× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 56 LVI. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát - Thứ 56 (2)

Lúc Vô Ngôn Bồ Tát nói kệ ấy, có một vạn hai ngàn nhẫn nhục do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, sáu vạn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn.

Chư Bồ Tát trong hoa đài đều đứng dậy đầu mặt lễ Phật, rồi dùng diệu liên hoa cung kính cúng dường lên Vô Ngôn Bồ Tát miệng tuyên lời rằng: "Tôi là người biết ơn, nay đây tôi báo ơn”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà Bồ Tát nầy nói: Tôi là người biết ơn nay tôi báo ơn?”.

Ðức Phật nói: "Nầy Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát nầy đều nhơn nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà phát Bồ đề tâm, vì vậy nên đồng lên tiếng nói: Tôi là người biết ơn, nay tôi báo ơn.

Nay chư Bồ Tát ấy lại nhơn nơi Vô Ngôn Bồ Tát mà được nghe thọ kinh điển Ðại Tập thậm thâm nầy gồm đến đây thân cận nhìn thấy cúng dường nơi ta”.

Vô Ngôn Bồ Tát bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chỗ nghi nay muốn thưa hỏi. Ngưỡng mong đức Như Lai thương xót hứa cho”.

Ðức Phật nói: "Nầy Vô Ngôn! Tùy ý ông hỏi, Phật sẽ vì ông mà nói”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Ngôn Bồ Tát: "Thưa Ðại Sĩ! Nếu không có ngôn ngữ sao lại hỏi được?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Tất cả các pháp thảy đều vô ngôn tự vô thuyết, tại sao, vì tất cả chúng sanh tánh vô ngôn vậy. Do nơi giác quán mà có âm thanh phát ra, nếu không có giác quán thì làm sao có âm thanh làm sao nói được làm sao có văn tự.

Thưa Ðại Ðức! Luận về trong giác quán không văn tự không ngôn thuyết, lìa rời giác quán cũng không có âm thanh văn tự, thể của giác quán tức chẳng phải giác quán. Tôi làm văn tự cũng chẳng giác quán. Tôi nhơn nơi giác quán mà có công đức lớn. Nếu hay quán thâm pháp như vậy thì gọi là thập nhị nhơn duyên. Nếu pháp từ duyên sanh tức là rỗng không tịch tĩnh thì không có tướng nhứt định. Nếu có chơn thiệt biết như vậy tức là chơn thiệt biết rõ pháp tánh.

Thưa Ðại Ðức! Các pháp đều từ nhơn duyên hòa hiệp. Mà trong hòa hiệp thiệt không có tác giả không có sanh không có xuất. Vì vậy mà các pháp không có chủ không có âm không có thanh không có tâm không có giác quán chẳng phải không giác quán. Tại sao, vì điên đảo nhơn duyên mà có sanh có diệt. Vì vậy nên nếu có hỏi có nghe có giải nói đều chẳng hiệp chẳng tan là nhứt tướng là vô tướng.

Thưa Ðại Ðức! Luận về vấn nạn gạn hỏi đó tức là đại biết. Tôi có đại biết nên tôi hỏi Phật. Hỏi như vậy tức là biết vấn chẳng phải là khẩu vấn. Luận về khẩu vấn là Thanh văn vấn. Thanh Văn thủ trước nơi thanh nên gọi là Thanh Văn. Bồ Tát thì biết rộng khắp nên không có khẩu vấn”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Nếu tất cả pháp tánh vô định thì tất cả chúng sanh tánh vô định, nếu là vô định thì Bồ Tát vì ai mà tu tâm bi?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Nếu các chúng sanh có tánh nhứt định thì tất cả Bồ Tát trọn chẳng tu tâm bi. Tất cả chúng sanh thiệt chẳng phải chúng sanh, vì điên đảo mà quan niệm chúng sanh, vì vậy mà Bồ Tát tu tập tâm bi, vì phá hoại điên đảo nên tuyên nói không có ngã.

Thưa Ðại Ðức! Chư đại Bồ Tát chẳng vì phá hoại các cõi mà nói chánh pháp, chẳng vì phá hoại ngã thọ mạng sĩ phu mà tu từ bi tuyên nói chánh pháp, vì biết chơn thiệt thâm pháp giới mả tuyên nói chánh pháp. Chơn pháp giới đó là không tam muội vô tướng vô nguyện.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Lành thay, lành thay, thưa Ðại Sĩ! Tôi cũng chơn thiệt biết rõ như vậy, sở dĩ tôi hỏi là muốn thử trí của Ðại Sĩ. Vì muốn Phật pháp tăng trưởng nên hỏi, vì muốn lợi ích chúng sanh nên hỏI”.

Vô Ngôn Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như trong khế kinh nói có hai nhơn duyên có thể sanh chánh kiến, đó là nghe tiếng và khéo tư duy. Ngưỡng mong thương xót vì chư Bồ Tát mà diễn nói đó. Thế nào là nghe tiếng và khéo suy nghĩ có thể sanh chánh kiến?

Ðức Phật nói: "Nầy Vô Ngôn! Chí tâm lắng nghe Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

Nầy Vô Ngôn! Vì tâm Bồ đề ,ma nghe pháp tức là nghe tiếng, chí tâm nghĩ nhớ tâm Bồ đề đó là khéo tư duy, quán tâm Bồ đề đó là chánh kiến.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì Bồ đề đạo mà nghe pháp đó là nghe tiếng, chẳng xa lìa đạo là khéo tư duy, như pháp mà trụ là chánh kiến. Vì điều phục tâm mà nghe pháp là nghe tiếng, xa lìa ác tâm là khéo tư duy, được thiện tâm là chánh kiến. Vì trang nghiêm thiện pháp mà nghe pháp đó là nghe tiếng, tu tập trang nghiêm là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề đó là chánh kiến. Ví nghe pháp bố thí đó là nghe tiếng, có thể xả bỏ tất cả là khéo tư duy, chẳng cầu quả báo thì gọi là chánh kiến. Vì nghe các cấm giới đó là nghe tiếng, chí tâm hộ giới đó là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe pháp nhẫn gọi là nghe tiếng, bị đánh mắng chẳng báo trả gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe tinh tiến gọi là nghe tiếng, phá hoại giải đãi gọi là khéo tư duy, nguyện hướng Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe tam muội gọi là nghe tiếng, hay tịnh thân tâm là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe các trí huệ là nghe tiếng, nghe rồi chánh quán gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Ví nghe Tứ nhiếp pháp gọi là nghe tiếng, nhiếp thủ chúng sanh gọi là khéo tư duy, biết rõ pháp nhiếp thủ ấy không có thủ không có tác rỗng không không sở hữu đây gọi là chánh kiến. Vì nghe pháp Ngũ thông gọi là nghe tiếng, được thân tâm nhẹ gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Nghe Tứ vô ngại gọi là nghe tiếng, tu tập Tứ vô ngại là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Vì nghe pháp Tứ y gọi là nghe tiếng, siêng tu Tứ y gọi là nghe tiếng, siêng tu Tứ y gọi là khéo tư duy, nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến. Nghe Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gọi là nghe tiếng, diễn nói bốn niệm là Tứ niệm xứ, nói về bỏ lìa là Tứ chánh cần, nói về các môn định là Tứ như ý túc, nói vô sở úy là Ngũ căn, nói không hư hoại được là Ngũ lực, nói lìa phiền não là Thất giác phần, nói chơn thiệt biết pháp là Bát chánh đạo, đây gọi là khéo tư duy, chẳng thủ trước đoạn thường đem đạo như vậy nguyện đến Bồ đề đây gọi là chánh kiến. Nghe pháp Tứ đế gọi là nghe tiếng, biết Khổ lìa Tập chứng Diệt tu Ðạo gọi là khéo tư duy, thấy những pháp như vậy bất sanh bất diệt gọi là chánhững kiến. Vì nghe Ba môn giải thoát gọi là nghe tiếng, tin không tam muội chẳng sợ vô tướng chẳng nghi vô nguyện là khéo tư duy, đem pháp như vậy nguyện đến Bồ đề gọi là chánh kiến.

Tu không tam muội điều tâm thấy rõ, tu tập vô tướng để trừ giác quán, tu tập Vô nguyện vì cầu các cõi đây gọi là chánh kiến.

Nghe pháp phát tâm gọi là nghe tiếng, tu tập đạo Bồ đề là khéo tư duy, tâm Bồ đề bất thối là chánh kiến.

Ðược thiện tri thức gọi là nghe tiếng, cúng dường thân cận gọi là khéo tư duy, thọ lãnh lời dạy bảo gọi là chánh kiến.

Nghe pháp giới gọi là nghe tiếng, quán pháp giới là khéo tư duy, như pháp mà trụ là chánh kiến.

Thấy Phật Thế Tôn gọi là nghe tiếng, nhớ chư Bồ Tát là khéo tư duy, được đạo cứu cánh gọi là chánh kiến.

Mới đầu nghe tám vạn bốn ngàn pháp môn gọi là nghe tiếng, quán các chúng sanh hánh xứ như vậy gọi là khéo tư duy, điều phục tám vạn bốn ngàn các căn gọi là chánh kiến.

Nầy Vô Ngôn! Tùy theo nhơn duyên gì mà có thể sanh được thiện pháp thì gọi là nghe tiếng. Nghe rồi chẳng rời các thiện nhơn duyên gọi là khéo tư duy. Ðem pháp như vậy nguyện đến Bồ đề thì gọi là chánh kiến.

Nầy Vô Ngôn! Hai pháp như vậy không có sai biệt, đó là khéo tư duy và chánh kiến. Tại sao, vì tất cả pháp bình đẳng vô nhị là khéo tư duy, hay quán bình đẳng là chánh kiến vậy. Không tăng giảm tức là chánh kiến. Không thủ xả tức là chánh kiến. Không có tác và tác giả tức là chánh kiến. Không có giác quán tức là chánh kiến. Không có niệm và niệm xứ tức là chánh kiến, không có tạo tác không có tư duy tức là chánh kiến. Không có nhứt không có nhị tức là chánh kiến. Một môn một vị một thừa một hạnh, tánh ấy là một không có các phiền não kiêu mạn v.v…, các kiết sử, không nghe không nói, không cấu không tịnh, tánh pháp giới chẳng phân biệt được, như như bất động, tam thế bình đẳng, không có ngã ngã sở, không có nhơn thọ mạng chúng sanh, không có văn tự không có âm thanh, không thể tuyên nói, chẳng biết chẳng thấy, trong tất cả pháp được tâm tri túc, xa lìa các tướng dạng, dứt tất cả hỉ lạc giác quán y chỉ, nhẫn đến tán than Phật mà chẳng có quan niệm là Phật. lúc nhập định quán pháp giới thậm thâm như vậy thì gọi là khéo tư duy. Từ định dậy vì các chúng sanh mà diễn nói pháp giới thậm thâm như vậy thì gọi là chánh kiến”.

Lúc đức Phật nói pháp ấy, có mười ngàn Bồ Tát được chánh kiến như vậy.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Theo ai nghe pháp mà được chánh kiến ?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói : "Thưa Ðại Ðức! Nếu có người chẳng được tâm Bồ đề quá khứ vị lai hiện tại, tôi từ nơi người ấy nghe pháp mà được chánh kiến.

Người quán tam thế bình đẳng, tất cả pháp bình đẳng, nơi tất cả pháp chẳng sanh giác quán, tâm chẳng trụ hữu vi vô vi, xa lìa tất cả tướng chúng sanh mà vì chúng sanh tu tất cả khổ hạnh, cũng xa lìa hai thứ tướng, một là tướng chúng sanh và hai là tâm tướng. Xa lìa hai tiết biết thiệt pháp tánh, thiệt pháp tánh là không có không chẳng có, thông đạt tất cả thâm pháp của chư Phật mà chẳng sanh lòng kiêu mạn tự nói là ta biết. Thưa Ðại Ðức! Tôi từ người ấy nghe thọ chẳng pháp. Người ấy cũng chẳng tuyên nói một chữ mà làm cho tất cả đều thích nghe. Biết pháp chơn thiệt chẳng thể tuyên nói được mà vì chúng sanh tuyên nói đó, ra khỏi thế gian chẳng bị thế gian nhiễm ô, cứu cánh tu tập không có ai biết được là tu cùng chẳng tu. Tôi từ nơi người ấy nghe thọ chánh pháp trụ nơi pháp tánh, nơi chúng sanh tánh chẳng sanh phân biệt. Quán chúng sanh tánh pháp tánh không tánh thảy đều bình đẳng. Tôi ở bên người ấy nghe pháp. Người ấy chẳng ngồi dưới cây Bồ đề, chẳng dậy, chẳng đi, chẳng nghỉ, chẳng nằm, chẳng ngủ, chẳng thức mà được Bồ đề, được Bồ đề rồi trọn chẳng hiện tướng nói là được Bồ đề, tất cả chúng sanh cũng chẳng biết người ấy đã được Bồ đề, không được mà được nên không có tướng được.

Thưa Ðại Ðức! Luận về chánh pháp không có quang minh, không có quang minh tức là không có xứ sở, không có xứ sở tức là không có thân, không có thân tức là vô sở úy, vô úy tức là bất xuất, bất xuất tức là bất sanh, bất sanh tức là bất diệt, bất diệt tức là bất trước, bất trước tức là bất động, bất động tức là bất biến, bất biến tức là không phóng chạy không tối tăm, không phóng không tối tức là không giác quán, không giác quán tức là không thời gian, không thời gian tức là không có các môn vật, không vật thì không có tham, không tham tức là tánh thanh tịnh, tánh tịnh ấy chẳng hiệp với phiền não, chẳng hiệp với phiền não thì không điên đảo, chẳng điên đảo thì là bình đẳng, bình đẳng tức là chơn thiệt, chơn thiệt là bất sanh bất diệt, bất sanh bất diệt ấy gọi là từ nhơn duyên, từ nhơn duyên ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai tức là không có cảnh giới, không cảnh giới tức là vô cú, vô cú tức là chẳng cuồng, chẳng cuồng ấy tức là không có nghe, không có nghe ấy tức là không có tạo tác, không có tác ấy tức là không có trụ, không trụ ấy tức là không có chữ, không có chữ tức là không có tướng, không có tướng tức là quá tâm ý thức, quá tâm ý thức tức là tịch tĩnh, tịch tĩnh ấy tức là không nhiệt não, không nhiệt tức là không có sân, không sân ấy tức là cứu cánh, cứu cánh tức là không có, không có tức là Niết bàn đây gọi là pháp.

Thưa Ðại Ðức! Tức là chánh pháp tức là thuyết pháp tức là nghe pháp tức là chánh kiến.

Thưa Ðại Ðức! Luận về người chánh kiến chẳng thấy có thân, hễ thân hành thì bịnh hành, chẳng thấy nơi thấy chẳng sanh tham trước chẳng giác chẳng quán, đây gọi là Phật pháp thánh kiến chánh kiến.

Còn nữa, thưa Ðại Ðức! Quán vô minh và ái bình đẳng với giải thoát không có sai biệt, đây gọi là chánh kiến. Chánh kiến như vậy chẳng trước chẳng thủ, đây gọi là thánh kiến.

Còn nữa, thưa Ðại Ðức! Quán tham sân và si với không vô tướng và cô nguyện bình đẳng không có hai chẳng thấy nơi tướng thấy tướng không có tướng, đây gọi là thánh kiến. Chẳng thấy một hai bình đẳng tất cả pháp, gọi là thánh chánh kiến.

Còn nữa, thưa Ðại Ðức! Nếu có thể quán ngã và chúng sanh bình đẳng, vì chúng sanh bình đẳng nên Như Lai bình đẳng, vì Như Lai bình đẳng nên Phật pháp bình đẳng, vì Phật pháp bình đẳng nên thánh và chúng sanh bình đẳng, vì thánh và chúng sanh bình đẳng nên đại từ bình đẳng, vì đại từ bình đẳng nên hư không bình đẳng, dùng bất trụ mà trụ bình đẳng như vậy gọi là thánh chánh kiến.

Thưa Ðại Ðức! Như tất cả pháp âm thanh cũng như vậy. Như âm thanh tức là thánh kiến tức là chánh kiến.

Thưa Ðại Ðức! Thánh chánh kiến cũng không có sanh không có xuất. Nếu không có sanh xuất thì theo ai điều phục nghe pháp!

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Như tôi hiểu nghĩ của Ðại Sĩ nói thì tất cả các pháp không có ngữ ngôn”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Ðúng như vậy đúng như vậy, thưa Ðại Ðức! Tất cả các pháp thiệt không có ngôn ngữ”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Thưa Ðại Ðức! Nếu nói Như Lai thành tựu công đức. Trong lời nói ấy mắc những tội gì?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Nếu có nói như vậy thì phải biết người nói ấy có tội lỗi lớn. Tại sao, vì Như Lai công đức chẳng quyết định vậy, tại sao, vì không phước không tội gọi là Như Lai. Nếu thấy Như Lai có công đức đây gọi là dục, luận về người có dục tức là đại dục. Có dục và đại dục tức là lỗi lầm vậy”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Thưa Ðại Ðức! Thế nào được gọi là không tội lỗi?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói : "Thưa Ðại Ðức! Như đệ ngũ đại, như đệ thất căn, như đệ thập cửu giới vô xuất vô nhập vô sanh vô diệt, không có tạo tác, không có tâm ý thức mới gọi là không lỗi. Nếu có tri kiến xa lìa chứng tu đây gọi là tội lỗi. Nếu có các giới đây gọi là tội lỗi, nếu không có các giới đây gọi là không lỗi”.

Ðức Phật nói: "Lành thay, lành thay, nầy Vô Ngôn! Ðúng như lời ông nói. Lời ông nói đó tức là thiện thuyết”.

Lúc nói pháp nầy, có một vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn.

Vô Ngôn Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như Phật đã nói đại Bồ Tát có bốn thứ lực. Ðó là tín lực, tiến lực, niệm lực và huệ lực. Ngưỡng mong đức Như Lai rộng phân biệt nói thế nào gọi là bốn lực của Bồ Tát?”.

Ðức Phật nói: "Nầy Vô Ngôn! Chí tâm lắng nghe nay Phật sẽ nói.

Nếu có Bồ Tát ở nơi chánh pháp của Phật thâm tín thuận hiểu chẳng sanh lòng nghi đây gọi là tín lực. Nếu siêng năng tinh tiến cầu Phật pháp chẳng nghĩ chẳng thôi chẳng sanh lòng nghi hối, đây gọi là tiến lực. Nếu có Bồ Tát cầu thiện pháp được rồi chẳng mất niệm Bồ đề tâm, thiện căn được làm nguyện đến Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Nếu có Bồ Tát nội tâm tư duy chẳng theo lời người rõ biết pháp tánh, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu cótín tâm thân cận thánh nhơn, đây gọi là tín lực. Nếu hay cúng dường thánh nhơn như vậy, đây gọi là tiến lực. Chí tâm nghe thọ lời dạy của thánh nhơn, đây gọi là niệm lực. Nghe thánh pháp rồi như pháp mà trụ, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Tin nghiệp quả đây gọi là tín lực. Ðã có lòng tin rồi chẳng làm các việc ác, đây gọi là tiến lực. Thiện nghiệp quá khứ hiện nay vẫn tăng trưởng, đây gọi là niệm lực. Nếu biết các pháp có nhơn có quả, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu tin tâm pháp chẳng thể nói được, đây gọi là tín lực. Nếu nhơn lòng tin nầy mà điều phục tâm, đây gọi là tiến lực. Nếu hay chí tâm, đây gọi là niệm lực. Quán pháp như huyễn, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu thấy pháp không, đây gọi là tín lực. Nếu đoạn dứt tà kiến, đây gọi là tiến lực. Nếu thấy nội ngoại thảy đều không tịch chẳng sanh bố úy, đây gọi là niệm lực. Nếu hay quán thấy đệ nhứt nghĩa không, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu hay quán thấy vô tướng vô nguyện, đây gọi là tín lực. Vì người mà diễn nói vô tướng vô nguyện, đây gọi là tiến lực. Chí tâm quán sát vô tướng vô nguyện, đây gọi là niệm lực. Biết rõ pháp ấy chẳng tuyên nói được, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Hay bố thí tất cả chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực. Bố thí rồi chẳng hối tiếc cũng chẳng thôi nghỉ thường làm chẳng tuyệt, đây gọi là tiến lực. Lúc thí chí tâm niệm Bồ đề phát nguyện hồi hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Chẳng quán tài vật người thí người thọ và quả báo, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có thọ trì thanh tịnh cấm giới chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực, chẳng sanh phiền não hủy hoại cấm giới, đây gọi là tiến lực. Tịnh giới như vậy chí tâm hộ trì nguyện hồi hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Quán thân khẩu ý như thủy nguyệt như hương như ảo như diệm v.v…, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có tu hành pháp nhẫn nhục chẳng cầu quả báo, đây gọi là tín lực. Nếu có bị đánh mắng hay nhịn lặngười yên, đây gọi là tiến lực. Vì nhẫn nhục mà tu tâm từ bi bất phóng dật nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Quán thân khẩu ý đều không có gì để nhẫn, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn ! Nếu có rõ biết do siêng năng tinh tiến được Vô thượng Bồ đề chẳng phải đời giải đãi, đây gọi là tín lực. Nếu hay điều phục tất cả chúng sanh, hộ trì người nghe thọ, cúng dường chánh pháp, hay vì chúng sanh mà cung cấp phục dịch, hay tịnh Phật độ, đây gọi là tiến lực. Hay làm cho chúng sanh xa lìa giải đãi siêng tu hành tinh tiến nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là niệm lực. Nếu tu tinh tiến chẳng tăng chẳng giảm, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu thích tịch tĩnh lìa nói việc đời, đây gọi là tín lực. Nếu trụ không tịch được tứ thiền và bát giải thoát, đây gọi là tiến lực. Nếu ở nơi các thiền giải thoát không có thối thất, đây gọi là niệm lực. Nếu quán các thiền vô thường khổ vô ngã, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Nếu nghe các Ba la mật các phẩm trợ đạo tin mà không nghi, đây gọi là tín lực. Nghe rồi vì chúng sanh mà diễn nói, đây gọi là tiến lực. Tâm khéo tư duy, đây gọi là niệm lực. Như pháp mà trụ, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì các chúng sanh mà tu tập tâm từ, đây gọi là tín lực. Thương mến chúng sanh làm cho họ lìa khổ, đây gọi là tiến lực. Quan sát pháp rồi lòng được đại hỉ, đây gọi là niệm lực. Với oán thân tâm luôn bình đẳng tu tập đại xả, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Quán sát thân nầy do vô lượng thứ ác xấu làm thành gạt gẫm kẻ phàm phu dường như hình tướng ảo huyễn, đây gọi là tín lực. Lúc thọ tử khổ chuyên tâm hệ niệm Phật Pháp Tăng Tam bửu chẳng tiếc thân mạng, đây gọi là tiến lực. Cũng chẳng sanh các tâm ác, tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm tật đố, tâm xan lẫn, tâm hủy giới, đây gọi là niệm lực. Nếu quán pháp giới, quán vô ngại trí, cũng biết quá khứ vị lai hiện tại, đây gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Hỉ gọi là tín, bất thối chuyển gọi là tinh tiến, chẳng cuồng loạn gọi là niệm lực, biết rõ rang gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Do tín lực mà có được làm, do tiến lực mà việc được cứu cánh, do niệm lực mà không sót mất, do huệ mà có thể nói đúng chánh pháp.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Vì quán lưới nghi nên gọi là tín lực, xa lìa nghi gọi là tiến lực, không còn sanh nghi nữa gọi là niệm lực, nói pháp có thể phá nghi gọi là huệ lực.

