× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 55 LV. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Thứ 55 (3)

       Lại nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành công Ðức bình Ðẳng với hư không? 

Bồ Tát vì nghe Phật vô lượng pháp rộng lớn như hư không nên phát tâm Nhứt thiết trí, nghĩ rằng Bồ Ðề vô lượng, Phật vô lượng, tự tại giác vô lượng, trong vô lượng như vậy sanh ra vô lượng lạc dục tinh tiến bất phóng dật hạnh, vì Phật Ðạo mà phải hành vô lượng pháp sở hành của Bồ Tát . Tại sao ? Vì như chư Phật có vô lượng công Ðức trang nghiêm nơi thân, ta cũng vì trang nghiêm nơi thân mà phải thành tựu vô lượng thiện căn . Như chư Phật có vô lượng công Ðức trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ý, trang nghiêm Ðạo tràng, trang nghiêm Phật Ðộ, ta cũng vì trang nghiêm khẩu, trang nghiêm ý, trang nghiêm Ðạo tràng, trang nghiêm quốc Ðộ nên phải thành tựu vô lượng thiện căn . Ta phải giáo hóa vô lượng chúng sanh Ðể thành tựu thiện căn . Vì thành tựu thiện căn nên ta ở trong vô lượng sanh tử chăang hề mỏi nhàm . Chư Phật Thế Tôn có vô lượng quốc Ðộ   vô lượng trí huệ  vô lượng thần thông, các chúng sanh ấy có vô lượng hạnh vô lượng tâm vô lượng các căn sai biệt ở trong sanh tử thọ vô lượng khối khổ não phát khởi các phiền não, ta vì nhập vô lượng Phật pháp, vì bỏ sở hành các căn khối sanh tử khổ não của vô lượng chúng sanh nên thành tựu vô lượng thiện căn . Bồ Tát dùng tâm chánh chơn quán sát những công Ðức Ðược làm tương ưng với các Ba la mật, tương ưng với Tứ nhiếp pháp, tương ưng với Tứ vô lượng tâm, tương ưng với pháp trợ Bồ Ðề, thành tựu chúng sanh thọ trì chánh pháp cúng dường chư Phật Thế Tôn và tịnh pháp sở hành tương ưng của Bồ Tát, vô lượng công Ðức Ðược làm như vậy bình Ðẳng với hư không, vì chúng sanh tánh vô lượng, vì Phật trí huệ vô lượng, vì pháp giới vô lượng, nên chỗ tu hành cũng vô lượng như hư không . Chúng sanh tánh, Phật trí huệ trong pháp giới không chỗ nào chẳng Ðến nên tất cả chúng sanh Ðều Ðược nhờ lợi ích . Cũng vậy, công Ðúc của Bồ Tát làm Ðến tất cả chỗ lợi ích cho chúng sanh, vì không dựa dính vậy, vì sức nguyện phương tiện vậy . Ðây là Bồ Tát hành công Ðức bình Ðẳng với hư không như vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành trí bình Ðẳng với hư không ? 

Bồ Tát theo thiện tri thức Ðược nghe chánh pháp rồi, khéo thuận tư duy, các hạnh Ðược làm trọn không phóng dật tu ít cảnh giới tưởng rồi thọ vô lượng tưởng, thọ vô lượng tưởng rồi  Ðược trí sáng như vậy, Ðược trí sáng ấy rồi Ðược chư ấm phương tiện trí, Ðược chư giới phương tiện trí, Ðược chư Ðế phương tiện trí, Ðược chư duyên phương tiện trí, biết chúng sanh cấu cũng biết cấu tánh,biết chúng sanh tịnh cũng biết tịnh tánh. Ðó là chúng sanh có nhiểm tâm thì như thiệt biết là có nhiễm tâm,chúng sanh không nhiễm tâm thì như thiệt biết là không có nhiễm tâm.Chúng sanh có sân tâm hay không sân tam thì như thiệt biết là có sân tâm hay là không sân tâm,chúng sanh có si tâm hay là không si tâm thì như thiệt biết là có si tâm hay là không si tâm, chúng sanh có phiền não tâm hay không phiền não tâm thì như thiệt biết là có phiền não tâm hay là không phiền não tâm .Bồ Tát không thấy người có cấu tâm là hèn kém và người không cấu tâm là thắng hơn, tại sao, vì Bồ Tát nhập vào pháp môn trí bất nhị tánh thanh tịnh . Như pháp tánh bát nhị thanh tịnh thì ngã tánh cũng vậy, như ngã tánh thì vô ngã tánh cũng vậy,như vô ngã tánh thì tất cã các pháp cũng vậy,vì tánh thường thanh tịnh vậy .Nếu nhập vào tất cã pháp tánh thanh tịnh thì chẳng thấy  có cấu có tịnh, cũng chẳng thấy các pháp văn tự tướng mạo vì chẳng thọ chẳng trước vậy cũng chẳng thấy các pháp chướng ngại cái triền cũng chẳng chướng ngại cái triền.  

Bồ Tát tư duy vô lượng cảnh giới rời lìa tâm thức hai pháp thì gọi là tríchẳng kêu là thức . 

Như hư không có tâm ý thức, cũng vậy Bồ Tát rời lìa tâm ý thức biết các pháp tánh bình Ðẳngvới hư không trí hành vôngại vì qúa các chướng ngại vậy . Ðây gọi là Bồ Tát hành trí bình Ðẳng với hư không . 

Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ Tát thành tựu niệm phật chẳng rời lìa như như Ðược Ðức Như Lai hứa khả? 

Bồ Tát hoặc ở a lan nhã, hoặc ở dưới cây,hoặc ở rừng hoang vắng, hoặc ở chỗ lộ thiên, vì Ðã Ðược Ðịnh lực nên hay nhiếp tâm chẳng trụ trước các cảnh duyên, do tâm chẳng tán loạn nên khéo nhiếp sở niệm,dùng hành tướng qúan Phật ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo trang nghiêm nơi thân,quán lấy mỗi mỗi tướng hảo Ðể thành tựu thân của mình . Tâm hướng về bực nhất thiết trí, nơi thân Như Lai ghi nhớ vòng lưới quang minh Ðược phóng ra .Bồ Tát do Ðược giải hi vọng nên quán thân Như Lai Ðầy một do tuần, hoặc hai ba bốn năm do tuần, hoặc mười Ðến trăm do tuần,hoặc qúa trăm do tuần . Bồ Tát do Ðược giải hi vọng nên qúan Phật ngồi Ðạo tràng,hoặc thấy chuyển pháp luân,hoặc thấy hiện các thứ oai nghi thuyết pháp giáo hóa Ðiều phục chúng sanh, hoặc thấy Ðức Như Lai nơi một thế giới làm phật sự, hoặc hai ba bốn Ðến mười thế giới làm phật sự,hoặc hai ba bốn Ðến mười thế giới làm phật sự hoặc trăm ngàn Ðến nơi giải hi vọng nên quán tự thấy tùy ý : hoă.c thấy mình nghe pháp cúng dường chư PhậtThế Tôn,nơi các oai nghi khác Ðều tự thấy tùy ý tự tại . 

Bồ Tat quán sắc thân Như Lai như vậy rồi ghi nhớ Phật công Ðức: hoặc quán tịnh giới, quán chánh Ðịnh,quán chánh huệ, quán chánh giải thoát và giải thoát tri kiến, hoặc quán lực vô sở úy bất cộng pháp, hoặc quán bổn hành của Bồ Tát hoặc quán thành tựu Phật Ðịa, 

Bồ Tát khắp ghi nhớ Như Lai thành tựu công Ðức rồi ghi nhớ Như Lai nghiệp có tướng mạo gì,tạo nghiệp thế nào, là thân tạo hay khẩu tạo, ý tạo,là oai nghi tạo ư, là thấy Ðược hay chẳng thấy Ðược ư,là nói Ðược hay chẳng nói Ðược ư,tạo tại nước nào,bao nhiêu loại thân hình tạo ư .Bồ Tát ghi nhớ Như Laithành tựu thắng nghiệp chẳng thể nghĩ bàn các thiện căn rồi quán tưởng Như Lai pháp: Chư Phật Thế Tôn do phápthân nên gọi là Như Lai chớ chẳng do sắc thân. Bồ Tát chẳng thấy sắc là Như Lai,chẳng thấy tướng là Như Lai, chẳng thấy chủng tánh là Như Lai,chẳng thấy ấm giới nhập là Như Lai, chẳng thấy oai nghi là Như Lai,chẳng thấy Ðời qúa khứ vị lai hiện tại là Như Lai,chẳng thấy nhơn cũng chẳng thấy duyên là Như Lai,chẳng thấy sở dĩ làNhư Lai, chẳng thấy hòa hiệp là Như Lai,chẳng thấy hữu là Như Lai, chẳng thấy vô là Như Lai,chẳng thấy thành tựu là Như Lai,chẳng thấy bại hoại là Như Lai,chẳng thấy kia là có Như Lai chẳng thấy Ðây là có Như Lai chẳng thấy Như Lai ở chỗ nào,, chẳng thấy Như Lai chẳng cậy dựa Như Lai, chẳng phân biệt Như Lai, chẳng có Ðược Như Lai. 

Như hư không không có tên ấm giới nhập nhưng chẳng phải chẳng lợi ích chúng sanh,chư Phật Thế Tôn không có tên ấm giới nhập mà thường lợi ích các chúng sanh .Ðây là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm Phật Ðược Như Lai hứa khả . 

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp Ðược Như Lai hứa khả? 

Các pháp Ðược Bồ Tát niệm là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc,Ngũ căn, Ngũ lực,Thất giác phần, Bát thánh Ðạo phần,Tam giải thóat môn, Tứ thánh Ðế thậm thâm,Thập nhị nhơn duyên thậm thâm,Lục Ba La mật,pháp tạng mà Bồ Tát phải học, bất thối chuyển luân và tịnh ba cảnh . Ðây là pháp mà Bồ Tát phải niệm . 

Phải niệm thế nào? 

Bồ Tát niệm xả,niệm muốn rời lìa, niệm diệt mất niệm không lai không khứ,niệm không ổ hang,niệm không có tự tánh,niệm xuất thế gian,niệm hiểu suốt,niệm tận,niệm vô sanh,niệm vô thủ,niệm vô lậu,niệm vô vi,niệm niết bàn không có tự tánh . 

Bồ Tát nghĩ rằng ở trong các pháp còn có pháp tưởng, tại sao,vì có tưởng thì còn có Ðộng niệm,vì có Ðộng niệm thì còn Ðiên Ðảo,vì còn Ðiên Ðảo thì không có niệm pháp .Nếu rời lìa niệm pháp và phi pháp  hai tưởng ấy thì biết các pháp là vô sanh. vì Ðã Ðoạn dứt pháp tưởng nên Ðược vô sanh nhẫn Ðược vô sở Ðắc,vì là vô sở hữu vậy .Ðây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm pháp Ðược Như Lai hứa khả . 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm Tăng Ðược Như Lai hứa khả ? 

Tăng là bốn Ðôi támbọn trong Tăng,hoặc là A La Hán hướng A La Hán qủa,hoặc là A Na Hàmhướng A Na Hàm qủa,hoặc Tư Ðà Hàm hướng Tư Ðà Hàm qủa, hoặc Tu Ðà Hoàn hướng Tu Ða Hoàn qủa,Ðây là Thanh Văn Tăng . 

Lại còn có Tăng là Bồ Tát Ðược bất thối chuyển,Ðược quyết Ðịnh nhẫn thượng thánh chánh vị,Ðã rời lìa các tướng ỷ thị chấp trước và hí luận, kế thứ Ðược Như Lai công Ðức vô gián .Bồ Tát ấy nghĩ rằng chúng Ðại Bồ Tát như vậy Ðáng cúng dường tán thán chắp tay hầu hạ hữu nhiễu lễ kính,Ðây là phước Ðiền lành tốt, là Ðệ nhứt Tăng nhập vào sốThánh chúng, nhửng sự việc mà Tăng phải làm Ðều Ðã hoàn thành xong . Bồ Tát ấ niệm Tăng thường thân cận Bồ Tát Tăng mà chẳng thân cận Thanh Văn Tăng . Bồ Tát ấy dầu niệm Tăng  mà chẳng lấy Tăng số,chẳng lấy có số biết Tăng Ðây là vô vi niệm, vô hành niệm, vô biến dị niệm,vô sanh niệm vô diệt niệm .Khởi niệm như vậy chẳng sanh tâm hành cảnh giới . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm Tăng Ðược Nhu Lai hứa khả vậy . 

Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ tát chẳng rời lìa như như niệm xả Ðược Như Lai hứa khả? 

Xà ấy là xả của cải xả thiện pháp, xả thân, xả mạng, xả tất cả tà pháp tà Ðạo . Còn có xả  chẳng lấy tất cả pháp, tại sao ? Vì nếu có thủ thì không có xả . Nếu chẳng thủ lấy thì gọi là cứu cánh xả . Trong cứu cánh xả thì kông có cầu, không cầu thì không mong báo Ðáp . Không mong báo thì gọi là chơn thiệt xả .  

Nếu Bồ Tát hành kiên cố xả như vậy, tùy nơi xả mà phát nguyện . Nếu lúc xả và lúc phát nguyện chẳng thấy Bồ Ðề và Phật pháp mà chuyên niệm xả, nhớ chư Bồ Tát quá khứ lúc hành Ðạo Bồ Tát hành xả thế nào, nay ta hành xả thế nào, có phải là chẳng bằng mà bị người trí chê chăng . Và Bồ Tát có thể xả tất cả . Xả rồi suy gẫm rằng : Trong sự xả ấy, ai là người xả, xả những vật gì, ai ghi nhớ xả ấy . Suy gẫm như vậy rồi thì Ðều trọn vô sở Ðắc, chẳng thấy có người xả, vật xả và kẻ ghi nhớ . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm xả Ðược Phật hứa khả . 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm giới Ðược Như Lai hứa khả ? 

Bồ Tát trì giới Ðến chỗ giải thoát oai nghi hạnh thành tựu, nhẫn Ðến giới vi tế sợ như kim cương, thường tu tịnh mạng khéo hộ trì giới . Bồ Tát tự niệm giới nhiếp thân khẩu là vô tác tướng mà cẩn thận phụng hành tu thắng chánh mạng, nơi Nhứt thiết trí tâm trọn chẳng phế bỏ, thuần chí bất Ðộng cũng trọn chẳng bỏ Ðại từ Ðại bi nhiếp thủ giáo hối chúng sanh phá giới . Thường tự nghĩ thà bỏ thân mạng chớ chẳng cầu các thừa khác . Ðây gọi là giới . Bồ Tát thường niệm thắng giới, giới không có vết không có khuyết, giới chẳng hoang uế, giới chẳng mong cầu, giới chẳng ô nhiễm, giới không Ðục nhơ, giới mà người trí khen trọng, Bồ Tát niệm những giới như vậy, chẳng cậy trì giới, chẳng chê phá giới, chẳng khoe mình tốt, chẳng khi người lỗi, Bồ Tát trọn chẳng xả giới, chẳng y dựa giới cũng chẳng trụ nơi giới . Dầu bỏ tất cả các sự ỷ cậy trụ trước mà thật hành công hạnh lành tốt nơi sắc tướng . Ðây là Bồ Tát chẳng lìa như như niệm giới Ðược  Như Lai hứa khả . 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào la Bồ Tát chẳng rời lìa như như niệm thiên dược Như Lai hứa khả ? 

Niệm thiên là hoặc niệm Dục giới thiên hoặc niệm Sắc giới thiên, hoặc niệm Vô sắc giới thiên. 

Niệm Dục giới thiên vì là quả báo của trì giới, nơi ấy hưởng thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thích ý, do thiên ngũ dục mà dạo chơi vui vẻ, thiên y phục, thiên ẩm thực Ðều tùy ý Ðầy Ðủ, một bề hưởng thọ sự vui thương yêu mừng rỡ thỏa ý . Với sự việc trên, Bồ Tát nghĩ rằng tất cả những sự hưng thạnh ấy rồi sẽ Ðều suy tàn diệt mất, hàng chư Thiên ấy cũng sẽ vô thường biến Ðổi do vì họ phóng dật nên chẳng tu tạo thiện căn, thiện nghiệp Ðã có từ trước nay Ðều lần lần sẽ hết . Dầu hiện nay họ Ðược sanh ở cõi trời nhưng chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh . Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát chẳng hy vọng sanh về cõi Trời Dục giới, duy trừ cung   Trời  Ðâu Suất . Trong cung Trời Ðâu Suất có bực nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát nơi tất cả công hạnh  Bồ Tát Ðã Ðến cứu cánh, tất cả các Ðịa tất cả thần thông tất cả các Ðịnh tất cả Ðà la ni tất cả biện tài tất cả sự việc Bồ Tát tất cả phương tiện Ðều Ðã cứu cánh . Chỉ do ghi nhớ các công Ðức như vậy nên với cung Trời Ðâu Suất lòng Bồ Tát ấy sanh hân ngưỡng, nếu muốn sanh về cõi trời thì nên sanh trong cõi Trời Ðâu Suất tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ Ðược thân trời như vậy . 

