thì được thân có  sắc tướng đẹp, thường được nhơn thiên cúng dường, có thể bỏ tất cả chẳng cầu quả báo, phát đại thệ nguyện, thanh tịnh ba đời, trì giới hoàn toàn thanh tịnh chẳng lậu chẳng phá, tu tập nhẫn nhục, được pháp lành từ nội nghe, vo sanh pháp nhẫn trang nghiêm thiện pháp, thân tâm tịch tĩnh chẳng tham thiện căn, trọn chẳng tu tập ưa thèm các thiền, cũng chẳng tu tập duyên chúng sanh từ. Chỉ tu pháp duyên và vô duyên từ, tu tập đại bi, làm việc làm của người, biết ơn báo ơn chẳng bỏ chúng sanh, thích nghe chánh pháp như chỗ được nghe mà diễn nói. Lúc thuyết pháp không có ý tưởng tham lợi danh, hay điều tự và tha rời lìa tâm tham sân, dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thủ chúng sanh, tu hành hai thứ phước trí trang nghiêm tỳ bà xá na và xa ma tha, đầy đủ niệm tâm thanh tịnh các oai nghi, thành tựu được tứ vô ngại trí, thân khẩu ý ba nghiệp theo nơi trí huệ, tâm trí kiên cố không có thối chuyển, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Nầy Ba Tuần! Ví các chúng sanh nhập vào Phật pháp nên hiển thị cácvăn tự âm thanh diễn thuyết. Trong đệ nhứt nghĩa đếu không có văn tự âm thanh diễn nói như vậy. Đây thì gọi là nhứt thiết pháp tánh. Nhứt thiết pháp tánh, tánh ấy chẳng nói được�.

Ba Tuần hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp chẳng nói được ấy, làm sao Bồ Tát phát đại thệ nguyện hướng đến Bồ đề?”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Ví như hư không tánh vô biên, trong ấy chừng có thể làm ao làm giếng được chăng?”.

Ba Tuần nói: "Chẳng được, Thưa Đại Sĩ!”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Nếu tất cả pháp tánh không có chẳng nói được ấy thì trọn chẳng thể chứng chẳng thể tuyên nói”.

Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào gọi là phát Bồ đề tâm?”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Biết rõ tham tánh thì gọi là phát tâm. Nếu biết rõ sân, si xan lẫn, tật đố, ám, nhập, giới, vô minh đến sanh lão tử khổ lớn, đây gọi là phát tâm”.

Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tất cả các pháp có những tánh gì?”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Tất cả các pháp, vô xuất là tánh”.

Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào là vô xuất?”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Luận về vô xuất tức là không có dấu vết của ma. Dấu vết ma ấy tức là ngã và ngã sở. Lìa ngã và ngã sỡ thì gọi là vô xuất.

Giác quán nhơn duyên hành tưởng họp lấy, nói tưởng phi tưởng, sanh diệt thiện ác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, thế xuất thế, đây tức là dấu ma. Nếu không các điều ấy tức là vô xuất”.

Lúc nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn.

Trong hư không phát ra tiếng nói: "Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần! Lúc nói pháp ấy có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn”.

Ma vương hỏi hư không: "Bồ Tát có đủ những pháp gì mà được Vô sanh nhẫn?”.

Tiếng trong hư không đáp rằng: "Người tu tập đầy đủ sáu Ba la mật thì được Vô sanh nhẫn”.

Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai vì chư Bồ Tát mà nói về bất khả thuyết”.

Đức Phật nói: "Nầy Bất Khả Thuyết! Nếu có Bồ Tát lúv hành Đàn Ba la mật, quán thân như ảo huyễn, quán thọ như mộng mơ, quán Bồ đề như hư không, lúc làm bố thí chẳng thấy một pháp, đây gọi là Đàn Ba la mật bất khả thuyết.

Nếu Bồ Tát quán giới và giới địa, hủy giới và hủy giới địa, quán các chúng sanh không có ngã tánh, quán chư pháp tánh, đây gọi là trì giới chẳng hủy phá giới , đủ giới rồi chẳng  phát ba nhãn: một trì giới nhãn, hai phá giới nhãn, ba Bồ Tát nhãn, dầu trì giới mà chẳng cầu một pháp, chẳng thấy Bồ đề quá khứ vị lai hiện tại. Đây gọi là lúc hành Giới Ba la mật bất khả thuyết .

Nếu Bồ Tát quán các chúng sanh bất sanh bất xuất mà tu nhẫn nhục, quán Bồ đề chúng sanh và các pháp thảy đều không tịch, trong chúng sanh rỗng không chẳng có tâm giận mừng, cũng lại chẳng hay biết tướng một pháp oán thù mà tu nhẫn nhục, cũng lại chẳng biết xa lìa một pháp mà tu nhẫn nhục, đây gọi là Nhẫn Ba la mật bất khả thuyết.

Nếu Bồ Tát siêng tu hành tinh tiến trọn không thấy có thân khẩu ý ba nghiệp là sanh là diệt mà tu tinh tiến, chẳng hoại pháp giới , vì độ chúng sanh mà tu trang nghiêm hư không vô ngã chẳng sanh lầm loạn. Ví muốn đầy đủ tất cả Phật pháp mà hành trang nghiêm, nghe nói Phật pháp tức là không có pháp, trong sự ấy chẳng sanh lòng kinh sợ, thanh tịnh trang nghiêm má quán đó như hư không, cũng chẳng trang nghiêm chuyển chánh pháp luân, tại sao, vì tất cả các pháp chẳng nói được vậy, đây gọi là Tiến Ba la mật bất khả thuyết

Nếu Bồ Tát tu Thiền Ba la mật, tu rồi chẳng thấy quá khứ tâm tánh, tịnh bổn tánh rối chẳng thấy trụ xứ, cũng chẳng thấy tâm tham sân si, tâm thượng trung hạ tâm huệ vô tham vô sân vô si, cũng chẳng phân biệt, tại sao, vì như tánh tham sân si thì vô tham vô sân vô si cũng như vậy, quán như vậy rồi cũng  nhập thiền định, cũng chẳng có thể bình đẳng, bình đẳng cũng chẳng có thể lấy pháp bất bình đẳng mà làm bình đẳng, cũng chẳng rõ biết ấm giới nhập, thiện ác, tịnh uế, hữu lậu vô lậu, thế gian xuất thế gian, sanh tử Niết bàn các pháp đối trị, đây gọi là Thiền Ba la mật bất khả thuyết.

Thế nào gọi là chẳng thể tuyên nói Bát Nhã Ba la mật?

Nếu không có huệ hành, không có ngã ngã sở, không có chúng sanh thọ mạng sĩ phu, không có đoạn thường hữu vô các kiến chấp, không có Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, đây gọi là vô hành. Không có tranh tụng không có khứ không có lai đây gọi là tùy theo huệ hành. Rời lìa tối vô minh và ác tà kiến quán pháp như vậy tức là chơn thiệt quán.

Nầy Bất Khả Thuyết! Lúc hỏa tai khởi lên đốt hết tất cả vô minh nhơn duyên chỉ trừ hư không. Lúc Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật chẳng nói được ấy cũng như vậy, không có nhơn duyên thấy tất cả pháp bổn tánh tận diệt, do phương tiện mà vì chúng sanh  nói Niết bàn, cũng biết chúng sanh không có danh tự do phương tiện nên tuyên nói danh tự, do huệ lực biết quá khứ vị lai nói sanh diệt, dầu biết không có thân tâm mà do phương tiện nên nói thân tâm, dầu biết các pháp chẳng thể tuyên nói mà vì chúng sanh nên phương tiện tuyên nói, dầu biết không có người thí kẻ thọ mà vì phương tiện nên nói bố thí nói thọ lãnh, dầu biết các pháp bổn tánh thanh tịnh mà vì phương tiện nên nói có cấm giới, dầu biết các pháp vốn không tánh sân mà vì  phương tiện nên tu nhẫn nhục , dầu biết không có tu không có viễn ly mà vì phương tiện nên siêng tu tinh tiến, dầu biết các pháp bổn tánh tịch tĩnh mà vì phương tiện nên tu hành thiền định, dầu biết không có sanh tử Niết bàn mà vì phương tiện nên tu tập trí huệ, dầu biết các pháp bổn tánh tự diệt mà vì phương tiện nói Niết bàn tức là Bát Nhã. Luận về Bát Nhã ấy, không có chữ chẳng nói được, chẳng thể thấy được, chẳng thể nghe được, không có tâm ý thức, chẳng thủ chẳng xả. Chẳng phải ngã ngã sở. Chẳng phải có xứ sở, chẳng phải có hình chất quy củ, chẳng cao chẳng hạ, chẳng phải sắc chẳng phải thấy, chẳng phải đối đãi. Chẳng phải tạo tác, chẳng phải giác, chẳng phải tưởng, không có trụ xứ, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải hư không, chẳng phải nội chẳng phải ngoại, chẳng phải làm, chẳng phải có, chẳng phải mập chẳng phải gầy, chẳng phải tăng chẳng phải giãm, bổn tánh thanh tịnh chẳng phải tham sân si, chẳng phải cuồng loạn, không có biên tế, chẳng thể cân lường, đây gọi là Bát Nhã Ba la mật bất khả thuyết”.

Lúc nói pháp ấy, Ma vương Ba Tuần ở nơi trói buộc được mở thoát, lòng rất vui mừng liến nói rằng: "Như nay tôi nghe pháp bất khả thuyết mà được giải thoát. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe pháp ấy cũng sẽ như tôi ở trong điên đảo mà được giải thoát,  tất cả chúng ma chẳng được tiện lợi”.

Lúc ấy trong đại hội có một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chánh pháp như vậy gọi tên là gì và phụng trì thế nào?”.

Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Kinh nầy gọi là Phương Đẳng Đại Tập, cũng gọi là Bất Khả Thuyết Pháp , cũng gọi là Nhập Nhứt Thiết Phật Pháp Đoạn Nhứt Thiết Phật Sở Hữu Danh Tự.

Nếu có người có thể đảnh đới thọ trì pháp như vậy thì có thể được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Lúc ấy trong hư không trỗi nhiều kỹ nhạc nhiều hương hoa cúng dường Bất Khả Thuyết Bồ Tát, Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tông giả A Nan đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn , Nhơn, Thiên đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

 

PHÁP HỘI BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT

THỨ NĂM MƯƠI BẢY

HẾT

--- o0o ---


Xem dưới dạng văn bản thuần túy