Còn nữa, nầy Vô Ngôn! Tin Phật pháp đây gọi là tín lực. Vì Bồ đề mà tu hành đây gọi là tiến lực. Ðược nhu thuận nhãn đây gọi là niệm lực. Ðược Vô sanh nhẫn đây gọi là huệ lực.

Nầy Vô Ngôn! Tín căn tín lực không có sai biệt, tiến căn tiến lực, niệm căn niệm lực, huệ căn huệ lực cũng như vậy không có sai biệt”.

Ðức Phật nói pháp nầy, có trăm ngàn Bồ Tát được bực Vô sanh nhẫn. Bốn vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Lúc ấy trong đại hội có một Bồ Tát tên là Liên Hoa nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Vừa rồi Ðại Sĩ hỏi Phật. Ðức Thế Tôn đã phân biệt giải nói. Ðại Sĩ có mừng chăng ?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Sĩ! Tôi cũng chẳng hỏi chẳng nghe một pháp thì thế nào có lòng mừng”.

Liên Hoa Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Sĩ! Ngài ở chỗ đức Phật chẳng có nghe pháp sao?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Chư Phật Như Lai đều không có nói, làm sao tôi có nghe. Tại sao, vì tôi chẳng phải là pháp khí vậy”.

Liên Hoa Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Sĩ! Nay Ngài chẳng phải là pháp khí, vậy là khí gì?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Nay Ðại Sĩ chẳng phải là chơn pháp khí thí làm sao được Vô thượng Bồ đề?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Vô thượng Bồ đề cũng chẳng phải là khí. Nầy Ðại Sĩ! Nếu rời Phật pháp mà có Bồ đề nên biết là có khí. Tất cả Phật pháp tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật pháp. Nầy Ðại Sĩ! Vì thế nếu tôi xa lìa phiền não chẳng thấy Phật pháp chẳng thấy Bồ đề. Phiền não Phật pháp và Bồ đề không có sai biệt. Nếu trong phiền não mà thấy Bồ đề tức là như như kiến. Nếu rời phiền não thấy Bồ đề là điên đảo kiến”.

Liên Hoa Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Thế nào là đảo kiến?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Thấy ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, rời ngoài các thứ ấy riêng có tham dục, sân hận, ngu si đây gọi là đảo kiến. Tất cả pháp tánh và Bồ đề tánh không có sai biệt, vô tác vô thọ. Ngã tánh, nhơn tánh, chúng sanh tánh, thọ mạng tánh tức là tham dục, sân hận, ngu si. Các pháp như vậy tức là Bồ đề đây gọi là như như kiến.

Chính ở trong tứ đại và trong tứ đại sở tạo mà cầu Bồ đề chẳng ở chỗ khác cầu.

Thế nào gọi là cầu? Lúc cầu chẳng thấy tất cả các vật. Chẳng thấy ấy tức là vô xứ. Vô xứ ấy tức là vô trụ. Vô trụ ấy tức là tánh của tất cả pháp. Tất cả pháp nếu là vô tánh tức là thiệt tướng. Thiệt tướng ấy chẳng phải thuờng chẳng phải đoạn gọi là cứu cánh tiết. Nếu có thể thấy được các tiết như vậy, nên biết người ấy chẳng lưu chẳng tán. Chẳng lưu chẳng tán tức là không sanh diệt, tức là Niết bàn, tức là Chơn như. Tất cả các pháp nếu là như vậy, người được Niết bàn tức là Thánh, nhập vào Niết bàn. Vì vậy nên trong khế kinh đức Như Lai nói: tự chẳng điều phục có thể điều phục người, tự chẳng giải thoát có thể giải thoát người, tự chẳng tịch tĩnh có thể tịch tĩnh người, tự chẳng Niết bàn làm cho người được Niết bàn thì không bao giờ có lẽ ấy. Nếu tự điều phục rồi khiến người điều phục, tự đã giải thoát khiến người giải thoát, tự đã tịch tĩnh khiến người tịch tĩnh, tự đã Niết bàn khiến người Niết bàn đây thì có lẽ vậy.

Thưa Ðại Sĩ! Ðại Bồ Tát tu Bồ đề hạnh hiểu rõ sở hành của tất cả chúng sanh, nơi các pháp tướng và pháp giới chẳng sanh phân biệt. Lúc tu hành tất cả thiện pháp cũng chẳng thấy có các đồ chúng ma. Dầu cầu Phật pháp mà chẳng thấy người cầu. Dầu điều phục chúng sanh mà không thấy ngã và nhơn. Dầu hành các pháp mà phiền não chẳng nhiễm ô. Dầu thuận thế pháp mà chẳng nhiễm thế gian. Dầu mang gánh ngũ ấm cũng không có sở trụ. Dầu lìa các giới mà chẳng động pháp giới. Dầu tu các môn giải thoát mà chẳng thối thất thiện pháp. Dầu thấy rõ tam giới mà chẳng rời phiền não. Dầu hành Ðàn Ba la mật mà chẳng sanh kiêu mạn nhẫn đến hành Bát Nhã Ba la mật cũng như vậy. Dầu tùy theo tất cả hành mà thiệt thì chẳng hành nơi tất cả hành. Nếu có thể tu hành các hạnh như vậy thì nên biết là hành Bồ đề đạo. Nơi Bồ đề đạo và Bồ đề hạnh chẳng sanh phân biệt. Nếu tu hành Bồ đề đạo hạnh như vậy thì ở trong các pháp chẳng thấy có ngã không, tham không, sân không, oán không thân không có chướng ngại. Nếu không có chướng ngại thì tức là hạnh vô vi. Nếu hạnh vô vi tức là chơn thiệt Bồ Tát vậy”.

Liên Hoa Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Nhơn duyên gì mà gọi là Bồ Tát ?”.

Vô Ngôn Bồ Tát nói: "Hay làm cho chúng sanh giác ngộ chỗ chẳng giác ngộ thì gọi là Bồ Tát. Vì hay giác ngộ vô minh thùy miên chúng sanh nên gọi là Bồ Tát. Vì diễn thuyết tùy thuận pháp Bồ đề nên gọi là Bồ Tát. Hay làm cho chúng sanh rất thích tịch tĩnh đây gọi là Bồ Tát. Tăng trưởng lời Phật dạy, dựng tràng chánh pháp, hộ niệm Thánh chúng, nơi Bồ đề tâm không có động chuyển, chẳng trụ tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật, trọn chẳng bỏ lìa tâm chí thành phát nguyện cứu cánh, hay độ người chưa độ, hay hiểu người chưa hiểu, vì người không có chỗ nương về hay làm chỗ nương về, hay diệt chỗ chưa diệt, hay điều phiền não mà chẳng lìa phiền não, quán lỗi sanh tử cũng cầu các cõi, tu không tam muội mà chẳng bỏ chúng sanh, tu tập vô tướng mà chẳng bỏ tướng Bồ đề, tu tập vô nguyện mà rất thích các cõi, dầu thích Phật pháp mà ở nơi tham chẳng tham, biết các hữu vi có nhiều tội lỗi mà nơi nội tâm chẳng bỏ hữu vi, dầu lìa các mê tối mà chẳng được đại minh, được đại trí huệ dung làm giáp mặc và binh khí, rất ưa bố thí phát đại trang nghiêm tịnh Phật thế giới, đầy đủ tịnh giới đầy đủ thệ nguyện, đầy đủ nhẫn nhục hay điều phục tất cả chúng sanh chẳng nhẫn nhục, siêng tu tinh tiến cầu bất hoại thân, hay phá hoại Dục giới thích thọ thân cõi Sắc, dầu thọ các cõi mà tâm chẳng hối, khéo biết phương tiện thường tự điều phục cầu Bồ đề, vì các chúng sanh mà tu tập tâm từ, vì trừ khổ cho chúng sanh mà tu tập tâm bi, vì điều người chẳng điều mà tu tập tâm hỉ, chẳng phải cứu cánh xả mà tu tập tâm xả, thông đạt rõ ràng hiểu nghĩa thậm thâm chẳng phải cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác, y nơi nghĩa nơi pháp nơi kinh liễu nghĩa và trí mà chẳng y nơi thế pháp, cũng vì chúng sanh mà làm chỗ y chỉ, vì các chúng sanh mà trang nghiêm thân khẩu, như thuyết mà làm trang nghiêm nơi tâm, vì các chúng sanh mà trang nghiêm thần thong, làm lợi ích chúng sanh như đại địa, hay làm sạch tất cả như nước trong, đốt các phiền não như ngọn lửa, nơi pháp vô ngại như gió mạnh, nơi pháp bình đẳng như hư không, được đà la ni trì tất cả pháp được nghe, lạc thuyết vô ngại khiến người thích nghe, chí tâm niệm Phật để tịnh tâm niệm, tự sống oai nghi thanh tịnh, tu hành vô tránh tam muội rất thích tịch tĩnh, ưa điều phục chúng sanh lìa nói lời thế tục, thấy người thích thế tục thì quở trách dạy bảo, đủ bảy thánh tài tâm ấy nhu nhuyến, hành bố thí kiên cố chẳng thối bỏ, quyến thuộc chẳng hư thân cận thiện hữu biết ơn báo ơn, quán nghiệp quá khứ tùy theo ý chúng sanh hay phá lòng nghi, quán sát sanh tử nhiều tội lỗi, chỗ làm thì chí tâm, hiểu tất cả ngữ ngôn, tu tập Ðại thừa, chẳng nghi Tam thừa, được chúng sanh thích thấy theo lời hỏi mà giải thích được vô ngại trí, được chư Phật hộ niệm nói đúng thời tiết chẳng nói nhiều, sáng rỡ mát mẽ như thu nghuyệt, đầy đủ thiện pháp như trăng tròn, chúng sanh thích thấy như trăng sáng, tăng trưởng thiện pháp như trăng đầu tháng, nhứt vị ngọt ngon như trăng nhứt vị, quán tất cả pháp nhhư trang hiện trong nước, thanh tịnh vô cấu như trăng không mờ, dễ cùng nói năng các căn đầy đủ, nơi tất cả pháp như cây cầu hay độ chúng sanh qua bốn dòng nước chảy, vì các chúng sanh mà làm Phật sự, tâm vẫn chẳng động cảnh giới Bồ Tát, do các nghĩa như vậy nên gọi là Bồ Tát”.

Liên Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Vô Ngôn Bồ Tát nói thâm pháp như vậy nên biết chẳng lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề chuyển pháp luân diệu bửu vô thượng. Nếu có ai hay tin thọ trì pháp của Vô Ngôn Bồ Tát nói thí cũng sẽ được công đức như vậy”.

Ðức Phật nói: "Lành thay, lành thay, nầy Liên Hoa! Như lời ông nói, Vô Ngôn Bồ Tát được huệ đăng tam muội, vì vậy nếu muốn trong vô lượng kiếp nói nghĩa một câu chẳng thể cùng tận”.

Liên Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong đức Như Lai rủ lòng thương người vì tăng trưởng các thiện pháp chúng sanh, vì trang nghiêm kinh Ðại Tập vô thượng mà vì đại chúng khai thị phần ít huệ đang tam muội. Nếu Bồ Tát có trí huệ được nghe cũng sẽ được tam muội ấy, được rồi cũng sẽ mau được Vô thượng Bồ đề”.

Ðức Phật nói: "Nầy Liên Hoa! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà phân biệt nói ít phần.

Huệ đăng tức là trí đăng. Trí đăng tức là phá tối. Không có tối tức là phá nghi, phá nghi tức là huệ đăng. Huệ đăng ấy tức là các pháp không có hai tướng vậy.

Nầy Liên Hoa! Trí tỏ rỏ, trí chẳng nghi, trí chẳng mất, trí chẳng kéo níu, trí chẳng tùy, trí không tối, trí thánh, trí mạnh mẽ lanh lẹ, trí mau chóng, trí rành rẽ, trí rộng lớn, trí thuần nhứt, trí biết tất cả, trí biết quá khứ, trí biết vị lai, trí biết hiện tại, trí tam thế bình đẳng, trí tam giới, trí bạch môn giải thoát, trí tam huệ, trí tam bửu, trí tam thừa, trí tam nhãn, trí ba nhơ, trí ba cặn, trí ba tụ, trí tâm ý thức, trí ấm nhập giới, trí nhơn duyên hòa hiệp, trí thấy cứu cánh, trí như pháp giới, trí tự tướng, trí đệ nhứt nghĩa, trí phương tiện, trí nhứt thiết thanh ngữ, trí nhứt thiết tự, trí vô ngại, trí ngữ bất hoại, trí hay thuyết pháp, trí thượng trung hạ căn, trí vô tác vô thọ, trí nhứt thiết chú, trí nhứt thiết y, trí tất cả thế sự, trí trang nghiêm đà la ni, trí nhựt nguyệt tam muội, trí nhập tam muội, trí thánh, trí thánh tam muội, trí kim cương tam muội, trí vô tránh tam muội, trí tâm đẳng tam muội, trí hoại ma tam muội, trí nhựt quang tam muội, trí vô tưởng tam muội, trí bửu tràng tam muội, trí nhứt thiết pháp môn tam muội, trí nhứt thiết pháp khí tam muội, trí vô biên quang tam muội, trí phước đức tam muội, trí vô trụ tam muội, trí lạc kiến tam muội, trí thiện kiến tam muội, trí vô tận khí tam muội, trí cứu cánh tận, nhứt thiết trí, vô động trí, trí na la diên tam muội, trí tất cả đều thấy, sáu vạn môn tam muội trí như vậy, lúc xưa ta thấy Phật Nhiên Ðăng liền được các môn tam muội như vậy. Các tam muội môn như vậy đều được nhiếp trí tất cả nơi huệ đăng tam muội.

Nầy Liên Hoa! Như mặt nhựt mọc lên hay làm bốn việc: một là phóng ánh sang lớn, hai là trừ diệt tối tăm, ba là hiển bày các sắc tượng, bốn là hay khiến chúng sanh làm các công việc.

Ðại Bồ Tát trụ trong tam muội nầy cũng hay làm bốn việc: một là xuất đại huệ quang, hai là phá tất cả phiền não tối tăm, ba là chỉ bày các công hạnh cho tất cả chúng sanh, bốn là khai thị cho chúng sanh đạo và phi đạo.

Nầy Liên Hoa! Ví như bửu châu để trên tràng cao ánh sáng của nó chiếu khắp bốn do tuần, ban cho chúng sanh các thứ vật cần dung, mà thể tướng của bửu châu vẫn không tăng giảm.

Huệ đăng tam muội cũng như vậy. Ðại Bồ Tát trụ tam muội nầy dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, tịnh giới, tịnh định, tịnh huệ, tịnh thân tâm, tịnh các phương tiện, tịnh đà la ni, tu tập đại bi, phóng đại quang minh chiếu khắp vô lượng chư Phật thế giới, tùy theo ý chúng sanh mà làm các Phật sự. Bồ Tát dầu làm các sự việc như vậy mà tướng tánh Bồ Tát vẫn không tăng giảm.

Nầy Liên Hoa! Ví như hư không dụng thọ Phật độ không có chướng ngại. Cũng chẳng chướng ngại tất cả giọt mưa, hỏa tai, thủy tai, phong tai, vô lượng vô biện tất cả chúng sanh.

Huệ đăng tam muội cũng như vậy. Ðại Bồ Tát trụ tam muội nầy vì các chúng sanh nói tất cả pháp không có chướng ngại. Phương tiện giáo hóa tất cả chúng sanh. Vì người có sức thiện nhơn mà diễn nói phương tiện khiến họ giải thoát điều phục thành thục. Vì kẻ tà định mà phương tiện diễn nói khiến phá tà định. Vì người không có nhơn lành phương tiện diễn nói khiến gieo nhơn lành. Người không pháp khí khiến làm pháp khí. Vì người pháp khí phân biệt tuyên nói Vô thượng Bồ đề. Với người cầu Thanh Văn thì phương tiện thuyết pháp cho họ được bốn quả Sa Môn. Với người cầu Duyên Giác thì phương tiện dạy bảo cho họ được Bích Chi Phật đạo. Lại vì các người cầu Nhị thừa ấy phương tiện thuyết pháp tiệm kiến khiến họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề trụ bực bất thối. Thông đạt tám vạn bốn ngàn pháp môn, vì phá tâm nghi của các chúng sanh mà khai thị phân biệt giải thuyết chánh pháp. Giải thuyết một sự trong vô lượng kiếp chẳng thể cùng tận. Dầu làm vô lượng sự như vậy mà tam muội ấy cũng không có tăng giảm.

Nầy Liên Hoa! Ví như sức một ngọn đèn lớn hay hiển thị các sắc tượng.

Huệ đăng tam muộicũngnhư vậy, Bồ Tát trụ tam muội nầy, trong một tâm có thể nơi vô lượng thế giới chư Phật thị hiện các loại sắc tượng mà tam muội nầy không có khuynh động.

Vì vậy, nên trong Tứ niệm xứ, pháp niệm xứ làm đầu, trong Tứ chánh cấn chưa sanh thiện pháp hay sanh thiện pháp làm đầu, trong Tứ như ý túc thân tâm tịch tĩnh gọi là đứng đầu, trong Ngũ căn, Ngũ lực thì huệ căn và huệ lực làm đầu, trong Bát chánh đạo thì chánh kiến làm đầu. Tất cả hàng ngoại đạo chỗ có những xa ma tha thì tỳ bà xá na làm đầu. Trong tứ chơn đế thì diệt đế làm đầu. Trong Tứ y thì y nghĩa làm đầu. Trong Tứ vô ngại trí thì nghĩa vô ngại trí làm đầu. Trong Lục thần thông thì lậu tận thông làm đầu. Trong Tứ vô lượng tâm thì bi tâm đứng đầu. Trong tu hành Phạm hạnh thì trí huệ đứng đầu. Trong các Ba la mật thì Bát Nhã đứng đầu. Trong tất cả Phương tiện thì biết tâm chúng sanh đứng đầu. Trong tất cả các Lực thì xứ phi xứ lực đứng đầu. Trong Tứ vô sở úy thì thuyết nhứt thiết trí vô úy đứng đầu. Trong Bất cộng pháp thì vô ngại đứng đầu. Trong ba mươi hai tướng thì vô kiến đảnh tướng đứng đầu. Trong tám mươi tùy hảo thì thuyết pháp chẳng luống uổng đứng đầu. Trong trang nghiêm khẩu thì hiểu tất cả ngữ ngôn đứng đầu. Trong trang nghiêm tâm thì phá kiêu mạn đứng đầu. Trong tất cả pháp thì trí huệ đứng đầu. Ðây gọi là huệ đăng tam muội vậy”.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy