× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 56 LVI. Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát - Thứ 56 (1)

       (Hán bộ từ quyển 142 đến quyển 143)

Như vậy tôi nghe đức Thế Tôn lúc ấy vẫn ở trong Ðại Bửu Phường Ðình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, cùng hàng đại chúng vây quanh thuyết pháp.

Bấy giờ trong thành Vương Xá nhà của Sư Tử Tướng Quân sanh một con trai. Lúc trai ấy vừa sanh ra, trên hư không có đông chư Thiên nói rằng: "Nầy đồng tử! Phải nên niệm pháp, tư duy nơi pháp. Lúc phát ngôn chớ nói thế sự. Thường nên tuyên nói pháp xuất thế. Thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, nói ít. Chớ sanh giác quán nơi thế sự. Phải y nơi nghĩa, chớ y văn tự”.

Lúc đồng tử nghe lời chư Thiên nói liền chẳng còn kêu khóc không có tướng trẻ nít, cho đến bảy ngày sắc mạo vui vẻ thấy người mừng rỡ mắt chưa từng nháy.

Có người bảo cha mẹ đồng tử rằng trẻ nầy bất tường chẳng nên nuôi dưỡng, tại sao, vì nó câm không hề lên tiếng vậy.

Cha mẹ đồng tử nói: "Con trai chúng tôi dầu câm chẳng phát ra tiếng, nhưng thân nó có đủ các tướng, hình thể không thiếu chỗ nào. Do đây nên biết trẻ nầy ắt có phước đức chẳng phải là người bất tường bạc phước”.

Nhơn vì trẻ ấy không phát ra tiếng nên đặt tên cho nó là Vô Ngôn.

Ðồng tử Vô Ngôn lần lần trưởng đại như trẻ lên tám, đi đến đâu đều được mọi người thích nhìn. Hễ chỗ nào có thuyết pháp chuyển pháp luân thì đồng tử Vô Ngôn đều thích đến nghe, mà miệng không hề nói.

Do thần lực của Phật, Vô Ngôn đồng tử cùng cha mẹ và quyến thuộc tôn thân đến Ðại Bửu Phường Ðình. Ðến nơi rồi thấy Phật, đồng tử lòng rất vui mừng lễ kính cúng dường hữu nhiễu ba vòng chắp tay đứng yên. Ðồng tử gồm thấy chư Bồ Tát từ mười phương đến lòng thêm mừng rỡ.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Ðồng tử con trai của nhà Sư Tử Tướng Quân thân căn đầy đủ mà chẳng nói được. Là do ác nghiệp nhơn duyên gì mà gây nên như vậy?”.

Ðức Phật nói: "Nầy Xá Lợi Phất! nay ông chớ nên nói như vậy, chớ nên khing đồng tử nầy. Tại sao, vì đồng tử nầy là một vị đại Bồ Tát đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật vun trồng thiện căn bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ Ðề. Lúc đồng tử nầy sanh ra, có nhiều chư Thiên đến bảo rằng: Lành thay đồng tử! Nên niệm chánh pháp nên tư duy chẳng pháp, chớ có tuyên nói sự việc thế gian, nên thường tuyên nghĩa xuất thế, thường phải giữ miệng, cẩn thận lời nói, ít nói, chớ có giác quán nơi thế sự. Nên y nơi nghĩa chớ y văn tự.

Nầy Xá Lợi Phất! Ðồng tử nầy tuân lời chư Thiên nên không nói mà yên lặng tư duy được Tứ thiền.

Nầy Xá Lợi Phất! Vô Ngôn Bồ Tát thị hiện thân như vậy thì có thể điều phục vô lượng chúng sanh nên yên lặng không nói.

Nầy Xá Lợi Phất! Nay Phật nói kinh Ðại Tập thậm thâm này, Vô Ngôn Bồ Tát có thể ở trong kinh điển nầy lợi ích lớn cho vô lượng chúng sanh”.

Lúc ấy Vô Ngôn Bồ Tát dùng sức nguyện của mình thần thông đạo lực của mình làm cho hàng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều riêng thấy  trong bàn tay hữu của mình có hoa sen lớn như vòng xe đầy đủ sắc hương tươi đẹp đệ nhứt được người thích thấy, trên mỗi hoa đài đều có một Bồ Tát ngồi kiết già đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân hình.

Hiện đại thần thông như vậy rồi, Vô Ngôn Bồ Tát chắp tay cúi đầu xướng rằng: Nam Mô Phật Ðà, nam mô Phật Ðà. Các Bồ Tát ngồi trên đài hoa sen cũng đồng xướng nam mô Phật Ðà, nam mô Phật Ðà.

Tiếng xướng ấy vừa dứt thì cả đại địa trong mười hằng hà sắc thế gian chấn động sáu cách. Chư Thiên trong hư không dùng các thứ hoa hương kỹ nhạc ccúng dường đức Phật.

Vô Ngôn Bồ Tát do Phật thần lực và nguyện lực của mình cùng chư Bồ Tát đồng vọt lên hư không cao bằng bảy cây đa lại hướng ngay về phía đức Phật mà nói kệ rằng:

Như Lai không sắc thị hiện sắc

Cũng lại nơi sắc không nhiễm trước

Nếu có chúng sanh nhập Phật pháp

Thế nào sẽ biết sắc chơn thiệt

Trong khối phi sắc có Như Lai

Cũng chẳng rời sắc có Như Lai

Như Lai đã rời các sắc tướng

Vì thương chúng sanh mà hiện sắc

Như Lai vì thương các chúng sanh

Dùng các tướng hảo trang nghiêm sắc

Thiệt không sắc tướng vì chúng nói

Vì vậy Như Lai khó nghĩ bàn

Chánh pháp Như Lai không văn tự

Rời văn tự rồi không có tiếng

Không có văn tự không nói được

thậm thâm tịch tĩnh không giác quán

Như Phật ngày trước ở đạo thọ

Giác ngộ các pháp cũng như vậy

Pháp ấy không chữ không âm thanh

Cũng không tạo tác không nói được

Các pháp như vậy không tướng mạo

Cũng vì xa lìa tất cả tướng

Tất cả các pháp nếu vô tướng

Như Lai thế nào mà diễn nói

Như Lai đầy đủ đại từ bi

Thế nên thương xót làm lợi ích

Pháp chẳng nói được mà diễn nói

Cũng biết chơn thiệt chẳng nói được

Như Lai biết rõ chẳng nói được

Cũng biết âm thanh tánh không tịch

Chơn thiệt biết rõ tất cả nghĩa

Vì vậy gọi Phật đấng Chánh Giác

Những pháp được nói gọi thế đế

Như Lai chơn thiệt biết rõ đó

Thế đế chẳng ngoài tánh có không

Chẳng tạo tác được không thời kỳ

Chơn thiệt không có sắc tướng mạo

Vì chúng nên hiện các thứ sắc

Biết pháp không pháp đấng Vô thượng

Vì chúng sanh nên diễn nói pháp

Lúc tôi sơ sanh được trời bảo

Vì vậy nín lặng không nói tăng

Chí tâm niệm pháp tư duy pháp

Vì vậy chẳng thấy sắc và tiếng

Nếu được nhập vào thâm pháp giới

Bấy giờ không có các sắc thanh

Nếu xa lìa được các tâm nghiệp

Thì được xa lìa các khẩu nghiệp

Không có ngôn thuyết tức là lời

Dầu có ngôn thuyết cũng không lời

Lời chẳng phải làm chẳng phải nói

Vì bổn tánh ngôn ngữ tịch tĩnh

Nay tôi chí tâm niệm Bồ đề

Cũng lại chí tâm tu Bồ đề

Nay tôi nói lời vô thượng nầy

Quyết định sẽ được chơn thiệt đạo

Tâm tôi chẳng được đạo Bồ đề

Khẩu và khẩu hành cũng chẳng được

Vô thượng Bồ Ðề tức rỗng không

Tánh ấy bổn lai thường tịch tĩnh

Như tánh Bồ đề thanh cũng vậy

Chẳng thấy chẳng lấy pháp tánh vậy

Như vậy thanh âm chẳng thấy được

Bồ đề được cầu cũng như vậy

Vì Bồ đề nên có tu hành

Hành ấy cũng không có chỗ đến

Như vậy hành ấy không chỗ đến

Nên chỗ Bồ đề chẳng phải chỗ

Sáu Ba la mật như Bồ đề

Tất cả thiện pháp cũng như vậy

Tất cả ngữ ngôn không ngữ ngôn

Trong không ngữ ngôn hay thuyết ngữ

Nếu có bố thí diệu âm thanh

Chủ bố thí ấy và tài vật

Bình đẳng bố thí tức Bồ đề

Tất cả thảy đều bất khả thuyết

Nếu bố thí ấy miệng nói được

Thể Bồ đề lẽ ra nói được

Tánh thể Bồ đề như hư không

Tất cả âm thanh cũng như vậy

Nếu nơi tâm hay chơn thiệt biết

Biết rồi hay tuyên thuyết âm thanh

Tùy biết thanh ấy diệt chỗ nào

Tức là Bồ đề chơn thiết tướng

Nếu hay xa nghiệp than khẩu ý

Tất cả phiền não cũng lìa xa

Tức là tất cả Ba la mật

Là thiệt pháp tánh được Phật nói

Bố thí chẳng ở trong Bồ đề

Bồ đề chẳng ở trong bố thí

Hai pháp như vậy tức âm thanh

Cũng không chỗ trụ không chỗ đến

Nếu hay biết được như vậy thảy

Tức là chơn thiệt đại Bồ đề

Nếu lúc bố thí chẳng kiêu mạn

Tức là thí chủ đại vô thượng

Hộ trì cấm giới tức là thanh

Không có hình sắc không chỗ đến

Các pháp chẳng sanh cũng chẳng diệt

Tức là tướng trì giới vô thượng

Cấm giới như vậy không năng tác

Cũng lại không nghiệp thân khẩu ý

Chẳng sanh chẳng diệt chẳng tạo tác

Thế nào gọi được là cấm giới

Vì lưu bố phát ra âm thanh

Chúng sanh đặt tên gọi cấm giới

Biết các cấm giới thanh cũng vậy

Hai pháp như vậy đều vô lậu

Vì được miện nói là cấm giới

Nên nói các loại thứ trang nghiêm

Âm thanh cũng không các trang nghiêm

Chơn thiệt biết là vô sở hữu

Thân nghiệp khẩu nghiệp và tâm nghiệp

Hay hồi giới nầy hướng Bồ đề

Cấm giới âm thanh và Bồ đề

Hai pháp như vậy như hư không

Nếu hay chơn thiệt biết như vậy

Người nầy thì hành chỗ giới hành

Thì hay đến được giới bỉ ngạn

Chỗ ấy thậm thâm khó thấy được

Nói nhẫn âm thanh tức là không

Tánh không không xứ không tạo tác

Nhẫn nhục với không là hai pháp

Không có sai biệt như hư không

Tiếng nhẫn nhục chẳng phải sắc tướng

Chẳng nhìn thấy được không xứ sở

Nếu hay tướng tu tập tâm bình đẳng

Tức là tướng nhẫn chơn thiệt vậy

Nhẫn nhục dầu là niệm niệm diệt

Mà cùng sắc than thường đi chung

Tất cả văn tự đều vô lậu

Chúng sanh đạt tên gọi nhẫn nhục

Nếu hay điều phục than khẩu ý

Ðâu là nhẫn nhục tối vô thượng

Nêu hay nhẫn người nhẫn nhục

Ðây cũng là nhẫn nhục vô thượng

Nếu có chúng sanh nghiền than mình

Lóng đốt nát nhỏ như hột mè

Xem thân dường như gổ cỏ khô

Ðây thì gọi là thân nhẫn nhục

Lúc nghe ác khẩu tiếng mắng chửi

Tâm niệm chẳng động trụ đúng pháp

Quán sát âm thanh như hư không

Ðây là vô thượng khẩu nhẫn nhục

Nếu hay thông đạt nhơn phiền não

Xa lìa tất cả các phiền não

Ðây thì gọi là tâm nhẫn nhục

Chẳng bị phiền não làm nhiễm ô

Như nhẫn nhục là tánh Bồ đề

Thân khẩu ý nghiệp cũng như vậy

Nếy hay hồu nhẫn hướng Bồ đề

Ðây thì gọi là được Bồ đề

Nếu có chúng sanh siêng tinh tiến

Hoặc thượng trung hạ hoặc thô tế

Trong vô lượng kiếp tu tập đó

Vô sở đắc cũng vô cứu cánh

Nếu người tinh tiến vô sở đắc

Nên gọi Bồ đề vô sở đắc

Nếu hay chẳng được tất cả pháp

Tức là vô thượng cần tinh tiến

Nếu hay tinh tiến được như vậy

Chẳng tăng chẳng giảm như hư không

Như vậy tức là đại Bồ Tát

Siêng hành tinh tiến vô sở úy

Tất cả các thiền không có họp

Không có tạo tác không chỗ đến

Nếu hay tư duy tất cả pháp

Tức là chơn thiền Ba la mật

Xa lìa tất cả các ác sắc

Ác thân ác khẩu cũng xa lìa

Hay tiêu tất cả các phiền não

Tức là chơn thiền Ba la mật

Nếu hay quán tâm chơn thiệt tánh

Trong tất cả pháp cũng chẳng thấy

Nếu hay vô tâm xa rời tâm

Tức là chơn thiền Ba la mật

Nếu hay quán tâm và Bồ đề

Tức là vô thượng chơn thiệt thấy

Nếu hay như vậy chơn thiệt thấy

Chứng được Bồ đề chẳng khó khăn

Nếu hay thấy biết không văn tự

Tất cả các pháp không sanh diệt

Nếu người xem thấy được như vậy

Ðây thì gọi là đại trí huệ

Dầu là miệng nói đại trí huệ

Trí huệ cũng chẳng ở miệng tiếng

Nếu biết miệng tiếng thiệt không tiếng

Tức là chơn tánh của trí huệ

Nếu pháp không trụ đây trụ kia

Trung gian cũng lại không chỗ trụ

Tất cả pháp tánh không chỗ trụ

Ðây là vô thượng đại trí huệ

Không có văn tự không có hành

Không có tướng mạo không có tánh

Không có hai tướng thủ xả thảy

Ðây gọi vô thượng đại trí huệ

Nếu quán tất cả Ba la mật

Tánh nó bình đẳng như hư không

Ðây thì gọi là không bình đẳng

Hay quán tất cả pháp bình đẳng

Nếu hay bình đẳng tất cả pháp

Cũng hay quán chúng sanh bình đẳng

Ðều hay bình đẳng quán chư Phật

Trí huệ được đó không bình đẳng

Nếu chư Bồ Tát người có trí

Hay quán pháp vô đẳng như vậy

Thì được Vô thượng Bồ Ðề quả

Cũng như Tiên Phật đã chứng được.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy