× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 55 LV. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Thứ 55 (2)

 Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát nói kệ Ðáp Công Ðức Quang Minh Vương Ðại Bồ Tát rồi bạch Ðức Phật rằng :'' Bạch Ðức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát thật hành Ðàn  Ba la mật bình Ðẳng với hư không ? Thế nào là Bồ Tát hành Thi la  Ba la mật, hành Nhẫn  Ba la mật, hành Tiến  Ba la mật, hành Thiền  Ba la mật, hành Bát Nhã  Ba la mật bình Ðẳng với hư không? Thế nào là BồTát hành công Ðức, hành trí bình Ðẳng với hư không?  Thế nào là Bồ Tát  chẳng rời lìa như như mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên, như Ðúc Phật Ðã hứa khả?  Thế nào là Bồ Tát tu hành các pháp bình Ðẳng như Niết bàn?  Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng?  Thế nào là Bồ Tát thọ trì pháp tạng chư Phật, tùy theo Như Lai chỗ giác ngộ tánh tướng các pháp như thiệt biết tánh tướng các pháp rồi mà chẳng thủ chẳng xả ?  Thế nào là Bồ Tát phân biệt các chúng sanh từ vô thỉ Ðến nay thanh tịnh mà giáo hóa các chúng sanh ?  Thế nào là Bồ Tát khéo thuận phát hành thành tựu Phật pháp ?  Thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật pháp Ðều Ðược tự tại ?   Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh văn, hàng Bích Chi Phật chẳng nhập Ðược ?  Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhân duyên Ðược thắng trí phương tiện xa lìa nhị biên kiến chấp ? Thế nào là Bồ Tát Ðược ấn Như Lai ấn cho như như vô phân biệt trí phương tiện ? Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới, tánh thấy tất cả pháp tánh bình Ðẳng ?  Thế nào là Bồ Tát thuần chí kiên cố như kim cương, nơi Ðại thừa nầy tâm an trụ bấ Ðộng ?  Thế nào là Bồ Tát tự thanh tịnh giới mình như Phật giới ?  Thế nào là Bồ Tát Ðược Ðà la ni trọn chẳng thất niệm ?  Thế nào là Bồ Tát Ðược Như Lai gia trì biện tài vô ngại ?  Thế nào là Bồ Tát Ðược tự tại thị hiện thọ sanh tử ?  Thế nào là Bồ Tát phá các oán Ðịch lìa bỏ bốn ma ? Thế nào là Bồ Tát lợi ích chúng sanh trang nghiêm công Ðức ? Thế nào là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật mà hay làm Phật sự ? Thế nào là Bồ Tát Ðược hải ấn tam muội khéo có thể biết Ðược tâm hành của các chúng sanh ?  Thế nào là Bồ Tát biết Ðược các trần giới vô ngại ?  Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu  lìa các  tối tăm Ðược quang minh thù thắng ở trong các pháp Ðược tự nhiên trí mau Ðược thành tựu  Nhứt thiết trí hành ? '' . 

-Đức  Phật nói : ''Lành thay, lành thay, nầy Hư Không Tạng!  ông khéo có thể phân biệt hỏi nơi Như Lai những diệu nghĩa như vậy.  Như ông Ðã từng cúng dường quá khứ vô lượng chư Phật trồng các căn lành, tâm hành bình Ðẳng như hư không, lễ kính chư Phật Ðến chỗ trí huệ sáng tỏ, phát siêng tinh tiến muốn Ðến diệu pháp tất cả chư Phật, chẳng bỏ rời các chúng sanh Ðến Ðại từ bi cứu cánh, Ðã quá các ma nghiệp chẳng lìa thế pháp, dùng tâm lượng Ðồng hư không Ðể thành tựu diệu pháp Ðại thừa vô thượng nầy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Công Ðúc của ông không có biên tế, khó so sánh Ðược, ông Ðã từng ở chỗ hằng hà sa số chư Phật quá khứ hỏi những sự việc ấy, ông cũng có thể tự nói, ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, Phật sẻ vì ông mà phân biệt giải nói các sự Ðược hỏi về công hạnh của chư Bồ Tát, mà Phật còn giải nói hơn Ðây có thể Ðược Vô thượng Ðại thừa Như Lai tự nhiên trí Nhứt thiết chủng trí». 

Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát bạch rằng : 

'' Kính vâng, bạch Ðức Thế Tôn ! Tôi nguyện thích Ðược nghe ''. 

-Đức Phật nói : '' Nầy Hư Không Tạng !  Thành tựu bốn pháp, Bồ Tát hành Ðàn  Ba la mật bình Ðẳng với hư không : Nếu Bồ Tát ở tất cả chỗ không có chướng ngại chẳng phân biệt mà hành  Ðàn Ba la mật, do ngã tịnh nên bố thí cũng tịnh, do bố thí tịnh nên nguyện cũng tịnh, do nguyện tịnh nên Bồ Ðề cũng tịnh, do Bồ Ðề tịnh nên nơi tất cả các pháp cũng tịnh . Ðây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp thật hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Ðàn Ba la mật : Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lià tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo Ðáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình Ðẳng như hư không mà bố thí.  Ðây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Ðàn Ba la mật . Tám pháp ly nầy gọi là tịnh thí . Như hư không không có chỗ nào là chẳng Ðến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy . Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy Ðược, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy. Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy . Như hư không  không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy .   Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy . Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí  chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy . Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy . Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy.

Nầy Hư Không Tạng ! Như hóa nhơn cấp thí cho hóa nhơn không có phân biệt, không có hý luận, chẳng cầu quả báo, Bồ Tát hành bố thí bỏ lìa hai bên chẳng phân biệt chẳng hý luận chẳng hi vọng quả báo cũng như vậy. Bồ Tát dùng trí huệ trừ bỏ tất cả kiết sử, dùng trí phương tiện chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Ðây là  Bồ Tát hành Ðàn Ba la mật bình Ðẳng với hư không vậy. 

Trong pháp hội có một Bồ Tát tên là Nhựt Ðăng Thủ từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu  gối hữu chấm Ðất  chấp tay bạch Ðức Phật rằng : '' Bạch Ðức Thế Tôn ! Hàng Bồ Tát nào   có thể hành Ðàn Ba la mật như vậy ? ''. 

-Đức Phật nói : '' Nầy Nhựt Ðăng Thủ ! Nếu Bồ Tát quá các thế gian Ðược pháp xuất thế gian, chẳng phải sắc không có thể không hiện hành, tri kiến thanh tịnh, chẳng phải tối chẳng phải sáng, lìa tất cả tướng Ðến tột vô tướng trí, thành tựu vô tận nhẫn, gần tri kiến của Như Lai, Ðã nối giới phần quyết Ðịnh của BồTát, Ðã Ðược thọ ký, Ðược ấn bất thối chuyển ấn Ðịnh, Ðã Ðược quán Ðảnh chánh vị, Ðã hành thiện hạnh biết hành tướng chúng sanh,Ðến tất cả chỗ mà không có chỗ Ðến. Bồ Tát như vậy có thể hành Ðàn Ba la mật nầy''. 

Lúc Phật nói Pháp ấy, có một vạn tám ngàn Bồ Tát thấy các pháp tánh như hư không Ðược Vô sanh Pháp Nhẫn. 

-Đức Phật nói với Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát : '' Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Thi Ba la mật bình Ðẳng với hư không : Bồ Tát biết thân như tượng trong gương, biết thanh như vang, biết tâm như huyễn ảo, biết các pháp tánh như hư không . Ðây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Thi Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể hộ tịnh giới : 

Các Bồ Tát chẳng quên tâm Bồ Ðề thì hay hộ tịnh giới .Các Bồ tát chẳng cầu bực Thanh Văn,bực Bích Chi Phật thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát trì giới chẳng hạn cuộc nơi giới thì hay hộ tịnh giới .Bồ tát chẳng ỷ cậy các giới thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát chẳng bỏ bổn nguyện thì hay hộ tịnh giới. Bồ tát chẳng y dựa tất cả chổ sanh thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát thành tựu Ðại nguyện thì hay hộ tịnh giới .Bồ Tát khéo nhiếp các căn Ðể diệt phiền não thì hay hộ tịnh giới .Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hay hộ tịnh giới vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không rời lìa các hy vọng,Bồ Tát dùng tâm không có mong cầu hay hộ tịnh giới củng như vậy .như hư không thanh tịnh, Bồ Tát trì giới thanh tịnh củng như vậy.Như hư không không có cấu uế,Bồ Tát trì giới không có cấu uế củng như vậy.Như hư không không có nhiệt não,Bồ Tát trì giới không có nhiệt não cũng như vậy .Như hư không không có cao hạ,Bồ Tát trì giới không cao không hạ cũng như vậy .Như hư không không có ổ hang, Bồ Tát trì giới không có chổ y dựa cũng như vậy .Như hư không vô sanh vô diệt cứu cánh không biến Ðổi, Bồ Tát trì giới vô sanh vô diệt cứu cánh không biến Ðổi cũng như vậy,Như hư không Ðều có thể dung thọ tất cả chúng sanh, Bồ Tát trì giới khắp có thể vận tải củng như vậy .Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà có thể hộ tịnh giới. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như trăng trong nước không có trì giới phá giới,Bồ Tát rõ biết tất cả các pháp như thủy nguyệt không có trì giới phá giới củng như vậy .Ðây là Bồ Tát hành Giới Ba La mật bình Ðẳngvới hư không vậy . Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành nhẩn Ba la mật bình Ðẳng với hư không: 

Nếu Bồ Tát bị người mắng chửi chẳng báo lại vì biết rõ vô ngã, bị người Ðánh chẳng báo lại vì biết rõ không nhơn,bị ngươì giận ghét chẳng báo lại vì lìa thấy có, bị người oán thù chẳng báo lại vì bỏ lìa hai kiến chấp.   Ðây gọi là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Nhẫn Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tự tám pháp thì cò thể tịnh Nhẫn Ba la mật:

 Bồ Tát khéo tịnh nội thuần chí mà tu Nhẫn Ba la mật.  Bồ Tát khéo tịnh ngoại chẳng hy vọng mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát nơi thượng trung hạ cứu cánh vô ngại tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát tùy thuận pháp tánh không bị nhiễm trước mà tu Nhẫn Ba la mật . Bồ Tát lìa tất cả kiến chấp Ðồng hư không mà tu Nhẫn Ba la mật.  Bồ Tát dứt tất cả giác quán Ðồng vô tướng mà tu Nhẫn Ba la mật .  Bồ Tát bỏ tất cả nguyện Ðồng vô nguyện mà tu Nhẫn Ba la mật .  Bồ Tát trừ tất cả các hành Ðồng vô hành mà tu  Nhẫn Ba la mật .  Ðây gọi là Ðại Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh Nhẫn Ba la mật vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có ghét không có thương, Bồ Tát tu  Nhẫn Ba la mật không có ghét thương cũng như vậy . Như hư không không có biến Ðổi, Bồ Tát tâm cứu cánh không biến Ðổi tu Nhẫn Ba la mật cũng như vậy . Như hư không không có kém tổn, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm cứu cánh không có kém tổn cũng như vậy . Như hư không không có sanh không có khởi, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có sanh khởi cũng như vậy . Như hư không không có hí luận, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật tâm không có hí luận cũng như vậy . Như hư không không có ân báo, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật với tất cả chúng sanh chẳng mong quả báo cũng như vậy . Như hư không vô lậu vô hệ phược, Bồ Tát tu Nhẫn Ba la mật lìa tất cả lậu chẳng hệ phược tam giới cũng như vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát lúc hành Nhẫn Ba la mật chẳng có quan niệm họ Ðến mắng tôi tôi có thể nhịn chịu, cũng chẳng thấy người mắng kẻ bị mắng và cách mắng, chẳng quan niệm ấy, chẳng hí luận rằng họ rỗng không tôi cũng rỗng không, cũng chẳng suy nghĩ rằng âm thanh như vang do gì mà phát ra, cũng chẳng quan niệm rằng tôi phải còn họ thì quấy, cũng chẳng quan niệm rằng họ vô thường tôi cũng vô thường, cũng chẳng nghĩ rằng họ ngu  tôi trí, cũng chẳng tưởng rằng chúng ta nên hành nhẫn nhục. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như có người vì cầu nhánh cây sa la nên cầm búa bén vào rừng sa la Ðến một cây sa la lớn chặt lấy một nhánh, các nhánh sa la khác chẳng nghĩ rằng  họ chặt nhánh ấy mà chẳng chặt tôi, nhánh bị chặt cũng chẳng nghĩ rằng tôi Ðã bị chặt các nhánh khác không bị chặt, tất cả nhánh bị chặt cùng chẳng bị chặt Ðếu chẳng có quan niệm ghét thương . Lúc hành Nhẫn Ba la mật, Ðại Bồ Tát quán biết tất cả pháp tánh như cỏ cây tường vách ngói Ðá, mà thị thân thể bị chặt chém Ðứt rời Ðể giáo hóa chúng sanh, không có giận ghét, không có thương yêu, hoàn toàn không có nhớ nghĩ phân biệt . Ðây là Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Tinh tiến Ba la mật  bình Ðẳng với hư không : 

Bồ Tát siêng cầu tất cả pháp lành mà biết tất cả pháp tự tánh chẳng thành tựu, Bồ Tát Ðem tất cả món vật cần dùng tối thắng cung cấp cúng dường chư Phật Thế Tôn nhưng chẳng thấy có Như Lai và các món cúng dường, Bồ Tát  khéo có thể thọ trì diệu pháp Ðược nói của tất cả chư Phật cũng chẳng thấy có văn tự Ðể thọ trì, Bồ Tát có thể thành tựu vô lượng chúng sanh thấy chúng sanh tánh tức là Niết bàn rốt ráo không có sanh không có khởi . Ðây là bốn pháp Bồ Tát thành tựu hành  Tiến Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Nầy Hư Không Tạng ! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể tịnh Tinh Tiến Ba la mật: 