Bồ Tát lại niệm chư thiên cõi Sắc, Ðây là quả báo của các thiền các vô lượng tâm . Sanh về cõi Sắc rồi thì vượt quá khổ họa dục nhiễm của cõi Dục, nhứt tâm ở trong thiền dùng hỉ làm thực, một bề biết là thọ báo vui Ðệ nhứt . Bồ Tát ấy suy nghĩ rằng chư Thiên cõi Sắc hưởng thọ chút ít thiền vị dùng làm hoan hỉ, vô thường mà quan niệm thường, nơi khổ quan niệm vui, nơi vô ngã quan niệm ngã, nơi không phải Niết bàn mà quan niệm là Niết bàn . Chư Thiên cõi Sắc cũng có vô thường biến Ðổi , chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục ngạ quỷ súc sanh . Suy nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về cõi Sắc, duy trừ Tịnh Cư Thiên chính nơi trời ấy nhập Niết bàn chẳng trở lại sanh trong cõi Dục nữa . Bồ Tát nghĩ rằng Ðây là chư Thiên thanh tịnh Ðã thoát khỏi lưu chuyển sanh tử trong năm loài, do Ðây mà Bồ Tát ấy sanh lòng kính trọng Trời Tịnh Cư nhưng chẳng nguyện cầu sanh về cõi trời ấy. 

Bồ Tát lại niệm chư Thiên cõi Vô Sắc thọ quả báo  của Vô Sắc Ðịnh Ðã quá Dục giới và Sắc giới, Trời Vô Sắc nầy tâm ở nơi tịch Ðịnh . Bồ Tát ấy nghĩ rằng hàng chư Thiên cõi Vô Sắc nầy dầu thấy Phật nghe Pháp và cúng dường Răng mà chư Thiên Vô Sắc chẳng biết cầu pháp ra khỏi cõi Vô Sác, dầu trụ Ðược lâu nhưng khi thời gian mãn rồi cũng vẫn biến Ðổi hoại diệt chưa thoát khỏi phần Ðịa ngục ngạ quỷ súc sanh, do Ðây mà Bồ Tát ấy chẳng nguyện sanh về Trời Vô Sắc  mà chỉ quan niệm ta sẽ làm bực trời   trong các trời là bực  Như Lai  Ứng Cúng  Chánh Biến Tri Bồ Tát ấy dầu niệm chư Thiên  mà chẳng y dựa các cõi Trời Dục, Sắc, Vô Sắc, Ðối với chúng sanh trong ba cõi ấy phát khởi tâm Ðại bi cứu Ðộ họ ra khỏi sanh tử lưu chuyển trong năm loài .   - Ðây là Bồ Tát chẳng rời như như niệm thiên Ðược Như Lai hứa khả vậy. 

Lại nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn ? 

Bồ Tát biết nhập các pháp bình Ðẳng như Niết bàn, thấy tất cả chúng sanh tánh Ðồng Niết Bàn, biết ngưòi Ðã nhập Niết bàn không có ấm giới nhập . Bồ Tát như vậy thấy chúng sanh tánh Ðồng Niết bàn quá các ấm giới nhập, thấy như bóng trong gương, như cảnh trơng mộng không có sanh tử mà hiện sanh tử . Phàm phu chúng sanh nhơn nơi kiết sử phiền não gây tạo các nghiệp, tạo phiền não nghiệp rồi yhọ vô lượng khổ baó . Bồ Tát do sức Bát Nhã Ba la mật nên khéo quán kiết sử Ðoạn dứt nó khiến nó chẳng sanh, cũng chẳng còn nhơn vì kiết sử mà tạo nghiệp Ðể thọ khổ báo Ðến Ðược nơi Niết bàn bình Ðẳng gọi Ðó là vô vi siêu quá tất cả toán số trí Ðạo .  Vì chẳng bỏ bổn nguyện nên du hí Ðại từ, Ðã Ðến huệ phương phương tiện cứu cánh, Ðã nhập Phật thần thông lực, Ðã vó thể khéo biết phân biệt các tưởng, tự mình Ðược Ðộ hóa  Ðộ  kẻ chưa Ðược Ðộ, tự mình Ðã giải thoát rồi giải thoát cho người chưa Ðược giải thoát, tự mình Ðã Ðược an làm an cho người chưa Ðược an, tự mình Ðược Niết bàn làm cho người chưa Ðược Niết bàn khiến họ Ðược Niết bàn. Với Niết bàn và sanh tử không quan niệm có hai, Ðây là Bồ Tát hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng ? 

Bồ Tát chuyên cần tinh tiến cầu pháp thắng thiện, nơi pháp môn thậm thâm tâm nhập suy lường thanh tịnh thông thạo rộng lớn huệ sáng Ðược môn Ðại trí minh . Dùng sức Ðại trí minh môn ấy biết rõ tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh, tổng nói mỗi chúng sanh có tám vạn bốn ngàn tâm hành, tất cả Ðều có thể rõ biết . Ðó là tâm hành tham dục có hai vạn một ngàn, tâm hành sân hận có hai vạn một ngàn, tâm hành ngu si có hai vạn một ngàn, tâm hành Ðẳng phần có hai vạn một ngàn, cộng là tám vạn bốn ngàn tâm hành, mỗi chúng sanh Ðều có những tâm hành ấy, nếu phân biệt nói rộng thì có Ðến vô lượng tâm hành . Trong mỗi hành tướng môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn căn môn . Trong mỗi căn môn ấy biết có tám vạn bốn ngàn những tri giải sai biệt . Bồ Tát biết hết các hành tướng các căn môn các tri giải tướng sai biệt, biết các tướng nên Ðược tu tập . 

Thế nào là biết tướng sai biệt ? 

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy hoặc là tướng tham dục, là tướng sân hận, là tướng ngu si, là tướng Ðẳng phần, là tướng tăng, là tướng giảm, là tướng trụ, là tướng Ðạt .  Ðây gọi là biết tướng sai biệt. 

Thế nào là biết tướng nên Ðược tu tập ?  

Bồ Tát biết các hành các căn các giải ấy là tướng vô thường, là tướng khổ, là tướng vô ngã là tướng không, là tướng tịch diệt, là tướng ly, là tướng như thiệt, là tướng Niết bàn, là tướng tướng tự không, là tướng tướng tự ly . Nếu có thể biết các hành  các căn các giải như vậy . Như -Đức Như Lai thành tựu chư hành vô chướng ngại trí biết rõ tất cả chúng sanh các hành các căn các giải tướng sai biệt, Bồ Tát cũng kế thứ trí Như Lai biết rõ mà chẳng bỏ nên Bồ Tát sở hành giáo hóa chúng sanh không có mỏi mệt . Ðây gọi là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát thọ trì tạng pháp bửu của chư Phật Như Lai ?

 Như Lai pháp bửu tạng là vô tận  cũng là vô lượng Ðến tất cả chỗ làm vui Ðẹp tất cả chúng sanh . 

Như chúng sanh các hành các căn các giải số Ðến vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng, chư Phật Như Lai pháp bửu tạng vô lượng a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng cũng như vậy. 

Văn tự pháp bửu tạng của Phật, giả sử tất cả chúng sanh Ðồng như A Nan  trong một kiếp Ðến trăm kiếp cũng chẳng thể thọ trì  Ðọc tụng thông thuộc các nghĩa Ðược . Tai sao, vì Phật pháp bửu tạng chỉ có một nghĩa, Ðó là nghĩa ly dục, nghĩa tịch diệt, nghĩa  Niết bàn. 

Nếu Bồ Tát nghe Như Lai Pháp bửu tạng rồi tùy khả năng Ðược thọ rồi thọ trì Ðọc tụng thông thạo, khéo thuận tốt chánh quán rồi như sở thọ mà hành . Bồ Tát nhập vào pháp tạng môn kiên trì suy gẫm chẳng y dựa tất cả tướng hành thì Ðược Ðà la ni môn tam muội môn . Khi Ðược Ðà la ni môn tam muội môn rồi  thì có thể thọ trì văn tự và nghĩa pháp bửu tạng  của một Như Lai, hoặc của hai Như Lai, hoặc của ba bốn Ðến mười Như Lai, hoặc của trăm, của ngàn vạn cho Ðến vô lượng vô biên a tăng kỳ bất khả tư nghị bất khả xưng bất khả lượng chư Như Lai . Nơi pháp bửu tạng của tất cả chư Phật, Bồ Tát ấy tâm chẳng tán loạn thọ trì Ðọc tụng thông thạo văn tự và nghĩa rộng vì mọi người mà giải nói . Bồ Tát ấy y nghĩa chẳng y văn, tịnh ý thành tựu pháp Ðược nghe mà diễn nói nhẫn Ðến chẳng sai sót một câu văn nghĩa, có thể tịnh môn biện tài khéo hay thuyết pháp vui Ðẹp lòng Ðại chúng, Ðược chư Phật khen ngợi cũng hay hàng phục các ma ngoại Ðạo và cung kính cúng dường Tam Bửu, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp khác với pháp tánh, chẳng hư hoại bổn tế, chẳng Ðộng như như pháp tánh Ðược giác ngộ của Như Lai, vì biết tất cả pháp tánh như là sở giác của Như Lai, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp nào là chẳng nhập vào Phật pháp . Taị sao, vì Như Lai biết tất cả pháp tánh như ảo huyễn vì không có thành tựu vậy, biết tất cả pháp tánh như dã mã vì vô sở thủ vậy, biết tất cả pháp tánh như tượng trong gương vì chẳng Ðến kia vậy, biết tất cả pháp tánh như mộng vì chẳng chơn thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh như vang vì theo duyên mà khởi vậy, biết tất cả pháp tánh là rỗng không vì hư giả không thiệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô tướng vì vô phân biệt vậy, biết tất cả pháp tánh vô nguyện vì không có phát Ðộng vậy. 

-Đức Như Lai như thiệt biết tất cả pháp tánh là tướng như vậy . Bồ Tát biết tất cả pháp tánh không có tánh có thể thọ trì pháp bửu tạng của Phật nhẫn Ðến tất cả chẳng phải niệm nhớ chẳng phải chẳng niệm nhớ . Ðây là Bồ Tát thọ trì chư Phật pháp bửu tạng .  

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát biết các chúng sanh từ vô thỉ Ðến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa chúng sanh? 

Bồ Tát vì giáo hóa tất cả chúng sanh nên lúc tu Ðại từ Ðại bi suy nghĩ rằng : những gì là chúng sanh ? Các chúng sanh ấy chỉ là danh tự giả là Ðiên Ðảo hư giả mà gọi là chúng sanh thôi . Tất cả chúng sanh bổn tế thanh tịnh cứu cánh vô sanh vô khởi, chỉ nhơn hư vọng ngu si mà tạo gây các thứ nghiệp, gây tạo nghiệp rồi thọ vô lượng ưu bi khổ não . Như có người trong giấc mộng cướp trộm tài vật của người bị nhà vua bắt trị phạt khốn khổ . Chiêm bao thấy mình làm kẻ giặc cướp hư vọng nhớ tưởng chịu các khổ não tự nghĩ rằng lúc nào tôi sẽ thoát Ðược khổ não nầy . Người ấy ở trong giấc mộng thiệt ra không có sự việc gì không có hay giác tri . Tất cả phàm phu và tất cả pháp Ðều cũng như mộng không có giác tri, vì bị Ðiên Ðảo che chướng mà phải thọ lấy vô lượng vọng tưởng ưu bi khổ não cũng như vậy . Bồ Tát suy nghĩ rằng : Các chúng sanh ấy tôi phải khiến họ như thiệt giác tri các pháp cho họ thoát khỏi vọng tưởng khổ não, ở trong tất cả chúng sanh cũng chẳng thấy chúng sanh tánh nhưng vẫn chẳng bỏ Ðại bi thường giáo hóa chúng sanh . Ðây là Bồ Tát phân biệt chúng sanh từ trước Ðến nay thường thanh tịnh mà giáo hóa họ. 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh thành tựu Phật pháp? 

Bồ Tát nghe Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian rồi phát khởi Ðại nguyện tinh tiến rằng : Tôi phải thành tựu Phật pháp tối thắng thậm thâm vi diệu ở trong thế gian . Khéo tư duy phân biệt như vầy : Là những pháp gì tương ưng với những pháp gì ?  Là những pháp gì  biết những pháp gì ?  Bồ Tát lại suy nghĩ rằng :  Không có pháp gì tương ưng với pháp cũng không có pháp gì  chẳng tương ưng với pháp, không có pháp biết pháp cũng không có pháp chẳng biết pháp, vì các pháp tánh ấy là Ðộn tánh là vô tánh . Các pháp ấy Ðều từ nhơn duyên sanh không có Ðịnh chủ mà có thể tùy  ý  trang nghiêm có các thứ tướng quả báo . Vì các pháp vô tánh nên bố thí là trang nghiêm tướng Ðại phú . Bố thí Ðược Ðại phú vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Bố thí chẳng biết Ðại phú và Ðại phú cũng chẳng biết Ðược bố thí . Trì giới  là trang nghiêm tướng sanh Thiên, trì giới Ðược sanh Tiên vì quả chẳng lìa nhơn vậy. Ða văn là trang nghiêm tướng trí huệ, Ða văn  Ðược trí huệ vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Tư duy là trang nghiêm tướng Ðoạn dứt kiết sử, tư duy thì Ðược Ðoạn dứt kiết sử vì quả chẳng lìa nhơn vậy . Tư duy chẳng biết Ðược Ðoạn kiết và Ðoạn kiết cũng chẳng biết Ðược tư duy. 

Bồ Tát nhớ niệm các pháp vô sanh có thể trang nghiêm tướng như vậy nên bố thí rồi hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Ðàn Ba la mật, Bồ Tát Ðàn Ba la mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp. 

Bồ Tát trì giới hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh  Thi la Ba la mật . Bồ Tát Thi la Ba la mật có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp . Bồ Tát tu nhẩn nhục hồi hướng nhứt thiết trí thành tựu hạnh Sằn Ðề Ba La mật . Bồ Tát Sằn Ðề Ba La mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp . 

Bồ Tát tu tinh tiến hồi hướng Nhứt thiết trí`thành tựu hạnhTỳ lê gia Ba la mật.Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp. 

Bồ Tát nhập thiền Ðịnh hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Thiền Ba la mật.Bồ Tát Thiền Bala mật ấy có thể Ðầy Ðủ Ðược Phật pháp . 

Bồ Tát thanh tịnh Bat Nhã hồi hướng Nhứt thiết trí thành tựu hạnh Bát Nhã Ba la mật . Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật ấ có thể Ðầ Ðủ Ðược Phật pháp.Lúc Bồ Tát khéo tùy thuận phát khởi công hạnh như vậy chẳng thấy có một pháp nào không có nhơn không có duyen mà sanh, Bồ Tát củng chẳng trụ trưóc nơi nhơn duyên, tự khéo tùy thuận nhập vào tất cả pháp tánh.  

Như ngã vô sanh vô khởi,tất cả pháp vô sanh vô khởi củng như vậy. 

Như ngã rỗng không,tất cả pháp rỗng không cũng như vậy.  

Như ngã ly,tất cả các pháply cũng như vậy. 

Bồ Tát biết tất cả các pháp nhập vào bình Ðẳng như tánh,chẳng phải tạo tác chẳng phải chẳng tạo tác . Ðây là Bồ Tát khéo thuận phát hạnh thành tựu Phật pháp vậy .

 Nầy Hư Không Tạng ! thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại ?  

Bồ Tát giới thân chơn tịnh tâm Ðịnh chẳng Ðộng Ðược Ðại trí quang minh, Ðã thành tựu tư lương phước Ðức và trí huệ, Ðã Ðược cứu cánh các Ba la mật, Ðã thành tựu tứ nhiếp pháp, Ðã tu bốn phạm hạnh, Ðã tu dục tiến niệm Ðịnh bốn như ý túc . Vì khéo tu tứ thần túc nên dược ngũ thần thông . Vì Bồ Tát bổn nghiệp thanh tịnh, vì siêng tinh tiến chẳng bỏ phế, vì thường chẳng tán loạn hành, vì khéo phục các kiết sử, vì lìa tâm niệm Thanh Văn  Bích Chi Phật, vì thọ trì phương tiện, vì duyên Ðến các pháp bực trên, vì vô ngã vô y hành, do Ðây mà Bồ Tát chẳng thối thần thông, nên Bồ Tát  rốt ráo biết các pháp bất thối, biết các pháp cùng pháp tánh bình Ðẳng không biến Ðổi sai khác, như hư không không có biến Ðổi . Ðây là Bồ Tát bất thối  các thần thông ở nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại vậy . 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà tất cả hàng Thanh văn và hàng Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược ? 

Bồ Tát nhập pháp thậm thâm nhơn duyên, biết pháp nghịch và thuận nhơn duyên, khéo biết xuất, biế ly, biết sanh, biết diệt, biết tập, biết tận . Khéo biết chúng sanh do nhơn duyên gì  mà thọ cấu, mà ly cấu, mà xả cấu Ðược tịnh, nhẫn Ðến chẳng thấy có một pháp nào có cấu có tịnh .Biết tất cả pháp tánh tướng thanh tịnh, cũng chẳng Ðược tướng pháp thanh tịnh, vì ngã thậm thâm vậy .

 Bồ Tát biết tất cả pháp thậm thâm, vì ngã ly vậy . 

Bồ Tát biết tất cả pháp ly  vì ngã không có hai vậy . 

Bồ Tát biết tất cả pháp không có hai vì nhãn và sắc cả hai Ðều ly vậy . Nhẫn Ðến ý pháp cũng ly thì nhập Ðệ nhứt nghĩa, do thế Ðế nên giả danh là các pháp, cũng chẳng chấp trước chơn Ðế và thế Ðế . Ðây là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược. 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhơn duyên khéo Ðược thắng trí phương tiện rời lìa các kiến chấp nhị biên ? 

Bồ Tát biết tất cả duyên sanh pháp nhiếp thuộc về cái khác : Thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hòa hiệp và thuộc sở do . Các pháp ấy Ðều từ cảnh giới duyên sanh Ðều riêng có sở nhơn Ðều riêng có sở y, các pháp mỗi mỗi Ðều tự minh không có tâm không có tướng sai khác . 

Như bên ngoài các cỏ cây lùm rừng Ðều không có các căn không có ghi nhớ không có hay biết, vì y  dựa các Ðại chủng bèn Ðược tăng trưởng, mỗi mỗi Ðều không có tướng sai khác . Các pháp bên trong cũng như vậy, y dựa gây tạo các nghiệp tăng trưởng tất cả các pháp, không có các tướng ngã nhơn chúng sanhthọ mạng, cũng không có tác giả thọ giả . Các pháp lúc sanh không có gì là năng sanh, lúc diệt không có gì là năng diệt . 

Bồ Tát suy nghĩ rằng : các pháp duyên sanh ấy Ðều riêng không có tự tánh . Vì nó không có tự tánh nên cái khác chẳng sanh nó Ðược, sở nhơn cũng không có tự tánh và sở duyên cũng không có tự tánh . Không có tự tánh thì không có tha tánh . Nếu pháp không có tự tánh tha tánh thì không có sở sanh không có năng sanh, chưa sanh thì chẳng sanh Ðược, Ðã sanh cũng chẳng sanh . Nếu chưa sanh chẳng phải chưa sanh chẳng sanh ấy thì cứu cánh không có sở sanh không có năng sanh  . Vì thế nên tất cả các pháp Ðều vô sanh vô khởi, chỉ do văn tự mà có giả gọi là từ nhơn duyên sanh mà thiệt thì vô sanh, cũng không Ðoạn không thường . Tai sao ?  Vì nếu các pháp mà có tánh sanh thì sẽ có diệt thành Ðoạn kiến, còn nếu không diệt thì thành thường kiến . Vì rời lìa Ðoạn kiến và thường kiến  nên biết tất cả các pháp Ðều không vô sanh . Ðây là Bồ Tát ở nơi thập nhị nhơn duyên khéo Ðược thắng trí phương tiện rời lìa kiến chấp nhị biên vậy .

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho trí phương tiện như như vô phân biệt ? 

Nơi pháp thậm thâm, Bồ Tát Ðược năng lực hiện tiền tri kiến rời tất cả dựa dính quá các hí luận Ðược vô chung vô thỉ Vô sanh Pháp nhẫn.  Đức Như Lai biết rõ căn Bồ Tát Ðược thành tựu rồi liền lấy ấn Như Lai ấn cho, Ðó là thọ ký quyết Ðịnh Chánh Đẳng Giác.  Ấn Như Lai ấy không có sai, không có lầm, không có chướng ngại, không có tranh, không có giành chẳng bị trở ngại, không ai bác Ðược không ai phế Ðược.  Bồ Tát Ðược Như Lai ấn rồi thì nguyện hạnh thành tựu Ðược nước trí rưới vào Ðầu. 

Bồ Tát Ðược các ấn như vậy ấn cho :  Ðó là ấn cứu cánh vô sanh vô khởi, ấn không, ấn vô tướng, ấn vô nguyện, ấn ly nhiễm, ấn tịch diệt, ấn Niết bàn.  Bồ Tát trí hành Ðược thành tựu chẳng hư hoại tánh như, chẳng biến Ðổi pháp giới, chẳng lìa bổn tế, ở trong các pháp chẳng thấy thượng trung hạ Ðen trắng v.v… sai khác.  Bồ Tát cũng thấy tất cả chúng sanh Ðược ấn ấy ấn cho, Bồ Tát không có nhớ nghĩ phân biệt chẳng bỏ bổn Ðại thệ nguyện.  Đây là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho Ðược trí phương tiện như như vô phân biệt vậy 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng ? 

Bồ Tát thấy các pháp giới không chỗ nào chẳng Ðến không lai không khứ, vô sanh vô diệt, vô tướng vô khởi, vô hí vô hành.  Bồ Tát suy nghĩ rằng : các pháp ấy Ðều Ðồng pháp giới như pháp giới, là rời lìa dục giới vì lìa trần cấu vậy, là vô sanh giới vì vô tác vậy, là vô diệt giới vì không diệt tận vậy, là vô lai giới vì chẳng nhập vào căn môn vậy, là vô khứ giới vì không có chỗ Ðến vậy, là bất khả an giới vì không có hình chất vậy, là không có ổ hang giới vì không có y chỉ vậy, là chơn thiệt giới vì ba cảnh phần dứt hết vậy.  Trong pháp giới ấy không có nhãn giới, không có sắc giới, không có nhãn thức giới, cho Ðến không có ý giới, không có pháp giới, không có ý thức giới.  Như pháp giới tất cả pháp cũng như vậy.  Vì thế nên gọi là tất cả pháp nhập vào pháp giới. 

Bồ Tát ấy biết tất cả pháp nhập vào pháp giới, biết Ðịa giới cùng pháp giới không có hai không có khác, biết thủy giới hỏa giới phong giới cùng pháp giới không hai không khác. 

Bồ Tát biết dục giới cùng pháp giới bình Ðẳng không hai không khác, biết sắc giới, vô sắc giới, hữu vi giới, vô vi giới cùng pháp giới bình Ðẳng không hai không khác.  Bồ Tát biết không có tâm cảnh giới và giác như vậy.  Đây là Bồ Tát nhập vào môn pháp giới tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát thuần chí dụ như kim cương tâm trụ bất Ðộng nơi Đại thừa nầy ? 

Bồ Tát dùng trực tâm hành thành tựu tịnh thuần chí, dùng tinh tiến bất thối cứu cánh bất giảm, dùng Ðại từ vô ngại, dùng Ðại bi không mỏi, dùng phương tiện khắp Ðến Ðược thành tựu quán huệ chơn thiệt vô ngại, các pháp như vậy Ðều Ðược thành tựu.  Bồ Tát thấy tất cả chúng sanh có cấu trược phàm ngu thô cứng cự nghịch chẳng thuận, do Ðây mà Bồ Tát giáo hóa tất cả chúng sanh chẳng bỏ rời tinh tiến.  Bồ Tát thấy sinh tử có vô lượng vô biên lỗi họa ưu bi khổ não, vì vậy nên Bồ Tát chẳng thối bỏ trang nghiêm vị lai tế.  Bồ Tát cũng hiểu vô lượng vô biên a tăng kỳ các Phật pháp.  Bồ Tát vì thành tựu các Phật pháp khó tu tập  khó thọ trì khó Ðầy Ðủ nên trồng các thiện căn Ðể có thể nhập vào vô lượng pháp bửu tạng của Như Lai. 

Vì chúng sanh tánh vô lượng, vì pháp tánh vô lượng, vì hư không tánh vô lượng, vì thọ trì pháp bửu tạng của tất cả Như Lai, nên Bồ Tát chẳng bỏ tinh tiến nghe tất cả pháp không  vô tướng vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô khởi, hiểu rõ phân biệt quán hạnh thân chứng thành tựu Phật pháp chưa Ðược Ðủ, trọng chẳng có giữa Ðường, mà chứng nhập thiệt tế.  Bồ Tát khéo nhập các thiền Ðịnh giải thoát tam muội, cũng chẳng nhàm lìa dục giới mà thị hiện thọ sanh trong cõi dục.  Bồ Tát Ðã lìa các ấm giới nhập không hình không sắc không hành mà tùy thuận chúng sanh tánh rồi tùy ý thị hiện các loại thân hình Ðể thuyết pháp cho họ, chuyển pháp luân thị hiện Ðại Niết bàn, cũng chẳng bỏ hạnh Bồ Tát nhập vào pháp môn bất tư nghị như vậy.  Bồ Tát biết tất cả pháp không có tánh tướng, chẳng Ðộng chẳng hư hoại chẳng tan, ở nơi Đại thừa này chẳng thối chuyển.  Như kim cương bửu châu có thể soi xét tất cả châu báu khác, mà tất cả báu khác chẳng thể soi xét châu này Ðược.  Cũng vậy, có thể dùng Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa Ðộ vô lượng vô biên chúng sanh khiến chứng nhập Niết bàn mà tự mình chẳng diệt Ðộ cũng chẳng thối cứu cánh Đại thừa.  Đây là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương tâm vững trụ chẳng dao Ðộng nơi Đại thừa nầy vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát tự tịnh giới của mình như chư Phật giới ?

 Bồ Tát biết tất cả pháp không có giới không có tác giới, Ðến tất cả nơi chỗ không có Ðến không có chẳng Ðến.  Nếu Bồ Tát thấy pháp phát khởi lục tình Ðều biết là Phật pháp, cũng chẳng thấy phàm phu pháp và Phật pháp có khác.  Bồ Tát nghĩ rằng tất cả pháp nầy Ðều là Phật pháp vì Phật pháp Ðến tất cả chỗ vậy.  Tất cả pháp và Phật pháp chỉ có danh tự giả, cũng chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp.  Vì vậy nên chúng ta chẳng nên thủ trước.  Do vì tự giới tịnh nên biết tất cả Phật giới tịnh, pháp ấy cùng Ðồng là bình Ðẳng.  Nhãn giới là Phật giới cho Ðến ý giới là Phật giới.  Ta chẳng nên phân biệt trong ấy có tôn có ti.  Bồ Tát Ðến Nhứt thiết pháp bình Ðẳng giới như vậy.   Đây là Bồ Tát tự tịnh giới của mình như chư Phật giới. 

Nầy Hư Không Tạng!  Thế nào là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trong không thất niệm?

 Bồ Tát Ðã Ðược thành tựu Ðà la ni hạnh, thế nào là Ðà la ni hạnh?  Đà la ni hạnh có ba mươi hai thứ: 

Bồ Tát tu nơi pháp Ðã Ðược, vì Ðà la ni nên tu pháp nguyện, tu pháp tôn trọng, tu pháp hồi hướng, tu pháp kính ngưỡng, tu pháp ưa thích, tu cầu pháp không nhàm, tu pháp thân cận cúng dường bực Ða văn trí huệ, tu pháp Ðối với Hòa Thượng A Xà Lê không lòng kiêu mạn thường tôn trọng cung cấp hầu hạ, tu Ðúng theo pháp Ðược dạy bảo không hề chống trái, tu Ðối với người thuyết pháp tưởng như Phật không tìm chỗ dở, tu thọ trì chánh pháp khai thị giải thuyết, tu không hề lẫn tiếc pháp Ðã Ðược, tu không hy vọng mà làm pháp thí, tu cầu gốc rễ trí huệ, tu khéo thuận tư duy Ðúng pháp Ðược nghe, tu kiên cố thọ trì pháp Ðược nghe, tu với phạm hạnh không thôi nghỉ, tu thích xa lìa thật hành hạnh a lan nhã, tu tâm thường tịch tĩnh, tu siêng chánh niệm, tu thuận theo lục hòa kính, tu với các bực tôn trưởng không khinh mạn, tu tâm vô ngại ở trong tất cả chúng sanh, tu pháp duyên sanh Ðược tùy thuận nhẫn, tu tam giải thoát môn chánh quán lòng không kinh sợ, tu tứ thánh chủng hạnh mà chẳng kinh nghi, tu siêng thọ trì chánh pháp của chư Phật, tu vì chúng sanh mà hành Ðại từ, tu thọ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, tu Ðại trí hạnh chẳng sanh kiêu mạn, tu thường giáo hóa chúng sanh mà không nhàm mỏi.   Đây là ba mươi hai pháp tu Ðà la ni hạnh của Bồ Tát vậy.  Bồ Tát tu rồi Ðược môn Ðà la ni như vậy.  Vì Ðược môn Ðà la ni ấy nên có thể tổng trì pháp Ðược nói của tất cả chư Phật chẳng quên chẳng mất. 

Đà la ni ấy là với pháp Ðược nghe chẳng quên chẳng mất, dùng niệm mà nhớ, dùng ý phân biệt, dùng tinh tiến hay giác ngộ, nơi các văn tự Ðược không bờ mé, nơi các ngữ ngôn tùy theo các loài Ðều khéo hiểu rõ, ngôn từ biện thuyết không có trệ ngại.  Với kinh bất liễu nghĩa khéo hay tiến vào, nơi kinh liễu nghĩa tiến vào cứu cánh, nơi thế tục Ðế có trí phân biệt, nơi Ðệ nhất nghĩa Ðế biết là không có ngôn thuyết, nơi các Ðế có trí phân biệt, nơi Tứ niệm xứ có trí chẳng quên, nơi Tứ chánh cần có trí vô hoại, nơi Tứ thần túc có trí du hí, nơi các căn môn có trí sai biệt, ở trong các lục Ðược trí vô thắng, nơi Thất giác phần có trí giác tất cả pháp như tánh, nơi Bát thánh Ðạo có trí không thối mất, ở trong pháp thiền Ðịnh Ðược tâm thiện trụ, ở trong pháp chánh Ðịnh huệ Ðược trí biến chí, nơi minh giải thoát Ðược trí tùy thuận, ở trong các biện tài Ðược trí thâm nhập, nơi các thần thông Ðược trí sanh khởi, nơi các Ba la mật Ðược trí phân biệt, nơi tứ nhiếp pháp Ðược pháp phương tiện, với chỗ tán thán pháp có trí dạy nghĩ rằng chẳng bằng, nơi nghĩa các kinh Ðược trí vô phân biệt, nơi các văn tự Ðược trí vô tận, nơi tất cả chúng sanh Ðược trí xứng Ðủ, tùy pháp học hiểu Ðược trí thuyết pháp, nơi tất cả văn tự Ðược trí biện sở nhơn, nơi tất cả cấu tịnh Ðược trí như thiệt thấu biết, nơi tất cả pháp Ðược trí sáng không chướng che.  Đây là Ðà la ni ấy vậy.

 Bồ Tát Ðược Ðà la ni bình Ðẳng tâm thì bỏ lìa ghét thương, kham nhận pháp vũ, dứt tất cả kiết sử nhiệt não, thuận các pháp trợ Ðạo, Ðây là Ðà la ni ấy vậy. 

Bồ Tát do an trụ Ðà la ni ấy nên thường tu hành không lỗi.  Đây là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trong chẳng thất niệm vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát Ðược biện tài vô ngại Như Lai gia trì ? 

Bồ Tát khéo tịnh thuần chí khéo thủ hộ giới tụ trừ hết gốc kiêu mạn, lìa quan niệm mình người, chư Phật Thế Tôn biết Bồ Tát như vậy là Ðại pháp khí nên khiến thọ trì chánh pháp, do nơi Phật thần lực cùng sức tự thiện căn nên Ðược biện tài lanh lẹ, Ðược biện tài mau chóng, Ðược biện tài vô ngại, Ðược biện tài không ngừng trệ, Ðược biện tài khéo nói, Ðược biện tài thậm thâm, Ðược biện tài các thanh âm Ðầy Ðủ, Ðược biện tài thiện trang nghiêm, Ðược biện tài không giảm khuyết, Ðược biện tài vô úy, Ðược biện tài kệ hay tán thán, Ðược biện tài nói khế kinh tốt, Ðược biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên, Ðược biện tài không ai hơn không ai phá Ðược, Ðược biện tài phân biệt câu vô tận, Ðược biện tài viên mãn Ðầy Ðủ, Ðược biện tài oai Ðức không ai trái nghịch, Ðược biện tài thuyết pháp không luống uổng, Ðược biện tài dứt nghi cho Ðại chúng, Ðược biện tài Ðáp lời lẹ, Ðược biện tài phân biệt văn tự không sai lầm, Ðược biện tài vui Ðẹp Ðại chúng, Ðược biện tài phương tiện vấn Ðáp, Ðược biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại Ðạo, Bồ Tát ấy Ðã thành tựu hai mươi bốn biện tài như vậy. 

Bồ Tát tu hành hai mươi bốn nghiệp nhơn thì Ðược thành tựu hai mươi bốn biện tài ấy. 

Những gì là hai mươi bốn nhơn ? 

Vì chẳng trái nghịch lời dạy của Sư trưởng nên có thể Ðược biện tài lanh lẹ.  Vì chẳng dua vạy nên có thể Ðược biện tài mau chóng.  Vì bỏ lìa phiền não nên Ðược biện tài vô ngại.  Vì không chấp ngã nên Ðược biện tài không trệ.  Vì lìa lưỡng thiệt nên Ðược biện tài nói khéo.  Vì nhập nhơn duyên pháp vô tế nên Ðược biện tài thậm thâm.  Vì làm các việc bố thí nên Ðược biện tài Ðầy Ðủ âm thanh.  Vì nghiêm sức tháp miếu Như Lai nên Ðược biện tài thiện trang nghiêm.  Vì chẳng bỏ tâm Bồ Ðề nên Ðược biện tài không giảm khuyết.  Vì khéo hộ trì giới tụ nên Ðược biện tài vô úy.  Vì  cúng thí những tràng phan lọng Ðẹp linh báu nên Ðược biện tài kệ hay tán thán.  Vì cung kính cúng dường cấp thị chư tôn trưởng nên Ðược biện tài nói tốt tu Ða la.  Vì từ xưa vun trồng tu tập vô lượng thiện căn nên Ðược biện tài khéo nói thí dụ bổn duyên.  Vì chẳng khinh tiện chúng sanh ác Ðạo nên Ðược biện tài không ai hơn không ai phá Ðược.  Vì cúng thí vô lượng bửu tạng nên Ðược biện tài phân biệt câu vô tận.  Vì nói năng chơn thiệt không thô cộc nên Ðược biện tài tròn Ðủ.   Vì lúc thuyết pháp không tranh cạnh nên Ðược biện tài oai Ðức không ai trái nghịch.  Vì Ðức thuần tịnh thuận pháp luật hành nên Ðược biện tài thuyết pháp không luống uổng.  Vì chẳng lẫn tiếc nơi pháp chẳng cậy ỷ nơi Ðức của mình nên Ðược biện tài hay dứt nghi co Ðại chúng.  Vì lúc cầu pháp chẳng lấy oai bức người, thường có lòng cung kính nên Ðược biện tài ứng Ðối lẹ.  Vì thường xét lỗi mình chẳng chê chỗ khuyết kém của người nên Ðược biện tài phân biệt văn tự không sai lầm.  Vì bình Ðẳng nhuần ích cho chúng sanh chẳng mong báo Ðáp nên Ðược biện tài vui Ðẹp Ðại chúng.  Vì thọ trì Đại thừa chẳng cầu tiểu thừa nên Ðược biện tài phương tiện vấn Ðáp.  Vì chẳng chấp ngã kiến nhập vào tánh bình Ðẳng nên Ðược biện tài dùng chánh pháp hàng phục tất cả ngoại Ðạo.  Đây là hai mươi bốn nhơn thành tựu các biện tài, khéo có thể tùy theo chỗ Ðáng Ðược nhận hiểu của các chúng sanh kia mà thuyết pháp không có sai lầm, những pháp Ðược học cũng chẳng thối thất.  Đây là Bồ Tát Ðược biện tài vô ngại Như Lai gia trì vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ thân sanh tử ? 

Bồ Tát thành tựu mười hai pháp thì Ðược tự tại thị hiện thọ thân sanh tử.

 Vì thân cận bực chơn thiện tri thức vậy.  Vì tiêu trừ ngã kiến vậy.  Vì trọn nên giới thân vậy.  Vì khéo biết nhập Ðịnh xuất Ðịnh vậy.  Vì gồm tu trí huệ phương tiện vậy.  Vì khéo biết thâm nhập các thần thông du hí vậy.  Vì như thiệt quán biết các pháp vô sanh vô khởi vậy.  Vì tịnh giống bổn nguyện vậy.  Vì thường chẳng bỏ Ðại từ Ðại bi vậy.  Vì biết tất cả pháp như huyễn hóa vậy.  Vì biết các pháp như mộng tưởng vậy.  Vì Ðược tất cả gia oai thần vậy. 

Đây là Bồ Tát thành tựu mười hai pháp không có sanh mà thị hiện thọ sanh, không có khởi mà thị hiện phát khởi, thị hiện tất cả thân sanh tử.  Nơi pháp hội của tất cả chư Phật thị hiện thân mình.  Ở các Phật quốc Ðộ Ðều thị hiện thọ sanh mà thường chẳng Ðộng nơi chơn pháp thân.  Đây là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ sanh tử vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát phá các oán Ðịch trừ lìa bốn ma ? 

Bồ Tát chuyên cần tu tập quán năm ấm như ảo huyễn thì Ðược lìa ma ngũ ấm.  Vì quán các pháp tánh thanh tịnh nên lìa ma phiền não.  Vì quán tất cả pháp theo duyên sanh tánh nó chẳng thành tựu nên lìa ma chết.  Vì quán tất cả pháp Ðược duyên tạo thành là tướng vô thường bại hoại nên lìa thiên ma. 

Vì Bồ Tát quán các pháp như vậy nên Ðược lìa bốn ma tiến Ðến Bồ Ðề trọn chẳng giải Ðãi.  Bao nhiêu ma nghiệp chướng ngại Bồ Ðề, Bồ Tát Ðều xa lìa cả.  Sao gọi là ma nghiệp?    

Có tâm niệm hướng Ðến Nhị thừa là ma nghiệp.  Chẳng thủ hộ Bồ Ðề tâm là ma nghiệp.  Với các chúng sanh có quan niệm sai khác là ma nghiệp.  Nơi bố thí mong báo là ma nghiệp.  Vì thọ sanh mà trì giới là ma nghiệp.  Có sắc tưởng mà tu hành nhẫn nhục là ma nghiệp.  Vì thế sự mà siêng tinh tiến là ma nghiệp.  Nơi thiền Ðịnh có ý tưởng thích ưa là ma nghiệp.  Nơi huệ sanh hí luận là ma nghiệp.  Nhàm mỏi sanh tử là ma nghiệp.  Tu các thiện căn mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ Ðề là ma nghiệp.  Chán ghét phiền não là ma nghiệp.  Phạm tội phú tàng là ma nghiệp.  Ganh ghét chư Bồ Tát là ma nghiệp.  Phỉ báng chánh pháp là ma nghiệp.  Chẳng thọ học chánh pháp là ma nghiệp.  Chẳng biết báo ơn là ma nghiệp.  Chẳng tiến cầu Ba la mật là ma nghiệp.  Chẳng kính thuận chánh pháp là ma nghiệp.  Lẫn tiếc nơi pháp là ma nghiệp.  Vì lợi dưỡng mà thuyết pháp là ma nghiệp.  Chẳng biết phương tiện mà hóa Ðộ chúng sanh là ma nghiệp.  Bỏ tứ nhiếp pháp là ma nghiệp.  Khinh hủy cấm giới là ma nghiệp.  Ganh ghét người trì giới là ma nghiệp.  Học hạnh Nhị thừa là ma nghiệp.  Hi vọng chánh vị là ma nghiệp.  Bỏ lìa Ðại từ mà quán vô sanh là ma nghiệp.  Muốn chứng pháp vô vi là ma nghiệp.  Nhàm lìa công Ðức hữu vi là ma nghiệp.  Chẳng thương chúng sanh là ma nghiệp.  Chẳng khiêm hạ bực tôn truởng là ma nghiệp.  Tập làm lưỡng thiệt là ma nghiệp.  Dua nịnh nhiều gian là ma nghiệp.  Hiển bày tịnh hạnh của mình là ma nghiệp.  Làm ác chẳng thẹn là ma nghiệp.  Chẳng lưu bố chánh pháp là ma nghiệp.  Lấy ít công Ðức làm Ðủ là ma nghiệp.  Tóm lại, nếu thân cận làm tất cả pháp bất thiện mà xa lìa tất cả thiện pháp Ðều là ma nghiệp cả.  Đây là ma nghiệp.  Người làm các nghiệp ấy thì chướng Ðạo Bồ Ðề.  Chư Bồ Tát ấy Ðã vượt quá Ðã bỏ lìa nên có thể chánh thọ hành.  

Thế nào là chánh thọ hành ? 

Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì có thể chánh thọ hành. 

Một là nơi các pháp Ba la mật không giải Ðãi thối thất hành.  Hai là chẳng bỏ dục tiến và bất phóng dật.  Ba là chánh trụ trong pháp phương tiện Ðại từ.  Bốn là nhập pháp môn thậm thâm không có ái không có ổ hang.

 Vì Bồ Tát thành tựu bốn pháp chánh thọ hành nên có thể phá các oán Ðịch.  Đây là Bồ Tát hay phá oán Ðịch trừ lìa bốn ma vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tư lương công Ðức lợi ích các chúng sanh ? 

Bồ Tát thiện căn hồi hướng hướng Ðến Vô thượng Bồ Ðề.  Nếu có thiện căn Ðược vun trồng như bố thí ái ngữ lợi hành Ðồng sự Ðều Ðem thí cho tất cả chúng sanh.  Do thanh tịnh giới tụ nên Ðược sức tự tại.  Dùng sức tự tại ấy, Bồ Tát tùy theo chỗ Ðáng ưa thích của các chúng sanh mà hóa Ðộ họ.  Do vun trồng công Ðức không chán nhàm nên Ðược tay báu vô tận.  Dùng bửu thủ vô tận ấy, Bồ Tát có thể bố thí chúng sanh vô lượng giàu vui.  Do cầu vô biên trí huệ tư lương nên Ðược biện tài Ðà la ni vô ngại.  Dùng vô ngại Ðà la ni biện tài ấy, Bồ Tát có thể tổng trì chỗ nói của tất cả chư Phật, Bồ Tát có thể nói diệu pháp làm vui Ðẹp Ðại chúng.  Do vì khéo nói Ðiều thân tâm nên chẳng thối thần thông.  Dùng sức các thần thông bất thối ấy, Bồ Tát có thể qua Ðến vô lượng cõi Phật dùng vô số phương tiện Ðộ nhiều chúng sanh.  Do siêng cầu pháp không mỏi mệt nên Ðược mỗi lỗ lông phát xuất vô lượng pháp môn.  Dùng sức phát xuất vô lượng pháp môn, Bồ Tát có thể thường dùng pháp thí lợi ích chúng sanh.  Do gồm tu huệ phương tiện Ba la mật nên Ðược trí phân thân.  Dùng sức trí phân thân ấy Bồ Tát có thể ở trong các loài nơi nơi hiện thân hóa Ðộ quần sanh.  Do thường dùng vô tướng cung kính cấp thị chư Phật nên Ðược kiến văn không nhàm chán.  Dùng sức kiến văn không chán ấy, có chúng sanh nào Ðược thấy nghe Bồ Tát ấy, thì các chúng sanh ấy nhẫn Ðến do nơi Bồ Tát trang nghiêm công Ðức tư lương lợi ích chúng sanh. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát ở nơi thời gian không có Phật xuất thế mà có thể làm Phật sự hóa Ðộ chúng sanh? 

Bồ Tát Ðã thành tựu Bồ Tát thập lực, Ðã ở trong bốn vô sở úy của Bồ Tát Ðược tự tại, Ðã ở trong Bồ Tát mười tám pháp bất cộng chẳng từ người khác Ðể thọ, Ðã tu Như Lai lực  vô sở úy pháp bất cộng, Ðã Ðược du hí thủ lăng nghiêm tam muội, Ðã ở nơi bốn biện tài Ðược trí lực tự tại, Ðã ở trong Phật pháp Ðược quán Ðảnh chánh vị, ở nơi tất cả Bồ Tát hạnh Ðược thần lực kế thứ Phật.

 Nếu Bồ Tát thành tựu các pháp như vậy, chúng sanh nơi các Phật Ðộ nào Ðáng thấy thân Phật mà Ðược hóa Ðộ, những Phật Ðộ ấy nhằm thời kỳ không có Phật xuất thế, thì Bồ Tát ấy liền ở quốc Ðộ ấy thị hiện thời gian nhập thai, sơ sanh, xuất gia, thị hiện thời gian ngồi Ðạo tràng chuyển pháp luân, thị hiện xả thọ mạng Ðến thời gian nhập Niết bàn, cũng có thể thị hiện Ðại bát Niết bàn, cũng thị hiện pháp trụ thời tiết lâu mau, cũng còn chẳng bỏ Bồ Tát hành pháp, cũng chẳng dùng chỗ Ðược hóa Ðộ lấy Ðó làm Ðầy Ðủ.  Đây là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật có thể làm Phật sự giáo hóa chúng sanh. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát nhập hải ấn tam muội có thể biết tâm hành của tất cả chúng sanh ? 

Bồ Tát Ða văn như biển thành tựu huệ tụ, thường siêng cầu pháp.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết trân bửu kho tàng.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể xả thí hết tôi tớ kẻ sai sử vợ con quyến thuộc.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát xả thí những món trang sức trên thân và nhà cửa.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát có thể hạ mình hầu hạ chịu sự sai khiến.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát bỏ ngôi cao sang cả nước cho Ðến xả thân mạng mình.  Bồ Tát dùng vô số phương tiện siêng cầu pháp môn như vậy mà chẳng cậy sở hành.  Vì nghe pháp mà Bồ Tát Ði Ðến một do tuần hoặc trăm do tuần.  Vì nghe một bài kệ bốn câu Ðể thọ trì Ðọc tụng rộng vì người giải nói mà chẳng bỏ tinh tiến ấy.  

Bồ Tát nầy tự thành tựu Ða văn, với tất cả chúng sanh phát tâm Ðại bi tâm không ái nhiễm tâm chẳng mong báo Ðáp mà vì họ thuyết pháp, nhẫn Ðến không khinh rẻ một chúng sanh, thuyết pháp một ngày Ðến bảy ngày không quan niệm ăn uống cho Ðến mạng chung cũng không bỏ thuyết pháp.  Đem thiện căn thuyết pháp hồi hướng hải ấn tam muội.  Tùy pháp Ðược nghe thọ trì Ðọc tụng thông thạo khéo biết nghĩa thú chẳng y dựa văn tự chơn thiệt kiên trì trọn Ðời chẳng bỏ.  Bồ Tát phát Ðại nguyện tinh tấn, dùng sức Ðại nguyện tinh tiến ấy chẳng bao lâu bèn Ðược hải ấn tam muội.  Được tam muội nầy rồi thì Ðược tự nhiên vô lượng a tăng kỳ  trăm ngàn vạn pháp môn, Ðược vô lượng a tăng kỳ trăm ngàn vạn ức tu Ða la chẳng nghe nơi người mà tự nhiên có thể diễn nói.  Pháp của tất cả chư Phật nói Ðều có thể thọ trì, có thể rõ biết tâm hành của tất cả chúng sanh.  

Dụ như Diêm Phù Đề tất cả chúng sanh thân và những hình sắc cảnh ngoài Ðều có ấn tượng trong Ðại hải, vì vậy mà gọi Ðại hải là ấn.  Cũng vậy, Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội rồi có thể phân biệt thấy tâm hành tất cả chúng sanh, nơi tất cả pháp môn Ðều Ðược huệ sáng tỏ.  Đây là Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội thấy tâm hành cảnh giới của tất cả chúng sanh vậy. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát biết các trần giới vô ngại ? 

Do nhãn không nên Bồ Tát biết sắc cũng không, do sắc ly nên biết nhãn cũng ly, do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý không nên Bồ Tát biết thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng không, do thanh, hương, vị, xúc và pháp ly nên biết nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng ly. 

Bồ Tát như thiệt biết không tánh ly tánh, nơi nội pháp và ngoại pháp không có chướng ngại. 

Bồ Tát vì biết các kiết bổn tánh tịnh thì không phát khởi các sử.  Nơi tất cả các pháp không có tham trước.  Bồ Tát chẳng thấy các pháp có chỗ trước, cách trước và ai trước.  Đây là Bồ Tát biết rõ trần giới vô ngại vậy.

 Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm Ðược ánh sáng thù thắng, ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí, mau Ðược thành tựu Nhứt thiết trí hành? 

Bồ Tát phát khởi chỗ làm tu tập chánh hạnh các nghiệp Ðều Ðược Như Lai hứa khả, người trí khen ngợi, Ðó là các nghiệp nơi thân, khẩu và ý.  Do hành các chánh hạnh nghiệp ấy nên vui Ðẹp chư Phật và chư Hiền Thánh các bực thiện tri thức.  Những nghiệp hạnh Ðược làm không ai có thể chê trách, là tối thắng vô thượng vô Ðẳng.  Không ai có thể phá tổn nghiệp hạnh của Bồ Tát ấy.  Nơi các nghiệp hạnh Ðã làm Bồ Tát ấy trọn không thối hối.  Các nghiệp Ðược làm chẳng xen tạp ngu si, các nghiệp Ðược làm Ðều có thể xem thấy biết rõ, các nghiệp Ðược làm trọn chẳng Ðộng chuyển, các nghiệp Ðược làm Ðều cứu cánh lành tốt.  Bồ Tát ấy biết các nghiệp Ðược làm chẳng phải do kiêu mạn, là trí huệ làm chẳng phải do ngu si. 

Bồ Tát ấy làm các thiện nghiệp như vậy thì tất cả tam muội môn tất cả Ðà la ni môn Ðều hiện ra chẳng từ người khác nghe. 

Bồ Tát ấy hoặc thấy chư Phật hoặc chẳng thấy chư Phật trọn chẳng thối chuyển các thiện căn trợ Bồ Ðề Ðạo,  hoặc gặp thiện tri thức thích ý hoặc gặp thiện tri thức chẳng thích ý cũng chẳng thối chuyển pháp Bồ Ðề. 

Bồ Tát ấy qua khỏi tất cả bực chướng ngại, lìa tất cả ma kiết sử tu ba môn giải thoát.  Do sức Bát Nhã Ba la mật nên mau Ðược Phật Ðạo, tự nhiên Ðạo, Nhứt thiết trí Ðạo, Như Lai Ðạo.  Đây là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm Ðược quang minh thù thắng, ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí, mau Ðược thành tựu Nhứt thiết trí hành". 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy