× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 54 LIV. Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Thứ 54 (9)

Bấy giờ trong núi ấy có một kên kên chúa thấy sư tử vương ngủ liền bắt hai khỉ con để ở chỗ hiểm.

Sư tử vương thức dậy biết liền hướng kên kên chúa nói kệ rằng :

Nay ta thưa cùng chúa kên kên

Cầu mong chí tâm nhận lời tôi

Xin nể mặt tôi tha hai khỉ

Cho tôi khỏi thẹn vì thất tín.

Kên kên chúa nói kệ đáp sư tử vương rằng :

Ta hay du hành bay hư không

Đã qua chỗ người lòng không sợ

Nếu quyết muốn hộ hai khỉ con

Đổi cho ta người phải xả thân.

Sư tử vương đáp :

Nay ta vì hộ hai khỉ con

Xả thân chẳng tiếc như cỏ khô

Nếu ta hộ thân mà nói dối

Sao được gọi là như thuyết hành.

Nói kệ xong, sư tử vương lên gộp cao muốn xả thân mình.

Kên kên chúa liền kêu sư tử vương mà nói kệ rằng :

Nếu vì người khác xả mạng mình

Kẻ ấy liền hưởng vui vô thượng

Nay ta thả hai khỉ con nầy

Mong sư tử vương đừng tự hại.

Này Hải Huệ ! Thuở ấy sư tử vương nay là thân ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, khỉ đực ấy nay là Đại Ca Diếp, khỉ cái ấy nay là Thiện Hộ Tỳ Kheo Ni, hai con khỉ ấy nay là A Nan và La Hầu La, còn kên kên chúa ấy hiện nay là Xá Lợi Phất vậy.

Này Hải Huệ ! Bồ Tát vì hộ kẻ y chỉ mình mà chẳng tiếc thân mạng.

Này Hải Huệ ! Thế nào gọi là đúng như lời mà trụ ?

Bồ Tát nếu nói ta sẽ bố thí, liền thật hành bố thí rộng lớn. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta có thể trì giới, liền giáo hóa tất cả đồng hộ giới như mình. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu nhẫn nhục, liền giáo hóa chúng sanh đồng tu nhẫn nhục. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta siêng tinh tiến tu hành Phật pháp, liền giáo hóa mọi người đồng siêng tinh tiến tu hành Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu thiền định, liền giáo hóa chúng sanh xả trù loạn tâm tu tập thiền định. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu trí huệ, liền phân biệt đúng như pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời nói mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta nên phá hoại tất cả ác pháp, liền tu tập tất cả thiện pháp. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

Này Hải Huệ ! Hay trang nghiêm thì gọi là như thuyết, hay cứu cánh thì gọi là như trụ. Hay phát tâm thì gọi là như thuyết, được chứng quả thì gọi là như trụ. Hay tịnh tâm thì gọi là như thuyết, hay chí tâm thì gọi là như trụ. Hay phát tâm thì gọi là như thuyết, tâm bất thối thì gọi là như trụ. Chí tâm nghe pháp thì gọi là như thuyết, nghe rồi như trụ thì gọi là như trụ. Có thể tịnh khẩu thì gọi là như thuyết, hay tịnh thân thì gọi là như trụ. Mới thọ giới thì gọi là như thuyết, chí tâm hộ trì giới thì gọi là như trụ. Phát Bồ đề tâm thì gọi là như thuyết, hành Bồ Tát đạo gọi là như trụ. Được trụ nhẫn địa thì gọi là như thuyết, trụ bất thối địa thì gọi là như trụ. Được thân một đời thì gọi là như thuyết, được thân hậu biên thì gọi là như trụ. Đến dưới cội Bồ đề thì gọi là như thuyết, được quả Bồ đề thì gọi là như trụ.

Này Hải Huệ ! Đây gọi là Bồ Tát đúng như pháp mà thuyết và đúng như thuyết mà trụ".

Lúc đức Thế Tôn nói pháp này, có năm trăm Bồ Tát được trụ vô sanh nhẫn địa.

Lúc bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát tên Liên Hoa bạch Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Như đức Phật đã nói về như thuyết mà trụ thiệt chẳng thể nghĩ bàn. Như sở trụ của đức Phật tức là như thuyết tức là như trụ".

Đức Phật nói : "Này Liên Hoa ! Ở nơi sự ấy ông có biết rõ được chăng ?".

Liên Hoa Bồ Tát bạch rằng : "Tôi đã rõ, Bạch đức Thế Tôn !".

Đức Phật nói : "Nếu người biết chánh pháp là chơn thiệt thì gọi là như pháp trụ".

Sơn Vương Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Vô sở trụ pháp thì gọi là như pháp trụ. Tại sao vậy ? Vì thấy tất cả pháp không có giác, do vì không có giác nên chẳng thấy một pháp gọi đó là giác, nếu không có một pháp thì làm sao có trụ. Nếu thấy như vậy thì gọi là như pháp trụ".

Phước Đức Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người tùy theo tâm thì chẳng phải như pháp trụ. Nếu có Bồ Tát quán ý như huyễn, gọi là vô trụ. Nếu là vô trụ thì gọi là như pháp trụ".

Nhiên Đăng Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Không có tâm tham thì gọi là như pháp trụ. Thế nào là tham tâm, đó là ở trong các pháp có tổn có ích. Nếu không có tham tâm thì gọi là như pháp trụ".

Nhựt Tử Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát có chỗ trụ trước thì gọi là động. Nếu ở trong các pháp tâm không trụ trước thì gọi là vô động. Nếu là vô động thì gọi là như pháp trụ".

Dũng Kiện Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả thế gian đều tùy tâm hành. Nếu biết tâm hành thì gọi là như pháp trụ".

Lạc Kiến Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói : do vì thọ mà thọ khổ, nếu có thể chẳng thọ thì các thọ dứt diệt, nếu có thể chẳng thủ thì các thủ dứt diệt. Dầu chẳng thọ các thọ mà chẳng bỏ chúng sanh thì gọi là như pháp trụ".

Hương Tượng Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả phàm phu chúng sanh đều có gánh nặng đó là ngũ ấm. Nếu người có thể biết ngũ ấm chơn thiệt, vì phá hoại kiến chấp ngũ ấm mà lìa bỏ gánh nặng, nhưng ở nơi các pháp không có ý tưởng là gánh, đây gọi là như pháp trụ".

Kiên Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát chẳng sanh nơi sanh chẳng diệt nơi diệt cũng lại chẳng thấy tánh sanh diệt thì gọi là như pháp trụ".

Trì Thế Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu đi nơi thế gian thì chẳng phải như pháp trụ. Nếu người chánh trang nghiêm thì gọi là như pháp trụ. Người chánh trang nghiêm thấy tất cả các pháp bình đẳng như hư không".

Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thể chơn thiệt biết thấy Niết bàn thấy pháp là diệt và không có sanh diệt, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì đến Bồ đề mà tu tập trang nghiêm, đây gọi là như pháp trụ".

Quang Vô Ngại Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có hành xứ tức là ma nghiệp chẳng phải như pháp trụ. Nếu không có hành xứ thì phá ma nghiệp, nếu phá ma nghiệp thì gọi là như pháp trụ".

Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu quan niệm rằng tôi sẽ được tịnh pháp, vì tịnh pháp ấy nên siêng tu tinh tiến, tinh tiến như vậy là không tinh tiến, nếu có thể quan sát các pháp bất định, do bất định ấy mà siêng tu tinh tiến, đây gọi là như pháp trụ ".

Bất Khả Tư Duy Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Biết các chúng sanh tất cả tâm tánh chẳng sanh tâm tưởng, gọi là chẳng tư duy được mà tư duy vậy. Nếu có thể ở trong pháp chẳng tư duy ấy mà tư duy thì gọi là như pháp trụ".

Lạc Tịch Tĩnh Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát thanh tịnh các tâm giới thì có thể lìa tất cả hoặc lậu. Nếu có thể xa lìa tất cả lậu thì gọi là chánh hạnh. Nếu chánh hạnh thì gọi là như pháp trụ".

Thương Chủ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu thanh tịnh thiện pháp, phước đức trang nghiêm, trí huệ trang nghiêm, ? quán hai thứ trang nghiêm bình đẳng vô nhị, dùng phước đức bình đẳng quán trí huệ bình đẳng, dùng trí huệ bình đẳng quán phước đức bình đẳng không có sai biệt thì gọi là như pháp trụ".

Duy Ma Cật Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng quan niệm nơi hai thì gọi là như pháp trụ. Nếu ở nơi pháp giới chẳng hoại hư chẳng khác biệt thì gọi là như pháp trụ".

Y Nghĩa Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát y nơi nghĩa chẳng y nơi chữ. Vì chánh nghĩa nên thọ trì đọc tụng tám vạn bốn ngàn pháp tụ không sai sót không động dời thì gọi là như pháp trụ".

Tịnh Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát phát tâm Bồ đề, chí tâm ủng hộ Bồ đề tâm ấy, lúc tu tập Bồ đề biết các pháp tánh. Luận về pháp tánh ấy chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ đây gọi là như pháp trụ".

Tất Cánh Tịnh Ý Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát xa lìa cấu uế như giặt y bỏ dơ bẩn, có thể khiến các phiền não chẳng ô nhiễm tâm mình thì gọi là tất cánh tịnh. Tâm đã tịnh rồi tùy thật hành Bồ đề đều gọi là như pháp trụ".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người thân cận ác tri thức thì chẳng phải như pháp trụ, chẳng tu thánh pháp thì chẳng phải như pháp trụ, nếu gần ác hữu làm nghiệp ma sa vào xứ ma.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu người muốn lìa tất cả ma nghiệp rời hành xứ các ma cùng các ác pháp thì nên gần thiện hữu".

Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay ông thiệt biết ma nghiệp hành chăng ?".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Tôi đã biết, bạch đức Thế Tôn ! ".

Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay ông nên vì vô lượng Bồ Tát đại chúng mà diễn nói".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Luận về ma nghiệp ấy tức là nhãn sắc. Nếu người thấy sắc sanh tâm tham trước đó là ma nghiệp. Như nhãn sắc, nhĩ thanh tỷ hương thiệt vị thân xúc và ý pháp cũng như vậy.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Đàn Ba la mật, với vật chẳng thích đem bố thí, với vật ưa thích thì tiếc lẫn chẳng xả. Với người thương thì cho, với người giận thì chẳng cho. Nếu có phân biệt tài vật và phân biệt kẻ nhận lãnh, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Thi Ba la mật hộ trì cấm giới gần gũi người trì giới khen ngợi thân mình mà chê bai phá giới, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Nhẫn Ba la mật, với kẻ có sức mạnh hơn thì hay nhẫn nhịn, với kẻ kém sức thì chẳng nhịn được, thấy kẻ sức mạnh thì nói năng nhỏ nhẹ khiêm hạ thấy kẻ sức yếu thì lời thô khinh miệt, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu hành Tinh tiến Ba la mật diễn nói Thanh Văn thừa, nói Duyên Giác thừa, nói Bồ Tát thừa, lúc tu tập Bồ đề thì khinh mạn Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa miệng chẳng tuyên nói, thích việc thế sự, chẳng thích cung kính cúng dường Tam bảo những món hoa hương phan lọng kỹ nhạc tôn trọng tán thán, chẳng cầu đa văn, thấy người đa văn chẳng đến thân cận, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu tập Thiền Ba la mật được thiền định chẳng điều phục được tất cả chúng sanh lòng hối nhàm, tham trước thiền lạc quở người thuyết pháp, chẳng thích giảng luận tán thán tịch tĩnh, trách chê Dục giới Sắc giới, thích thân Vô Sắc thọ mạng tột dài, chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe chánh pháp, xa lìa thiện hữu, chẳng biết phương tiện, thọ xả tu xả, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát lúc tu Bát Nhã Ba la mật biết các nhơn quả chẳng dùng tứ nhiếp để nhiếp thủ chúng sanh mà điều phục họ, chẳng biết chúng sanh căn thượng trung hạ, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu thích rảnh rang tịch tĩnh, thích tịch tĩnh rồi thọ vui tịch tĩnh chẳng thích nghe pháp thuyết pháp hỏi điều nghi,do tịch tĩnh nên phiền não chẳng khởi, do chẳng khởi nên chẳng biết mà tưởng là biết, chẳng lìa mà tưởng là lìa, chẳng chứng mà tưởng là chứng, chẳng tu mà tưởng là tu, chẳng được thiệt nghĩa, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu có tu tập đa văn ưa nói thích nói lời vi diệu, lời dịu dàng, lời vui vẻ, nếu vì y phục uống ăn ngọa cụ lợi dưỡng mà thuyết pháp, nếu có người tin hiểu hay chí tâm nghe mà chẳng vì họ nói pháp, nếu có kẻ phóng dật đến cúng dường thì nói pháp cho, người đáng vì nói mà chẳng nói, người chẳng nên vì nói lại nói cho, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát lúc thuyết pháp giấu kín thâm nghĩa, có hàng nhơn thiên đắc tha tâm trí biết nên không vui mà tự nghĩ rằng ta vì Như Lai chơn chánh pháp mà đến nghe pháp chứ chẳng vì thế gian lời nghĩa thiển cận mà đến, người này muốn phá Như Lai chánh pháp chẳng cho tăng trưởng, nếu là người phá hủy Phật chánh pháp chúng ta chẳng thích thấy nghe lời họ nói, các thiện nhơn ấy liền bỏ đi, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát với ác tri thức tưởng là thiện hữu, ác tri thức ấy chẳng dùng tứ nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sanh, chẳng tu đa văn chẳng dạy chúng sanh, chẳng nói pháp xuất thế mà thích nói lời thế tục, chẳng biết pháp chẳng biết thời chẳng biết nghĩa, đây gọi là ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Người ác tri thức chẳng có thể khai thị phân biệt giải thuyết pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp Bồ Tát, pháp Phật, chẳng dạy chúng sanh tu từ bi xa lìa tám nạn tu hành bố thí trì giới nhuyến ngữ thân cận bình đẳng, nhẫn nhịn kẻ vô lực, nói rằng Phật đạo rất là khó được trong vô lượng đời cần khổ mới được, đây gọi là ác hữu ma nghiệp.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát nếu có lòng kiêu mạn, do kiêu mạn nên chẳng có thể cúng dường Phật, Pháp, Tăng, Sư Trưởng, Hòa thượng, cha mẹ, trưởng túc đồng học đồng sư, nếu thấy người hơn mình thì chẳng thể gần kề để nghe pháp hỏi nghe, dầu có nghe mà nghe rồi liền quên mất, thấy kẻ thua mình thì thương mến gần gũi, vì vậy nên ác pháp lần lần tăng trưởng, vì ác pháp tăng nên xa lìa thiện pháp. Bạch đức Thế Tôn ! Ví như đại hải vì lần lần sâu nên tất cả sông rạch trăm dòng đồng chảy vào.

Bồ Tát phá hoại lòng kiêu mạn cũng như vậy, lần lần tăng trưởng tất cả thiện pháp. Nếu chẳng phá hoại kiêu mạn thì gọi là ma nghiệp.

Bạch đức Thế Tôn ! Ví như có người ở nơi cao nguyên lục địa trồng cây chiêm ba, chỗ nước thường chảy lại đắp bờ ngăn, đất trồng cây ấy đã cao khô lại không có nước thấm vào nên cây chiêm ba được trồng ấy lần lần khô vàng chẳng tăng trưởng được.

Cũng vậy, Bồ Tát do kiêu mạn tăng nên chẳng thân thiện hữu chẳng nghe chánh pháp, dầu có nghe lại quên mất.

Còn nữa, bạch đức Thế Tôn ! Bồ Tát sắc thân đoan chánh đầy đủ tự tại có quyến thuộc đông phước đức trang nghiêm, mà chưa được đầy đủ trí huệ trang nghiêm, do cớ ấy mà sanh lòng kiêu mạn, Do vì kiêu mạn nên thấy người có trí huệ hiểu rành chánh pháp mà thân hình gầy xấu thì khi dễ chẳng chịu cúng dường. Do cớ ấy mà càng tăng thêm kiêu mạn vô minh phóng dật chẳng điều phục ma nghiệp, Bồ Tát như vậy là do sắc mà sanh kiêu mạn, đây gọi là ma nghiệp.

Đức Phật nói : "Lành thay, lành thay, Hải Huệ Bồ Tát khéo có thể phân biệt tuyên nói ma nghiệp.

Này Hải Huệ ! Ông nên chí tâm lắng nghe, nay Phật sẽ nói đạo phá hoại ma nghiệp.

Này Hải Huệ ! Tất cả các pháp tánh nó không tịch. Nếu biết tất cả pháp tánh không tịch rồi cũng biết tất cả chúng sanh đều không. Biết không rồi mà tu từ tâm điều phục tự thân. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Nếu quán các pháp tánh là vô tướng mà vì chúng sanh tu tập từ tâm. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Nếu quán các pháp tánh là vô nguyện, vì các chúng sanh chí tâm cầu vào các cõi, đã cầu vào các cõi rồi tùy theo mà điều phục. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Quán tất cả các pháp tánh là vô tham, tánh của chúng sanh cũng là vô tham, vì điều phục tham mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát hay phá ma nghiệp.

Quán tất cả các pháp tánh là vô sân, tánh của chúng sanh cũng là vô sân, vì điều phục sân mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Quán tất cả các pháp tánh là vô si, tánh của chúng sanh cũng là vô si, vì điều phục si mà nhiếp thủ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Quán tất cả các pháp tánh vô sanh diệt, vì phá sanh diệt nên tuyên nói chánh pháp. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Quán tất cả các pháp tánh là bình đẳng, dầu nói ba thừa mà chẳng bỏ Đại thừa. Đây gọi là Bồ Tát phá hoại ma nghiệp.

Nếu chẳng tham trước tâm ý thức, cũng hay xa lìa tất cả nhơn duyên, vì các chúng sanh được giải thoát nên tu trị trang nghiêm. Dầu siêu quá các hành mà trọn chẳng bỏ lìa sở hành của Bồ Tát. Đây gọi là Bồ Tát hay phá ma nghiệp".

Lúc đức Thế Tôn nói pháp ấy, thiên ma Ba Tuần trang nghiêm bốn binh chủng kéo đến đại bửu phường đình như lúc trước chúng kéo đến cây Bồ đề.

Đức Như Lai thấy rồi bảo Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Ông nói ma nghiệp, Phật nói phá ma, vì vậy mà ma vương Ba Tuần trang nghiêm bốn binh chủng kéo đến đây, ông thiết kế gì để chống ngăn họ".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn mang ma vương Ba Tuần cùng tất cả quyến thuộc họ để tại nước Trang Nghiêm, thân tôi sẽ ở chỗ ma ở".

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Nước Trang Nghiêm ấy cách đây bao xa, Phật ấy hiệu là gì ?".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Nước Trang Nghiêm cách đây về phương Đông quá mười hai hằng hà sa thế giới, nước ấy có Phật tại thế hiệu là Phá Nghi Tịnh Quang đang vì chư Bồ Tát nói tịnh Bồ Tát hạnh. Đại thiên thế giới nước Trang Nghiêm ấy có một ức ma vương, mỗi ma vương có mười ngàn ức bốn binh chủng quyến thuộc. Lúc Phật Phá Nghi Tịnh Quang mới đến ngồi Bồ đề thọ, tất cả ma vương ấy đều đồng trang nghiêm bốn binh chủng đến chỗ Bồ Tát ngồi. Bồ Tát trước vì chúng ma giảng tuyên chánh pháp cho họ được trụ bực bất thối chuyển rồi sau mới thành Vô thượng Bồ đề chuyển chánh pháp luân. Các đại đệ tử và các thị giả của đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang đều là ma cả, các ma ấy đều hay giáo hóa điều phục chúng sanh. Vì cớ ấy nên nay tôi muốn đem ma vương Ba Tuần an trí cõi nước Trang Nghiêm để phá sở hành ma nghiệp của nó, cũng để trang nghiêm vô thế giới chánh pháp của Như Lai".

Thiên ma Ba Tuần nghe lời nói trên đây lòng rất kinh sợ ngó bốn phía muốn tìm chỗ rút lui, mà bốn phương đều chướng ngại đi chẳng được, muốn ẩn thân cũng chẳng được, lại càng sợ hãi mới bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Cầu mong đức đại từ cứu hộ cho".

Đức Phật nói : "Này Ba Tuần ! Với sự việc này ta chẳng tự tại được. Ngươi nên hướng về Hải Huệ Bồ Tát mà cầu xin sám hối".

Ma vương Ba Tuần liền hướng về Hải Huệ Bồ Tát chắp tay nói rằng : "Bạch Đại Sĩ ! Từ ngày hôm nay tôi chẳng còn dám làm ma nghiệp như vầy nữa. Cầu mong Đại Sĩ cho tôi sám hối".

Hải Huệ Bồ Tát nói : "Với ông ta trọn không có hờn giận. Pháp của Bồ Tát thường phải nhẫn nhục tất cả chúng sanh.

Này Ba Tuần ! Ông nên qua nước Trang Nghiêm kính lễ đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai, ông sẽ được vô lượng lợi ích".

Hải Huệ Bồ Tát liền lấy tay hữu xoa đảnh ma vương mà nói rằng nếu chư Bồ Tát ở trong các pháp không có xan lẫn thì do thần thông của ta khiến ngươi đến thế giới của đức Phật ấy.

Hải Huệ Bồ Tát nói xong, ma vương Ba Tuần liền đến nước Trang Nghiêm thấy Phật kính lễ rồi đứng ở một phía.

Chư Bồ Tát nước ấy bạch Phật Phá Nghi Tịnh Quang rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Quốc độ nào mà có những người bất tịnh như vậy đến tại đây ?".

Đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang nói : "Các thiện nam tử ! Phương Tây quá mười hai hằng hà sa thế giới, có thế giới tên là Ta Bà, Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Vì vô số vô lượng chư Bồ Tát nói Đại Tập kinh. Nơi ấy có Bồ Tát hiệu là Hải Huệ, lúc Hải Huệ Bồ Tát nói ma nghiệp, ma vương nầy đem bốn binh chủng đến tại đại hội. Hải Huệ Bồ Tát dùng thần thông dời nó đến tại đây".

Chư Bồ Tát ở nước ấy bảo Ba Tuần rằng : "Nay ông nên phát tâm Vô thượng Bồ đề xa lìa ma nghiệp, chúng ta cùng ông sẽ là bạn đồng học.

Nghe lời khuyên bảo ấy, ma vương Ba Tuần liền phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Chư Bồ Tát ấy liền thỉnh Ba Tuần lên ngôi tòa sư tử rồi hỏi rằng nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì đại chúng nói kinh Đại Tập, vậy có sự gì xin ông nói lại cho.

Thừa sức thần thông của Hải Huệ Bồ Tát, Ba Tuần tuyên nói chỗ được nghe không sót mất một câu một chữ".

Chư Bồ Tát bạch đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nguyện muốn được thấy Phật Thích Ca Mâu Ni cùng đại chúng chư đại Bồ Tát ở Ta Bà thế giới".

Đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai nói : "Nên chờ trong chốc lát các ông sẽ được thấy".

Tại pháp hội trong đại bửu phường đình, chư Bồ Tát bạch đức Thích Ca Mâu Ni rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn được thấy ma vương Ba Tuần trong thế giới Trang Nghiêm làm những sự việc gì".

Đức Thế Tôn quan sát tâm chúng sanh ở thế giới nầy cùng ở thế giới kia rồi bảo Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Này Hải Huệ ! Nay ông nên hiển thị thế giới Ta Bà nầy cho chư Bồ Tát cõi Trang Nghiêm kia được thấy".

Từ nơi mười ngón tay mình, Hải Huệ đại Bồ Tát phóng đại quang minh chiếu suốt qua mười hai hằng hà sa Phật thế giới soi sáng khắp cõi Trang Nghiêm. Đại chúng nơi đây đều thấy cõi ấy, thấy Phật Phá Nghi Tịnh Quang, thấy đại chúng chư Bồ Tát, cũng thấy ma vương Ba Tuần ngồi tòa sư tử tuyên nói Đại Tập kinh. Chư Bồ Tát ở đây liền từ chỗ ngồi đứng dậy hướng về cõi Trang Nghiêm đảnh lễ đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai và rải các thứ hoa để cúng dường, những hoa được rải ở cõi Trang Nghiêm kia biến làm hoa đài.

Chư Bồ Tát ở cõi Trang Nghiêm bạch đức Phật Phá Nghi Tịnh Quang rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Hoa đài này từ đâu đến đây ?".

Đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai nói : "Này các thiện nam tử ! Nay các ông nên kính lễ quang minh ấy và chí tâm niệm trì thì tự mình sẽ được thấy thế giới Ta Bà của Phật Thích Ca Mâu Ni".

Chư Bồ Tát ấy tuân lời Phật kính lễ quang minh và chí tâm niệm trì liền được thấy Ta Bà thế giới. Thấy rồi chư Bồ Tát ấy đứng dậy vói lễ Thích Ca Mâu Ni Phật và rải các hương hoa để cúng dường. Lài thấy cõi Ta Bà đầy nước trong đứng như là đại hải. Những hoa được rải ấy đến trong đại bửu phường đình biến thành bửu cái che trên đỉnh Phật Thích Ca Mâu Ni.

Bấy giờ ma vương Ba Tuần bạch đức Phá Nghi Tịnh Quang Như Lai rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn trở về Ta Bà thế giới thì phải làm thế nào ?".

Đức Phá Nghi Tịnh Quang nói : "Nầy thiện nam tử ! Nếu muốn trở về ông phải chí tâm niệm Hải Huệ Bồ Tát".

Ma vương Ba Tuần nghe lời Phật liền chí tâm niệm Hải Huệ Bồ Tát, niệm rồi liền về đến pháp hội đại bửu phường đình".

Tôn giả Xá Lợi Phất thấy ma vương Ba Tuần liền hỏi rằng : "Nầy Ba Tuần ! Ông có thấy Phật thế giới Trang Nghiêm chăng ?".

Ma vương Ba Tuần nói : "Tôn giả Xá Lợi Phất ! Tôi đã thấy, cũng thấy chỗ ở của các Bồ Tát thanh tịnh nơi cõi ấy".

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : "Ông ở cõi ấy có làm ma nghiệp chăng ?".

Ma vương Ba Tuần nói : "Thưa đại đức ! Tôi đến cõi ấy chí tâm cần cầu Vô thượng Bồ đề, có cớ gì mà làm ma nghiệp. Nếu có người lúc chí tâm cầu Bồ đề mà thấy ma nghiệp, người nầy liền được siêng tu tinh tiến".

Lúc thấy ma vương Ba Tuần trở về cõi nầy, có sáu vạn chúng sanh và mười ngàn chúng ma đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh nói rằng : "Nguyện cho chúng tôi thọ lấy thân hình đồng như thân hình của Bồ Tát ở cõi nước Trang Nghiêm".

Hải Huệ Bồ Tát bạch đức Phật rằng : "Vì Vô thượng Bồ đề có nhiều oán địch. Lành thay đức Thế Tôn vì hộ pháp mà kiến lập thần thông. Do sức thần thông mà kinh nầy được còn lâu ở thế gian".

Đức Phật nói : "Này Hải Huệ ! Nay Phật lập thiện nguyện thần thông để trồng các căn lành cho các chúng sanh".

Đức Thế Tôn bảo bốn vị Thiên Vương : "Các Thiên Vương nên biết nếu hàng đệ tử của Phật, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, các Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì đọc tụng thơ tả rộng nói những kinh điển Đại thừa như vậy. Tứ Thiên Vương các ông nên hộ trợ kỹ chớ vì dục lạc mà phóng dật. Nay Phật xuất thí vì phá phóng dật hộ trì chánh pháp mà nói chú rằng :

Tam mễ, tam ma tam mễ, mạt dốn nễ, bà la ba để, đà nễ, đà na bạt để, đầu di đà na bạt để, a bà tán đề, ma ha mễ, tỳ ma xà tỳ la đề, ca la đề, ca la na, a lê, a la bạt để, a mễ bà tán đề, niết già đán ni, a bạt kỳ, mạt đề, ma hô mạt đề, ma la di đề, tỳ thủ đề, tỳ thủ đề bạt kỳ, ni tát mễ mạt hản nê.

Nầy các thiện nam tử ! Đây gọi là Tứ Vương chú. Nếu có Pháp sư nào thọ trì kinh này thì nên tụng chú ấy. Tụng rồi tu từ tâm duyên niệm mười phương, chí tâm nhớ đến Tứ Vương. Bấy giờ Tứ Vương thường hiện ra trong giấc mộng, hoặc tự qua thủ hộ".

Tứ Thiên Vương bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi, Tứ Vương lúc nghe chú nầy rồi liền cùng quyến thuộc đến chỗ Pháp sư ủng hộ thị vệ. Nếu Pháp sư ấy cần món dùng, chúng tôi phương tiện khiến được món ấy, xa lìa bịnh khổ, thân hưởng an lạc".

Đức Thế Tôn bảo Hải Huệ đại Bồ Tát rằng : "Ông nay chí tâm nghe Thiên Đế Thích chú.

Xà gia, xà gia mạt để, a bạt để, tỳ bạt kỳ, ma câu mễ, tư đà bạt kỳ, thâu nê, chiên đế yết mễ, đàn đề đàm ma ni, đa ca mễ, xoa gia xoa gia mục khư, a bạt đế na, sa kỳ, sa kỳ tán đề.

Đến đây Kiều Thi Ca A Tu La bại hoại, chư Thiên thì thắng lợi. Vì chư Thiên thắng lợi nên Phật pháp tăng trưởng. Này Kiều Thi Ca ! Nếu muốn hưởng an lạc thì nên hộ trì chánh pháp.

Này Hải Huệ ! Đây gọi là Thiên Đế Thích chú. Nếu có Pháp sư lúc muốn thuyết pháp nên trước tắm rửa cho thân thể sạch sẽ, cầm hương hoa tốt hướng về phía Đông kính lễ chí tâm nhớ tưởng mười phương chư Phật từ tâm khắp đến tất cả chúng sanh, sau đó mới lên ngồi pháp tòa sư tử tụng chú này mà nói rằng : Kiều Thi Ca đến đây, Tứ Thiên Vương đến đây vì hàng đại chúng mà trừ dẹp chướng ngại tiêu diệt phiền não. Bấy giờ vì nhớ đến Pháp sư nên Thiên Đế Thích và Tứ Thiên Vương đồng đến pháp hội làm cho đại chúng thích nghe thuyết pháp.

Này Hải Huệ ! Nay ông lại lắng nghe chú của chư Thiên Ma mười phương và quyến thuộc của họ.

Xa mễ, sa ma bạt kỳ, xa ma mật đề, a phù mễ, ma la hốt kỳ, mông quật mễ, bà la đề ca do lê, kỳ kỳ bạt kỳ, a lô ca ni, tỳ xá trà ni, ni mạt kỳ, a bạt trì, khu khu mễ già la tát ni, ưu mục xí, xa mật kỳ, ba la mục xí, bàn đàn na niết già hi, xa ma thí.

Này Hải Huệ ! Sức lực của chú này có thể buộc trói tất cả ma chúng tất cả luận sư, đây gọi là Phật ấn, tất cả oán địch ma quyến thuộc chẳng thể phá hoại được.

Nếu có Pháp sư thọ trì đọc tụng chú nầy lúc thăng sư tử tòa chuyên niệm chư Phật lòng từ đến tất cả chúng sanh. Tự thân mình thì tưởng là y sư, chánh pháp được nói ra tưởng là pháp dược, người nghe pháp tưởng là bịnh khổ, với Phật Như Lai tưởng là thiện hữu, với chánh pháp tưởng là thường hằng. Nếu có thể được như vậy thì lúc thuyết pháp, chỗ ấy bốn phía cách một do tuần ma chẳng đến được".

Ma Vương Ba Tuần bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu đệ tử Phật có thể đọc tụng thần chú ấy thân họ thanh tịnh tôi sẽ ủng hộ chẳng làm ma nghiệp. Tôi do sức thần thông của Hải Huệ Bồ Tát bỏ hết ma nghiệp. Tùy nơi nào hoặc thành ấp tụ lạc có người nói pháp này, tôi sẽ hóa thân đến nghe lãnh thọ".

Đức Phật nói : "Lành thay lành thay, này Ba Tuần ! Nếu ông có tâm như vậy thời phá hoại ma nghiệp, ông cũng sẽ được các pháp như vậy.

Này Hải Huệ ! Ông lại nên chí tâm nghe Phạm Thiên chú:

Mê đa già mễ, ca lâu na già mễ, vô kinh da già mễ, ưu tỳ xoa già mễ, phật đà già mễ, đàm ma già mễ, tăng già già mễ, tô yết đa tỳ xa gia, ma ha tỳ đàn ni, tỳ thú đề mục xí, ni ba mễ đà gia, ô xà bạt kỳ, ô xà nghiêm di, nại đàn ni, đàm ma ba kỳ tra bạt ni, tát giá kỳ ưu ba bạt kỳ, tỳ thú để, sa chiết đa ưu ba xá di, ô lô ca gia phạm ma, tỳ lô ca gia phạm ma.

Này Hải Huệ ! Nếu người muốn thọ trì đầy đủ Phạm Thiên chú thì nên tu hành phạm hạnh thanh tịnh trì giới đọc tụng chú này để thỉnh mời Phạm Thiên : Này Phạm Thiên ! Ông đến đây ủng hộ đại chúng nầy khiến họ chí tâm thích nghe chánh pháp niệm tưởng Tam bảo chuyển chánh pháp luân hộ trì pháp thành. Nếu có Pháp sư hay điều các căn chí tâm giữ gìn thanh tịnh thân khẩu ý riêng tu giới nhẫn tinh tiến đa văn phát tâm Bồ đề tu tứ vô lượng mà lên ngôi pháp tòa tụng chú này. Khi tụng chú này rồi thì Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đều đến tập họp tại chỗ giảng pháp".

Bấy giờ Phạm Thiên Vương bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Pháp sư đọc tụng chú này, tôi ở Trời Sơ Thiền nghe biết sẽ bỏ thiền định lạc đến chỗ pháp sư thí cho tám pháp : một là thí niệm vì nhớ lấy pháp được nghe vậy, hai là thí huệ vì suy gẫm pháp thậm thâm vậy, ba là thí giải vì phân biệt nghĩa thậm thâm vậy, bốn là thí lạc thuyết vô ngại vì phá tâm nghi vậy, năm là thí từ vô ngại vì hiểu ngữ ngôn tất cả chúng sanh vậy, sáu là thí vô sở úy vì chúng không ai hơn vậy, bảy là thí pháp quang minh vì nói chẳng sai lầm vậy, tám là thí cho thọ ký chẳng lầm vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi cũng có thể rộng tuyên nói pháp thậm thâm nầy".

Đức Phật nói với Hải Huệ đại Bồ Tát : "Sau khi Phật Niết bàn, chư Thiên này sẽ hộ trì chánh pháp Như Lai".

Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Như Lai chánh giác Niết bàn, nếu có người chánh tín thì nên đem pháp này phó chúc cho người ấy khiến pháp Phật còn lâu".

Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu khắp Đại Thiên thế giới hóa thân Như Lai đầy chật trong ánh sáng ấy đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm đầy đủ, hóa thân Như Lai ấy số nhiều như số những cỏ cây thân lóng nhánh lá cả cõi Đại Thiên. Các Hóa Phật ấy đồng xướng lên rằng : "Mười phương chư Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai đồng nguyện chánh pháp còn lâu thế gian. Tại sao vậy ? Dầu có tất cả ác ma quyến thuộc cũng chẳng có thể phá hoại những pháp Đại thừa thậm thâm như vậy được. Đại địa có thể phá hoại được, đại hải có thể đốt cháy được, núi Tu Di có thể đập nát như vi trần được, tâm của các chúng sanh có thể hiệp thành một được, hư không có thể cùng tận được, tứ đại chủng có thể chuyển đổi được, thệ nguyện của chư Phật chẳng thể biến đổi được.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng : "Nầy A Nan ! Ông nên thọ trì kinh điển này đọc tụng giải nói rộng ra".

Hải Huệ đại Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Nay trong pháp hội này có rất đông vô lượng chư đại Bồ Tát, đức Thế Tôn có duyên cớ gì mà chỉ đoái hoài riêng A Nan thọ trì kinh điển này".

Lúc bấy giờ các đại chúng đều có lòng nghi rằng : "Hải Huệ đại Bồ Tát cùng Tôn giả A Nan ai có niệm tâm nhiều".

Đức Thế Tôn biết lòng nghi của đại chúng liền hỏi Tôn giả Đại Ca Diếp : "Này Đại Ca Diếp ! Số lượng chúng sanh trong toàn cõi Đại Thiên có nhiều chăng ?".

Tôn giả Ca Diếp nói : "Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn".

Đức Phật nói : "Này Đại Ca Diếp ! Giả sử tất cả vô lượng chúng sanh ấy đều được thân người thường hỏi Như Lai luôn, Như Lai giải nói không có cùng tận không có chướng ngại.

Này Đại Ca Diếp ! Như trời mưa không bị chướng ngại, tất cả các dòng nước chảy về biển cả, mà đại hải ấy không tăng không giảm. Khả năng thọ trì mười phương Phật pháp của Hải Huệ đại Bồ Tát cũng như vậy.

Này Đại Ca Diếp ! Giả sử tất cả chúng sanh toàn cõi Đại Thiên có đủ sức tổng trì bằng A Nan mà muốn so sánh với chỗ thọ trì của Hải Huệ đại Bồ Tát thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn vạn".

Lúc đức Phật nói pháp ấy, có trăm ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề đem diệu hoa hương dâng cúng Hải Huệ đại Bồ Tát.

Liên Hoa Bồ Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người hay tín thuận thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết nghĩa kinh này và cúng dường cung kính kinh điển này thì được bao nhiêu phước đức ?".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

Nếu đầy cả Đại Thiên thế giới

Bảy báu cúng dường mười phương Phật

Chẳng bằng tin thuận kinh điển này

Thọ trì đọc tụng phước hơn kia

Bốn pháp làm thành công đức

Phật nói số vô lượng vô biên

Phát tâm Bồ đề thường pháp thí

Như pháp trụ tu tập đại bi

Phật nói bốn pháp vô biên lượng

Người trí nghe xong chẳng kinh sợ

Hư không tánh và chúng sanh giới

Phật chánh trí và Bồ đề tâm.

Lúc đức Phật nói khối pháp bửu như vậy, chư Bồ Tát từ mười phương đến đem diệu lạc hương hoa các thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật, tôn trọng tán thán đồng nói rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người hay thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết kinh điển này thì được công đức chẳng cân lường được, mười phương chư Phật nói cũng chẳng hết. Tại sao vậy ? Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chúng sanh nghe được kinh này thì không ai chẳng phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì vậy mà kinh này gọi là khối đại bửu".

Đức Phật nói kinh này rồi, tất cả đại chúng Người Trời, tất cả hàng Thanh Văn và Tôn giả A Nan, Thiên Long Bát Bộ và người thế gian đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

 

PHÁP HỘI HẢI HUỆ BỒ TÁT

THỨ NĂM MƯƠI BỐN

HẾT


Xem dưới dạng văn bản thuần túy