Bồ Tát vì tịnh thân mà phát cần tinh tiến biết thân như bóng trong gương chẳng tham trước nơi thân . Bồ Tát vì tịnh khẩu nên phát cần tinh tiến biết tiếng từ miệng thốt ra như vang chẳng tham trước nơi khẩu. Bồ Tát vì tịnh ý nên phát hành tinh tiến biết ý như ảo huyễn không có phân biệt chẳng tham trước nơi ý . Bồ Tát vì Ðầy Ðủ các Ba la mật nên phát cần tinh tiến biết các pháp không có tự tánh bị nhiếp thuộc nhân duyên chẳng nên hí luận. Bồ Tát vì Ðược trợ Bồ Ðề phần pháp nên phát cần tinh tiến Ðể giác liễu tất cả pháp chơn thiệt  tánh không bị chướng ngại vướng mắc . Bồ Tát vì tịnh Phật quốc Ðộ nên phát cần tinh tiến Ðể biết tất cả quốc Ðộ như hư không vì vậy mà chẳng ỷ thị chỗ Ðược tịnh . Bồ Tát vì Ðược tất cả Ðà la ni nên phát cần tinh tiến biết tất cả pháp không có niệm chẳng phải không có niệm do Ðây mà không  có quan niệm hai tướng . Bồ Tát vì thành tựu tất cả Phật pháp nên phát cần tinh tiến Ðể  biết tất cả pháp nhập nhứt tướng bình Ðẳng nhưng chẳng hoại hư pháp tánh . Ðây là tám pháp Bồ Tát thành tựu thì có thể tịnh Tinh tiến Ba la mật.  

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có mỏi mệt,Bồ Tát trong vô lượng kiếp phátcần tinh tiến không có mỏi mệt cũng như vậy .Như hư không Ðều có thể dung thọtất cả sắctượng mà hư khôngkhông có che chướng .Bồ Tátvì dung thọ tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến bình Ðẳng vô ngại cũng như vậy,Như hư khôngcó thể sanh tất cả cỏ cây lù rừng mà hư không không có trụ xứ.Bồ tát vì tăng ích thiện căn tất cả chúng sanh mà phát cần tinh tiến khgông chỗ dựa dính không có trụ xứ cũng như vậy. Như hư không Ðến tất cả chỗ mà không có Ði Ðến. Bồ Tát vì Ðến tất cả chỗ nên phát cần tinh tiến mà không có Ðến không có không Ðến cũng như vậy.như hư không chẳng phải sắc hình mà trong hư không thấy các sắc hình .Bồ Tát vì nhứt thừa nên phát cần tinh tiến mà vì thành tựu thuần chí nên thị hiện các thừa sai biệt cũng như vậy. Như hư không bổn tánh thanh tịnh không bị khách trần làm ô nhiễm. Bồ Tát phát cần tinh tiến bổn tánh thanh tịnh vì chúng sanh mà hiện thọ thân sanh tử nhưng chẳng bị trần lụy làm ô nhiểm cũng như vậy.Như hư không tánh là thường không có vô thường. Bồ tát cứu cánh vì chẳng dứt mất Tam bửu nên phát cần tinh tiến cũng như vậy .Như hư không vô thỉ vô chung chẳng thủ chẳng xả .Bồ Tát phát cần tinh tiến vô thỉvô chung bất thủ bất xả củng như vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Tinh tiến có hai thứ Ðó là ban Ðầu phát tinh tiến và rốt sau thành tinh tiến .Bồ Tát do ban Ðầu phát cần tinh tiến tu tập thành tất cả pháp lành, do rốt sau thành tinh tiến phân biệt tất cả pháp chẳng có tự tánh, chỉ có căn lành Ðã Ðược tu tập thấy là bình Ðẳng,sở kiến bình Ðẳng cũng chẳng phải bình Ðẳng. 

Nầy hư Không Tạng ! Như người thợ Ðiêu khắc tượng người gỗ có Ðủ thân tướng,sự nghiệp Ðược làm Ðều có thể hoàn thành, nhưng nơi có làm cùng chẳng có làm Ðều chẳng có quan niệm sai biệt. Bồ Tátvì thành tựu trang nghiêm bổn nguyện  mà phát cần tinh tiến tu tất cả nghiệp,nơi làm cùng chẳng làm không quan niện sai biệt,bỏ lìa hai bên củng như vậy .Ðây là Bồ Tát hành Tiến Ba La mật bình Ðẳng như hư không. 

Nầy Hư Không Tạng! Thế nào là Bồ Tát hành ThiềnBa La mật bình Ðẳngnhư hư không?Bồ tát nếu thành tựu bốn pháp thìhành Thiền Ba La mật bình Ðẳng với hư không Bồ Tát chuyên nhiếp nội tâm mà chẳng thấy có nội tâm, Bồ Tát ngăn tâm duyên các cảnh giới ngoàimà chẳng thấy có tâmngoài hành xứ,Bồ Tát do tâm mình bình Ðẳng nên biết tất cả chúng sanh tâm Ðều bình Ðẳng cũng chẳng y dựa hai pháp là tâm và bình Ðẳng, Bồ Tát tư duy pháp giới Ðịnh tánh không có nhiếp thâu không có loạn tán biết tất cả pháp tánh không có hí luận.Thành tựu bốn pháp như vậy,Bồ Tát hành Thiền Ba La mật bình Ðẳng với hư không. 

Nâ`y Hư Không Tạng! nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể tịnh Thiền BaLa mật: 

Bồ Tát chẳng y dựa các ấm Ðể tu thiền,chẳng y dựa các giới Ðể tu thiền,chẳng y dựa các nhập Ðể tu thiền, chẳng y dựa tam giới Ðể tu thiền,chẳng y dựa hiện thế Ðể tu thiền, chẳng y dựa hậu thế Ðể tu thiền,chẳng y dựa Ðạo Ðể tu thiền, chẳng y dựa quả Ðể tu thiền. Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Thiền Ba La mật. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không không có dựa dính. Bồ Tát tu thiền không có y chỉ củng như vậy. Như Hư Không không có ái luyến . Bồ Tát tu thiền không có nhiễm trước cũng như vậy . Như hư không không có dính mắc các kiến chấp . Bồ Tát tu thiền bỏ lìa các kiến chấp củng như vậy . Như hư không không có kiêu mạn . Bồ Tát tu thiền bỏ lìa kiêu mạn cũng như vậy . Như hư không cứu cánh vô diệt . Bồ Tát tu thiền khéo nhập vào pháp tánh cứu cánh bất thối cũng như vậy . Như hư không chẳng thể phá hoại . Bồ Tát tu thiền chẳng hoại bổn tế cũng như vậy . Như hư không không có biến Ðổi . Bồ Tát tu thiền chẳng biến Ðổi như như cũng như vậy . Như hư không chẳng phả tâm rời lìa tâm . Bồ Tát tu thiền rời lìa tâm ý thức cũng như vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát dùng tâm bình Ðẳng tu thiền chẳng phải tâm chẳng bình Ðẳng . 

Thế nào là tâm bình Ðẳng ?  Nếu tâm chẳng cao chẳng hạ, không có cầu không chẳng cầu, không có tác không chẳng tác, không có phân biệt không chẳng phân biệt, không có hành không chẳng hành, khong có thủ không có xả, không tối không sáng, vô tri vô niệm, không chẳng tri không chẳng niệm, chẳng một chẳng khác, chẳng phải hai chẳng phải chẳng hai, không có Ðộng không chẳng Ðộng , không có khứ không chẳng khứ, không có tu không chẳng tu, tâm chẳng duyên nơi tất cả cảnh giới, Ðây gọi là tâm bình Ðẳng .

 Vì Bồ Tát tâm bình Ðẳng nên chẳng duyên lấy sắc bỏ lìa nhãn và sắc hai pháp mà tu tập thiền . Vì tâm bình Ðẳng nên chẳng duyên lấy thanh hương vị xúc và pháp bỏ lìa hai pháp ý và pháp mà tu tập thiền . 

Nầy Hư Khong Tạng ! Như hư không lúc Ðại hỏa tai khởi lên chẳng Ðốt cháy Ðược, lúc Ðại thủy tai khởi lên chẳng Ðẩy trôi Ðược, Bồ Tát chẳng bị lửa lớn phiền não Ðốt cháy, chẳng bị các thiền tam muội cuốn trôi Ði thọ sanh, tự mình không có Ðịnh và loạn mà hay khiến chúng sanh loạn tâm Ðược Ðịnh, sở hành của mình Ðã thanh tịnh mà chẳng bỏ tinh tiến, bình Ðẳng với hư không mà thị hiện sai biệt nhưng chẳng thấy tướng bình Ðẳng và bất bình Ðẳng, khéo hay khắp quán trí huệ chơn tánh tâm Bồ Tát chẳng bị ái kiến phiền não che chướng, ở trong các pháp hành, thật hành không bị dính mắc bình Ðẳng với hư không. Ðây là Bồ Tát hành Thiền Ba la mật bình Ðẳng với hư không vậy. 

Nầy Hư Không Tạng ! Thế nào là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không ? Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không. 

Do vì ngã tịnh nên Bồ Tát biết chúng sanh cũng tịnh, vì trí tịnh nên biết thức cũng tịnh, vì nghĩa tịnh nên biết văn tự cũng tịnh, vì pháp giới tịnh nên biết tất cả pháp cũng  tịnh . Ðây là bốn pháp mà Bồ Tát thành tựu thì hành  Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng như hư  không. 

Nầy Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể tịnh Bát Nhã Ba la mật: 

Bồ Tát tinh cần muốn Ðoạn dứt tất cả pháp bất thiện mà chẳng dính mắc Ðoạn kiến, Bồ Tát tinh cần muốn sanh tất cả pháp lành mà chẳng dính mắc thường kiến, Bồ Tát biết tất cả pháp hữu vi Ðều từ duyên sanh mà chẳng Ðộng nơi vô sanh pháp nhẫn, Bồ Tát phân biệt nói tất cả tự cú mà thường bình Ðẳng không có ngôn thuyết, Bồ Tát khéo biện tất cả pháp hữu vi vô thường khổ vô ngã mà nơi pháp giới tịch tĩnh chẳng Ðộng, hay khéo phân biệt các nghiệp sở tác mà biết tất cả pháp vô nghiệp vô báo, khéo hay phân biệt pháp cấu pháp tịnh mà biết tất cả pháp tánh thường tịnh, khéo hay suy lường tam thế các pháp mà biết các pháp không có quá khứ vị lai hiện tại .  Ðây là Bồ Tát thành tựu tám pháp hay tịnh Bát Nhã Ba la mật. 

Nầy Hư Không Tạng ! Như hư không chẳng phải hành chẳng phải không hành, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La mật lìa tất cả hành cũng như vậy.Như hư không không gì phá hoại Ðược cũng như vậy .Như hư không tánh thường tịch tĩnh cũng như vậy. Như hư không không tánh thường vô ng4,Bồ Tát hành Bát Nhã biết rõ vô ngã cũng như vậy .Như hư không tánh chẳng phải chúng sanh,Bồ Tát hành Bát Nhã rời lìa kiến chấp chúng sanh cũng như vậy. Như hư không tánh không có thọ mạng, Bồ Tát hành Bát Nhã lìa thọ mạng kiếncũng như vậy .Như hư không tánh không có nhơn. Bồ Tát hành Bát Nhã lìa nhơn kiến cũng như vậy .Như hư không chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật chẳng Ðặt tên hiệu Ðược,Bồ Tát hành Bát Nhã ri lìa vật chẳng phải vật cũng như vậy. 

Nầy Hư Không Tạng! Bát Nhã là cú nghĩa tịch tĩnh vì không có tri giác vậy.Bát Nhã là cú nghĩa vô tác vì tự tướng thanh tịnh vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô biến vì không có hành tướng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa chơn thiệt vì chẳng phát Ðộng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa chẳng khi dối vì không có sai khác vậy . Bát Nhã là cú nghĩa liễu Ðạt vì nhập vào nhứt tướng vậy. Bát Nhã là cú nghĩa thông minh vì dứt tập khí vậy .Bát Nhã là cú nghĩa Ðầy Ðủ vì không có muốn cầu vậy .Bát Nhã là cú nghĩa thông Ðạt vì hay chánh kiến vậy .Bát Nhã là cú Ðệ nhứt vì vô sở Ðắc vậy. Bát Nhã là cú nghĩa bình Ðẳng vì không có cao không có hạ vậy .Bát Nhã là cú nghĩa  lao cố  vì không gì phá hoại Ðược vậy .Bát Nhã là cú nghĩa bất Ðộng vì không có sở y vậy .Bát Nhã là cú nghĩa kim cương vì không gì xô dẹp Ðược vậy .Bát Nhã là cú nghĩa Ðã Ðộ vì việc làm Ðã xong vậy .Bát Nhã là cú nghĩa chơn tịnhvì bổn tánh tịnh vậy. Bát Nhã là cú nghĩa không tối vì chẳng cậy sáng vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô nhị vì chẳng tích tụ vậy .Bát Nhã là cú nghĩa tận vì cứu cánh tận tướng vậy .Bát Nhã là cú nhgĩa vô tận vì tướng vô vi vậy .Bát Nhã là cú nghĩa vô vi vì rời lìa sanh diệt vậy . Bát Nhã là cú nghĩa hư không vì không có chướng ngại vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô sở hữu vì chơn thiệt thanh tịnh vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô xứ vì không có hành tích vậy Bát Nhã là cú nghĩa không có ổ hang vì không chỗ dựa ỷ vậy. Bát Nhã là cú nghĩa trí vì không có thức phân biệt vậy . Bát Nhã là cú nghĩa không hàng phục vì không có bầy bọn vậy . Bát Nhã là cú nghĩa vô thể vì không có thọ thân hình vậy . Bát Nhã là cú nghĩa tri kiến vì biết khổ chẳng sanh vậy. Bát Nhã là cú nghĩa Ðoạn dứt vì biết tập chẳng hòa hiệp vậy . Bát Nhã là cú nghĩa diệt vì cứu cánh vo sanh vậy . Bát Nhã là cú nghĩa Ðạo vì không có hai giác quán vậy . Bát Nhã là cú nghĩa giác vì giác bình Ðẳng vậy . Bát Nhã là cú nghĩa pháp vì cứu cánh bất kiến vậy . 

Nầy Hư Không Tạng ! Bát Nhã nầy chẳng từ người mà Ðược vì là tri kiến tự chứng như tánh mà hiện hành vậy . Biết văn cú nghĩa như vang, ở nơi ngữ ngôn âm thanh tùy Ðáng nên mà Ðáp ứng biện thuyết chẳng dứt nhưng chẳng nắm dính văn tự ngôn thuyết . Ðại Bồ Tát có thể ở trong tất cả ngôn thuyết khéo có thể báo Ðáp, biết các âm thanh ngôn thuyết như vang vì hiểu là bất khả Ðắc vậy nên chẳng chấp trước cũng chẳng hí luận . Ðây là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật bình Ðẳng với hư không '' 

Muốn sáng tỏ lại nghĩa nầy, Ðúc Thế Tôn nói kệ rằng :

Lìa chấp trước mà làm bố thí

Khắp Ðến vừa theo Ðánh chúng sanh

Thí xong rồi tâm không chướng ngại

Cũng chẳng có sanh lòng phân biệt

Vì ngã tịnh nên thí thanh tịnh

Vì thí tịnh nên nguyện thanh tịnh

Vì nguyện tịnh nên Bồ dề tịnh

Vì Ðạo tịnh nên tất cả tịnh

Không ngã tưởng  không ngã sở tưởng

Rời lìa ái lìa các kiến chấp

Bỏ lìa tất cả tướng bỉ ngã

Tâm bố thí dường  như hư không

Bỏ lìa tất cả tưởng mà thí

Không có tâm mong cầu báo Ðáp

Bỏ lìa tâm tật Ðố kiết sử

Tâm bố thí như hư không kia

Hư không chẳng phải sắc không dựa

Không thọ không tưởng không phân biệt

Cũng không hành cũng không có thức

Lúc bố thí tâm như hư không

Như hư không lợi ích tất cả

Từ thỉ Ðến chung không cùng tận

Hiểu rõ pháp thí vô cùng tận

Lợi ích cho tất cả chúng sanh

Như hoá nhơn thí cho hoá nhơn

Chẳng trông mong sở thí Ðược báo

Người có trí huệ thí cũng vậy

Trọn hẳn chẳng trông mong báo Ðáp

Dùng huệ dứt trừ các kiết sử

Phương tiện lực chẳng bỏ chúng sanh

Chẳng thấy có kiết sử chúng sanh

Bố thí như vậy Ðồng hư không

Biết rõ thân như tượng trong gương

Biết thanh âm như vang ứng tiếng

Biết rõ tâm như ảo như hóa

Pháp tánh vô ngại như hư không

Chẳng bỏ vô thượng Ðại Bồ Ðề

Chảng cầu Thanh Văn  Duyên Giác thừa

Thường kính trọng hộ trì tịnh giới

Của tất cả chư Phật quá khứ

Vì chẳng quên bỏ bổn thệ nguyện

Nên có thể ở trong các loài

Khéo có thể thành tựu bổn nguyện

Nhiếp ý cần hộ trì tịnh giới

Như hư không  không có hi vọng

Không nhiệt não  không có cao hạ

Không trược nhơ cũng không biến Ðổi

Nhười trí trì giới cũng như vậy

Như hư không dung thọ tất cả

Như trăng trong nước chẳng trì giới

Người hộ trì giới phải như vậy

Tịnh giới như hư không thủy nguyệt

Mắng chửi Ðánh Ðập cùng thù giận

Vì sức nhẫn nhục nên chẳng sân

Không thấy có mình  không có người

Do bỏ lìa tưởng có kia Ðây

Nội tâm thuần chí thiện thanh tịnh

Cảnh hành ngoài Ðều cũng thanh tịnh

Do vì thuần chí nên không sân

Tùy thuận pháp như hay nhẫn nhục

Rời lìa các kiến như hư không

Bỏ giác quán cũng lìa niệm tưởng

Không có nguyện  không có hi vọng

Bỏ các hành pháp và sở thủ

Không có ái luyến như hư không

Chẳng cợt Ðùa chẳng hoài oán hận

Không có hí luận không cầu báo

Vô lậu nhẫn nhục là như vậy

Không người nhẫn không người mắng Ðánh

Tiếng người mắnh chửi dường như vang

Là không thiệt cũng là vô thường

Không có những hí luận như vậy

Không nghĩ người ngu ta là trí

Không có sanh mà thị hiện sanh

Cũng vẫn không có phân biệt ấy

Ðây là tu thành vô sanh nhẫn

Như nhánh sa la bị người chặt

Nhánh khác chẳng nghĩ không bị chặt

Thân bị chém Ðứt không phân biệt

Nhẫn nhục nầy tịnh như hư không

Siêng tu không sở y sở trụ

Cúng dường Phật không quan niệm Phật

Thọ trì chánh pháp chẳng trước văn

Ðộ chúng sanh không thấy chúng sanh

Thân nghiệp tịnh cũng tịnh pháp thân

Khẩu nghiệp tịnh không có ngôn thuyết

Tâm nghiệp tịnh không có ý hành

Ðầy Ðủ tất cả Ba la mật

Ðầy Ðủ pháp trợ Bồ Ðề phần

Quốc Ðộ thanh tịnh như hư không

Thành tựu biện tài Ðà la ni

Cầu Ðược các Phật pháp như vậy

Như hư không chẳng mệt chẳng mỏi

Hay sanh trưởng cỏ cây lùm rừng

Ðến khắp mọi nơi không hình sắc

Tinh tiến không mỏi như hư không

Hằng thường thanh tịnh như hư không

Không có thỉ cũng không có chung

Nhười tu tinh tiến cũng như vậy

Không có thỉ không có chung thành

Như người máy do gỗ tạo thành

Tất cả việc làm không phân biệt

Người tu hành không có hai tưởng

Ting tiến như vậy như hư không

Biết xa ma tha trụ nội tâm

Nhiếp thâu tâm duyên cảnh giới ngoài

Tâm của mình và tâm của người

Ðây là y chỉ vô tâm thiền

Các pháp tánh thường không lặng vắng

Dùng vô lậu trí biết rõ Ðược

Chẳng dựa ngũ ấm lục nhập giới

Cũng chẳng y chỉ trong ba cõi

Chẳng y chỉ quá vị hiện tại

Chẳng y chỉ Ðạo hành quả chứng

Như hư không kia thường vô  y

Người tu thiền nầy cũng vô  y

Hư không chẳng có ái kiến mạn

Người tu thiền cũng không phiền não

Hư không chẳng thối chẳng hư biến

Người tu thiền cũng giống như vậy

Thường bình Ðẳng không tịch giải thoát

Người trí thường chẳng quan niệm giới

Không kiết sử cũng không có thiền

Vì vậy mà thiền như hư không

Vì ngã tịnh nên chúng sanh tịnh

Vì trí tịnh nên thức cũng tịnh

Vì nghĩa tịnh nên văn tự tịnh

Vì pháp tịnh nên giới cũng tịnh

Dứt pháp bất thiện và tập khí

Bực Ðại  Sĩ tích tập thiện căn

Nên biết hữu vi là duyên sanh

Nhưng chẳng trước vô sanh vô diệt

Khéo có thể phân biệt văn tự

Nói các pháp vô thường và khổ

Nhưng vẫn thị hiện thọ nghiệp báo

Nói có pháp cấu và pháp tịnh

Biết rõ pháp tánh cũng thanh tịnh

Mà suy lường quá vị hiện tại

Hư không không hành không chẳnh hành

Huệ không có hành cũng như vậy

Như hư không chẳng gì phá Ðược

Không có ngã nhơn không thọ mạng

Chẳng phải vật chẳng phải không vật

Bỏ dứt các chấp kiến nhị biên

Biết cú là giả nên chẳng nhiễm

Là bất biến cú chơn thiệt cú

Là mãn túc cú thông Ðạt cú

Liễu Ðạt nhứt nghĩa và huệ cú

Bình Ðẳng bất Ðộng lao cố cú

Kim cương dĩ Ðộ chơn tịnh cú

Thông minh cú tận vô tận cú

Là vô vi vú hư không cú

Không xứ không ổ không thức biệt

Không hàng phục vô thể là trí cú

Không tập không diệt không Ðạo cú

Là pháp là giác trí huệ cú

Như vang kia ứng theo thanh âm

Bồ Tát vô tận biện cũng vậy

Thuyết pháp vô y vô sở Ðắc

Bát Nhã nầy tịnh như hư không. 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy