Bấy giờ trong đại
chúng có một vị Bồ Tát tên là Công đức Bửu Quang từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ
đức Phật quỳ dài chắp tay cung kính bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai
ở trong đại điển kinh này nói rằng Phật pháp chẳng thể tuyên nói được. Nếu
chẳng nói được thì làm sao có thể hộ trì ?".
Đức Phật nói : "Lành
thay lành thay, nầy Công đức Bửu Quang ! Đúng như vậy đúng như vậy, Như Lai
chánh pháp thiệt chẳng thể tuyên nói được. Đức Như Lai giác ngộ biết rõ pháp
chẳng thể nói được. Chánh pháp như vậy dầu chẳng thể tuyên nói mà có tự cú, vì
có tự cú nên có thể tuyên nói được. Tự cú như vậy mà thọ trì đọc tụng biên chép
giải nói thì gọi là hộ pháp.
Này Công đức Bửu Quang
! Còn có hộ pháp là thấy có người thọ trì đọc tụng biên chép giải nói tự cú như
vậy thì cúng dường cung kính thân cận lễ bái tôn trọng tán thán sanh ý tưởng là
thầy, rồi ủng hộ cung cấp những y phục, uống ăn, thuốc men, giường ghế, phòng
nhà, đèn đuốc. Nghe người ấy nói pháp thì khen rằng thiện tai, thủ hộ nhà phòng
của dòng họ người ấy ở, cũng thủ hộ những người hầu cận giúp việc, nghe điều xấu
dở thì ẩn che, nghe điều tốt thì tán dương. Nếu có thể ủng hộ người thọ trì
chánh pháp như vậy, thì người nầy có thể ủng hộ Phật Pháp Tăng.
Còn nữa, nầy thiện nam
tử ! Nếu có thể tu không vô tướng vô nguyện, người này tức là ủng hộ chánh
pháp.
Còn nữa, nầy thiện nam
tử ! Thấy có kẻ chê báng kinh điển Đại thừa thì chẳng cùng ở với người ấy, cũng
chẳng cùng ngôn ngữ đàm luận để điều phục tội của kẻ ấy. Người nầy tức là hộ
trì chánh pháp.
Còn nữa, nầy thiện nam
tử ! Nếu có người hay tu tập bi tâm không có ý tưởng đến lợi dưỡng uống ăn,
thương mến chúng sanh vì họ mà tuyên nói chánh pháp, đây gọi là người hộ
pháp.
Còn nữa, nầy thiện nam
tử ! Nếu có thể chẳng tiếc thân mạng mà thọ trì đọc tụng biên chép giải nói các
kinh điển Đại thừa như vậy, đây gọi là người hộ pháp.
Còn nữa nầy thiện nam
tử ! Nếu nghe chánh pháp một chữ một câu mà đi một do tuần nhẫn đến bảy bước
trong khoảng thời gian thở ra hít vào, đây gọi là hộ pháp.
Nầy Công Đức Bửu Vương
! Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có đức Phật hiệu là Trí Thanh Lực Như Lai ,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên Tịnh Quang, kiếp
tên Cao Hiển. Thế giới Tịnh Quang ấy thuần là thanh lưu ly bửu. Tất cả chúng Bồ
Tát đều thành tựu vô lượng thí lực, có đủ thần thông trí huệ vô ngại. Tất cả Bồ
Tát đều thọ thân trời đều chí tâm nghe đức Phật Đại Trí Thanh Lực thuyết pháp
không có xuất gia cùng tại gia sai biệt. Bấy giờ Thế Tôn ấy vì cớ hộ pháp nên
ban tuyên chánh pháp cho các đại chúng.
Trong pháp hội có một
vị Bồ Tát hiệu là Pháp Huệ bạch đức Phật ấy rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Những gì
là pháp mà nói ủng hộ ?".
Đức Đại Trí Thanh Lực
Như Lai nói : "Nầy Pháp Huệ ! Luận về lục nhập nó thích tìm cầu cảnh giới, nếu
có thể ngăn chỉ được thì gọi là hộ pháp. Nhãn thức ở nơi sắc gọi là phi pháp,
nếu có thể xa lìa sắc thì gọi là hộ pháp. Nhẫn đến ý thức ở nơi pháp cũng như
vậy.
Nầy Pháp Huệ ! Nếu
thấy nhãn rỗng không, thấy rồi chẳng nhìn xem nơi sắc chẳng trụ trước nơi thức
đây gọi là pháp, nếu chơn thiệt biết rõ pháp như vậy thì gọi là hộ pháp. Nhẫn
đến với ý pháp và thức cũng như vậy.
Nầy Pháp Huệ ! Nếu
pháp hay sanh trong pháp ấy chẳng cầu chẳng thấy lòng chẳng tham trước, đây gọi
là hộ pháp. Nếu có thấy pháp hay sanh tà kiến, ở trong kiến ấy chẳng cầu chẳng
lấy lòng chẳng tham trước, đây gọi là hộ pháp. Nếu có vô minh chẳng thể tịnh
tâm, ở trong cấu trược ấy chẳng cầu chẳng lấy lòng chẳng tham trước, đây gọi là
hộ pháp.
Nầy Pháp Huệ ! Nếu có
một pháp sau khi đã cầu lấy rồi mà chẳng thể ban thí cho người thì pháp ấy là
phi pháp cũng là phi tỳ ni. Còn có thể ban thí cho người tức là chánh pháp tức
là tỳ ni. Nếu có người không cầu không thủ không thí tức là chánh pháp tức là
tỳ ni. Luận về có cầu thủ ấy tức là phi đạo, nếu chẳng ban thí ấy tức là phi
pháp tức là phi tỳ ni. Nếu có thể ban thí tức là chánh pháp tức là tỳ
ni.
Chẳng thủ chẳng cầu
chẳng thí tức là bất xuất bất sanh bất diệt, nếu chẳng phải xuất sanh và diệt
thì thế nào có thể thí được. Chẳng thể thí được ấy mới gọi là pháp là tỳ ni.
Tại sao, vì chưa sanh phiền não làm nhơn duyên chướng ngại, vì vậy mà vô tận, vô
tận ấy là vô xuất, vô xuất ấy gọi là pháp gọi là tỳ ni. Nơi pháp như vậy chẳng
cầu chẳng thủ thì gọi là hộ pháp.
Lúc đức Phật Đại Trí
Thanh Lực vì Pháp Huệ đại Bồ Tát nói pháp ấy có ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô
sanh pháp nhẫn".
Hải Huệ đại Bồ Tát
bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Như tôi hiểu nghĩa của đức Thế Tôn nói thì pháp
và phi pháp đây gọi là pháp. Tại sao, vì nếu phân biệt pháp và phi pháp ấy,
người nầy chẳng gọi là hộ trì chánh pháp. Nếu thấy có pháp tướng thì gọi là phi
pháp.
Bạch đức Thế Tôn !
Nếu có thể liễu đạt thấy tất cả pháp là không có pháp thì gọi là nghĩa đệ nhứt
chơn thiệt.
Bạch đức Thế Tôn !
Nếu không có pháp không có phi pháp tức là vô số, nếu vô số ấy tức là thiệt
tánh. Thiệt tánh ấy gọi là hư không. Tánh hư không vô biên vô tế, tánh của tất
cả các pháp cũng vô biên vô tế. Pháp tánh cùng thiệt tánh không có sai biệt,
tại sao, vì là vô biên vô tế vậy. Nếu Bồ Tát biết thấy bình đẳng như vậy tức là
thấy chơn thiệt.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi
không thấy có một pháp, do vì chẳng thấy có pháp nên chẳng thấy có tăng chẳng
thấy có giảm.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi
thấy như vậy phải chăng là chẳng phỉ báng lời nói của đức Như Lai là thiệt thấy
chăng".
Đức Phật nói : "Nầy
Hải Huệ ! Thấy như vậy chẳng phỉ báng Như Lai, là chơn thiệt thấy".
Lúc nói pháp ấy, Hải
Huệ đại Bồ Tát và một vạn trời người được Vô sanh pháp nhẫn.
Đức Phật lại bảo Hải
Huệ đại Bồ Tát rằng : "Nầy thiện nam tử ! Ông có biết thuở đức Phật Đại Trí
Thanh Lực Như Lai, đại Bồ Tát Pháp Huệ ấy là ai chăng ? Chính là tiền thân của
ta, Thích Ca Mâu Ni Phật nay vậy. Vì thế nên nay ta đem chánh pháp được cầu
trong vô lượng đời giao phó cho ông".
Bấy giờ trong chúng có
sáu vạn ức chư Bồ Tát đồng phát thanh bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn !
Chúng tôi sẽ cùng ủng hộ chánh pháp thọ trì và rộng tuyên nói".
Đức Phật bảo chư Bồ
Tát : "Chư thiện nam tử ! Nay các ông như pháp trụ thế nào để hộ trì chánh pháp
?".
Sơn Vương Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Tiếc thân mạng thì chẳng thể hộ pháp được. Tôi chẳng
tiếc thân mạng như pháp mà trụ nên tôi có thể hộ trì chánh pháp".
Công Đức Sơn Vương Bồ
Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người tham lợi thì chẳng thể hộ pháp. Tôi
không tham lợi nên có thể hộ pháp".
Bửu Tràng Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu thấy có hai tướng pháp và phi pháp thì chẳng thể
hộ pháp. Tôi không có hai tướng nên có thể hộ pháp được".
Phước Đức Tạng Bồ Tát
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn ! Người có phiền não thì chẳng thể hộ pháp. Tôi có
trí lực đã xa lìa phiền não nên có thể hộ pháp được".
Trì Cự Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chẳng phá tối thì chẳng thể hộ pháp. Nay tôi
phá tối nên có thể hộ pháp được".
Điện Quang Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu tùy theo tâm người thì chẳng thể hộ pháp. Tôi
tùy theo ý mình nên có thể hộ pháp được".
Biến Tạng Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chẳng điều các căn thì chẳng thể hộ pháp? Nay
tôi điều phục nên có thể hộ được pháp".
Tịnh Quang Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu thấy các pháp có các thứ tướng dạng thì chẳng thể
hộ pháp. Nay tôi ở nơi các pháp không có các tướng nên có thể hộ pháp
được".
Tăng Hành Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người tâm loạn động thì chẳng thể hộ pháp. Tôi tu
tam muội nên có thể hộ pháp được".
Thương Chủ Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chẳng biết đạo thì chẳng thể hộ pháp. Nay tôi
biết rõ nên có thể hộ pháp được".
Thiện Niệm Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người có lòng nghi thì chẳng thể hộ pháp. Tôi đã
đoạn nghi nên có thể hộ pháp được ".
Thiện Kiến Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chẳng như pháp trụ thì chẳng thể hộ pháp. Nay
tôi như pháp trụ nên có thể hộ pháp được".
Huệ Quang Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người ngu si chẳng thể hộ pháp. Nay tôi tu trí nên
có thể hộ pháp được".
Bình Đẳng Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chấp lấy tướng oán và thân thì chẳng thể hộ
pháp. Nay tôi bình đẳng nên có thể hộ pháp được".
Pháp Hành Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng biết chúng sanh các căn cảnh giới thì chẳng thể
hộ pháp. Nay tôi biết rõ đó nên có thể hộ pháp được".
Thần Thông Vương Bồ
Tát bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người thấy ngã và ngã sở thì chẳng thể hộ
pháp. Nay tôi chẳng thấy đó nên có thể hộ pháp được".
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Người chẳng biết Phật tánh thì chẳng thể hộ pháp.
Nay tôi biết đó nên có thể hộ pháp được".
Di Lặc Bồ Tát bạch
rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu xa Bồ đề thì chẳng thể hộ pháp. Nay tôi đã gần
Bồ đề nên tôi có thể hộ pháp được".
Công Đức Tụ Bồ Tát
bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Nếu không có vô lượng công đức tụ thì chẳng thể
hộ pháp. Nay tôi đã có nên có thể hộ pháp được".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Các lời thưa bạch ấy đều là lời lầm cả. Tại
sao, vì đức Như Lai Thế Tôn ngồi dưới cội cây Bồ đề đạo tràng chẳng được một
pháp, sao các Ngài nói rằng tôi sẽ hộ pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi
ở nơi các pháp chẳng thủ chẳng xả. Vì các chúng sanh mà tôi tu tập bi tâm chẳng
hộ chẳng xả".
Đức Phật khen Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi rằng : "Lành thay, lành thay, này Văn Thù Sư Lợi ! Lúc đức Như
Lai ngồi đạo tràng dưới cội Bồ đề thiệt không có được. Vì không có được bèn từ
trong ấy mà đứng dậy".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Đức Như Lai chơn thiệt ngồi đạo tràng dưới cội
Bồ đề ư ! Cớ sao lại nói từ chỗ ngồi đứng dậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu
đức Như Lai ngồi dưới cội Bồ đề thì Như Lai có hai tướng, đó là Như Lai và cây
Bồ đề. Nhưng đức Như Lai Thế Tôn đã lìa hai tướng".
Đức Phật nói : "Này
Văn Thù Sư Lợi ! Bồ đề cùng chúng sanh và tất cả các pháp, tánh bình đẳng không
sai biệt, là một vị một tánh. Như Lai lúc ngồi dưới cây Bồ đề thấy pháp bình
đẳng như vậy, vì thế nên gọi là đến được Bồ đề. Phật trọn chẳng thấy rời ngoài
Bồ đề có một pháp khác. Phật thấy tất cả các pháp thảy đều bình đẳng. Mà bình
đẳng ấy chẳng vào số lượng, vì thế nên bình đẳng gọi là vô ngại. Do nhơn duyên
nầy mà Như Lai có tên là Nhứt Thiết Vô Ngại.
Nầy Văn Thù Sư Lợi !
Nếu ai có thể thấy Như Lai như vậy thì người ấy tức là được Như Lai giải thoát.
Được giải thoát rồi thì có thể chơn thiệt biết thấy như vậy".
Lúc nói pháp ấy, chư
Bồ Tát quyến thuộc của Hải Huệ Bồ Tát vui mừng hớn hở đồng nói rằng : "Chúng tôi
hôm nay được lợi ích lớn, hiện tiền thấy đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai và Văn Thù
Sư Lợi đại Bồ Tát.
Bạch đức Thế Tôn !
Tùy nơi nào mà có kinh điển này nên biết rằng quốc độ ấy được lợi ích lớn. Nếu
có người cúng dường kinh điển nầy và người thọ trì đọc tụng biên chép rộng giải
nói nghĩa kinh cũng được lợi ích lớn".
Đức Phật bảo chư Bồ
Tát rằng : "Nay các ông biết được những lợi ích gì ?".
Chư Bồ Tát bạch rằng :
"Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi sẽ đem nghĩa ấy hỏi nơi Bồ Tát Văn Thù Sư
Lợi".
Chư Bồ Tát hỏi Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát rằng : "Bạch Đại Sĩ ! Thế nào gọi là được lợi ích lớn
?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
nói với chư Bồ Tát : "Chư thiện nam tử ! Có mười lợi ích. Đó là Phật xuất thế
được thấy, thấy rồi sanh lòng tin, tin rồi nghe thọ chánh pháp, nghe chánh pháp
rồi phá hẳn lòng nghi, phá lòng nghi rồi được thanh tịnh mạng, được tịnh mạng
rồi chẳng vì lợi mà thuyết pháp, người nghe pháp rồi phát tâm Bồ đề, đã phát tâm
rồi vững chắc chẳng thối chuyển, tâm chẳng thối rồi như pháp mà trụ, như pháp
trụ rồi được Vô sanh nhẫn.
Chư thiện nam tử ! Đó gọi là
mười lợi ích chẳng thể nghĩ bàn".
Lúc nói pháp ấy có ba vạn sáu
ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách
phát kim sắc quang.
Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng :
"Bạch đức Thế Tôn ! Đại thừa kinh nầy có thể làm lợi ích nhiều cho vô lượng
chúng sanh. Tại sao, vì do nhơn duyên Đại thừa nên tất cả chúng sanh được vui
Nhơn Thiên và vui Niết bàn.
Bạch đức Thế Tôn ! Luận về
Đại thừa ấy, pháp gì nhiếp thủ, pháp gì lợi ích, pháp gì khó được, pháp gì
chướng ngại, do nhơn duyên gì mà gọi là Đại thừa ?".
Đức Phật nói : "Nầy Hải Huệ !
Có một pháp nhiếp thủ Đại thừa đó là sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đã phát tâm
rồi tu bất phóng dật. Còn có một pháp đó là tin rõ nhơn quả. Còn có một pháp
đó là quán mười hai nhơn duyên. Còn có một pháp đó là ở nơi chúng sanh tâm
thường bình đẳng thích tu đại từ. Còn có một pháp đó là chẳng thối thất tâm Bồ
đề. Còn có một pháp đó là niệm Phật. Còn có một pháp đó là như pháp trụ rồi
niệm Chánh pháp. Còn có một pháp đó là dùng tâm bất thối niệm chúng Tăng. Còn
có một pháp đó là chẳng mất đạo tâm niệm tịnh cấm giới. Còn có một pháp đó là
xa lìa phiền não tâm niệm nơi xả. Còn có một pháp đó là muốn được thân vô lượng
tịch tĩnh nên niệm chư Thiên. Còn có một pháp đó là niệm muốn an ổn tất cả chúng
sanh. Còn có một pháp đó là siêng tu tinh tiến. Còn có một pháp đó là muốn cho
chúng sanh đều được giải thoát được giải thoát rồi thọ hỷ lạc. Còn có một pháp
đó là thích cầu chánh pháp. Còn có một pháp đó là xa lìa tâm tham vì chúng mà
thuyết pháp. Còn có một pháp đó là nơi người thính pháp sanh lòng mến nhớ. Còn
có một pháp đó là với người thuyết pháp thích dâng cúng dường. Còn có một pháp
đó là với trong chánh pháp sanh ý tưởng là dược thọ. Còn có một pháp đó là với
tự thân mình sanh ý tưởng là thầy thuốc. Còn có một pháp đó là chí tâm chuyên
niệm hộ trì chánh pháp. Còn có một pháp đó là nối thạnh dòng thánh chẳng để
đoạn tuyệt. Còn có một pháp đó là xa lìa giải đãi. Còn có một pháp đó là tri
túc. Còn có một pháp đó là với tất cả của cải không có lòng xan
tham.
Còn có một pháp đó là tự trì
giới rồi có thể khuyến hóa người phạm giới. Còn có một pháp đó là tự tu nhẫn
nhục rồi có thể khuyến hóa chúng sanh khiến họ lìa tâm sân. Còn có một pháp đó
là được chút ít lợi ích sanh ý tưởng ơn lớn. Còn có một pháp đó là được ơn ít
mà có ý tưởng đền đáp lớn. Còn có một pháp đó là tự trì tịnh giới chẳng khi
người phạm giới. Còn có một pháp đó là phá kiêu mạn. Còn có một pháp đó là chí
tâm tìm cầu người thính pháp. Còn có một pháp đó là lìa ác tri thức. Còn có
một pháp đó là chí tâm tu thiện. Còn có một pháp đó là chẳng tùy theo ý người.
Còn có một pháp đó là điều phục các căn. Còn có một pháp đó là với Pháp sư
tưởng như là đức Như Lai. Còn có một pháp đó là chẳng tiếc thân mạng hộ trì
chánh pháp. Còn có một pháp đó là vì điều phục chúng sanh mà thọ khổ chẳng hối
hận. Còn có một pháp đó là Phật còn tại thế hay sau khi diệt độ, sự cúng dường
tháp Phật, tượng Phật vv đồng không sai khác. Còn có một pháp đó là chúng sanh
chẳng mời thỉnh mà thích làm thiện hữu. Còn có một pháp đó là với những vật tốt
không có lòng tham trước. Còn có một pháp đó là thích niệm xuất gia. Còn có
một pháp đó là thích xưng tụng việc lành của người. Còn có một pháp đó là thích
cầu trang nghiêm pháp Bồ đề. Còn có một pháp đó là với người đồng sư đồng học
không có lòng tật đố. Còn có một pháp đó là giáo hóa chúng sanh phát tâm Bồ đề
không có lòng thối hối. Còn có một pháp đó là che giấu lỗi người. Còn có một
pháp đó là cầu tất cả ngữ ngôn. Còn có một pháp đó là cầu tất cả công hạnh.
Còn có một pháp đó là thiệt ngữ. Còn có một pháp đó là sau khi phát lời thì cần
phải làm trọn việc ấy. Còn có một pháp đó là với các pháp lành lòng không nhàm
đủ. Còn có một pháp đó là tùy vật có được đều cùng người đồng hưởng. Còn có
một pháp đó là giỏi biết ma giới. Còn có một pháp đó là phá hoại kiêu mạn tu tập
biết chơn thiệt. Còn có một pháp đó là lòng thích tịch tĩnh. Còn có một pháp đó
là lìa ngã ngã sở. Còn có một pháp đó là chẳng tự khen ngợi mình. Còn có một
pháp đó là tùy thuận thế gian.
Còn có một pháp đó là tu chánh
mạng rồi thích nơi tịch tĩnh. Còn có một pháp đó là trì tịnh giới rồi tư duy
thiện pháp. Còn có một pháp đó là tu đa văn rồi chẳng sanh lòng kiêu mạn. Còn
có một pháp đó là tu thiện hạnh rồi chẳng trụ ở bực ấy. Còn có một pháp đó là
tu không tam muội quán nơi pháp tánh. Còn có một pháp đó là được cúng dường rồi
tâm mình chẳng cao. Còn có một pháp đó là với người ưa nói thế tục thì chẳng
cùng họ đồng ở. Còn có một pháp đó là được vật như pháp rồi thì cùng bạn đồng
học chung dùng. Còn có một pháp đó là chơn thiệt phương tiện. Còn có một pháp
đó là biết tất cả rồi chẳng có ý tưởng tham. Còn có một pháp đó là chưa học khi
đã học rồi lòng chẳng hối. Còn có một pháp đó là đã học biết rồi chẳng sanh
lòng khinh mạn. Còn có một pháp đó là mình bị mắng nhục lòng chẳng giận. Còn
có một pháp đó là được cúng dường hay bị mắng nhục trong lòng bình đẳng không
hai. Còn có một pháp đó là nghe nói chánh pháp khen rằng lành thay. Còn có một
pháp đó là vì muốn có đủ sáu Ba la mật nên thường cầu trang nghiêm. Còn có một
pháp đó là tín tâm bất thối. Còn có một pháp đó là vì cầu đạo Bồ đề mà cầu
trang nghiêm. Còn có một pháp đó là được cúng dường rồi thường thanh tịnh tâm
mình để cho thí chủ được lợi ích lớn. Còn có một pháp đó là đầy đủ thất thánh
tài. Còn có một pháp đó là hay phá sự bần cùng khốn khổ của chúng sanh. Còn có
một pháp đó là dùng thiện phương tiện điều phục chúng sanh. Còn có một pháp đó
là dùng tứ nhiếp thủ để nhiếp thủ chúng sanh. Còn có một pháp đó là chẳng cùng
chúng sanh tranh cãi đùa cợt nhau.
Còn có một pháp đó là lúc nghe
pháp chẳng ở nơi Pháp sư tìm cầu chỗ dở. Còn có một pháp đó là chưa được chứng
quả Sa Môn lòng chẳng sanh hối. Còn có một pháp đó là thường đi trong thế gian
mà chẳng bị tám pháp làm nhiễm ô. Còn có một pháp đó là thường xem xét lỗi
mình. Còn có một pháp đó là với người cử tội mình chẳng sanh lòng hờn giận.
Còn có một pháp đó là thấy pháp thế gian lòng sanh ý tưởng xả ly. Còn có một
pháp đó là với thiện hữu chẳng dối phỉnh. Còn có một pháp đó là trước thanh tịnh
tâm mình rồi dạy cho người tịnh. Còn có một pháp đó là chẳng vì lợi dưỡng mà
trì tịnh giới. Còn có một pháp đó là vì tăng thêm pháp lành mà tu tâm tịch
tĩnh. Còn có một pháp đó là vì pháp lành mà tu tịnh trang nghiêm. Còn có một
pháp đó là vì tịnh công đức mà tu tập trang nghiêm. Còn có một pháp đó là vì
tịnh trí huệ mà tu tập phương tiện vô tưởng tam muội. Còn có một pháp đó là như
pháp mà nhẫn. Còn có một pháp đó là tu ba môn giải thoát. Còn có một pháp đó là
biết thị xứ phi xứ. Còn có một pháp đó là tu xa ma tha vì trang nghiêm tỳ bà xá
na. Còn có một pháp đó là biết rõ giải thoát. Còn có một pháp đó là biết tam
thế bình đẳng. Còn có một pháp đó là chẳng phân biệt tất cả pháp giới. Còn có
một pháp đó là biết rõ tất cả pháp tánh bất sanh bất diệt.
Nầy Hải Huệ ! Đại Bồ Tát quán
sát trăm pháp như vậy, đây gọi là nhiếp thủ Đại thừa.
Lại nấy Hải Huệ ! Còn có hai
pháp lợi ích Đại thừa, một là thích niệm Phật pháp và hai là xa lìa Thanh Văn.
Còn có hai pháp đó là ủng hộ giải thoát và có thể diễn nói pháp Đại thừa. Còn
có hai pháp đó là cầu Bồ đề tâm và điều phục chúng sanh. Còn có hai pháp đó là
xem tâm Bồ đề như tướng ảo huyễn và xem tất cả chúng sanh đều không có ngã. Còn
có hai pháp đó là chẳng bỏ tâm Bồ đề và quán pháp bình đẳng. Còn có hai pháp đó
là thanh tịnh thiện căn và vô tác vô tịnh. Còn có hai pháp đó là vì pháp lành
mà tu trang nghiêm và đến cứu cánh. Còn có hai pháp đó là tự thân cứu cánh và
chúng sanh cứu cánh. Còn có hai pháp đó là nội tịnh và ngoại tịnh. Còn có hai
pháp đó là chẳng phạm tội và phạm rồi sanh lòng hối. Còn có hai pháp đó là hay
bố thí và chẳng cầu báo đáp. Còn có hai pháp đó là bình đẳng bố thí và hồi
hướng Vô thượng Bồ đề. Còn có hai pháp đó là trì giới và chẳng cầu thiện quả.
Còn có hai pháp đó là chẳng tự khen và chẳng chê người. Còn có hai pháp đó là
nhẫn nhục và nói lời hoà dịu. Còn có hai pháp đó là nơi tham thì chẳng tham và
nơi sân thì chẳng sân.
Còn có hai pháp đó là với pháp
lành thì siêng tu tinh tiến và chẳng khinh người giải đãi. Còn có hai pháp đó
là thân tịch tĩnh và tâm tịch tĩnh. Còn có hai pháp đó là cầu thiền chi và điều
phục tâm. Còn có hai pháp đó là thích ở thiền định và chẳng nhàm Dục giới. Còn
có hai pháp đó là cầu pháp và thích pháp. Còn có hai pháp đó là quán pháp và ưa
muốn pháp. Còn có hai pháp đó là thích cầu thiện hữu và cung kính cúng dường.
Còn có hai pháp đó là chí tâm nghe pháp và chí tâm thọ pháp. Còn có hai pháp đó
là luôn thưa hỏi chánh pháp và như pháp trụ. Còn có hai pháp đó là biết pháp và
biết nghĩa. Còn có hai pháp đó là nghe pháp rồi không nhàm và biết pháp rồi
không nhàm. Còn có hai pháp đó là thích lành và lìa ác. Còn có hai pháp đó là
thích nói chánh pháp và với người thọ pháp sanh lòng thương xót. Còn có hai
pháp đó là với pháp không có lòng xan lẫn và lúc nói pháp không có ý tưởng
tham. Còn có hai pháp đó là chí tâm nghe pháp và chí tâm thọ pháp. Còn có hai
pháp đó là lìa ngũ cái và tu thất giác chi. Còn có hai pháp đó là hỷ và lạc.
Còn có hai pháp đó là biết mình và biết giờ. Còn có hai pháp đó là tin quả báo
và tu nghiệp lành. Còn có hai pháp đó là chẳng dứt thánh tánh và thiệt ngữ.
Còn có hai pháp đó là như thuyết mà trụ và chẳng giấu công đức Như Lai. Còn có
hai pháp đó là tịnh thân và xa lìa ba căn bất thiện. Còn có hai pháp đó là quán
thân như cỏ cây và vì tịnh tâm mà tu tập pháp lành. Còn có hai pháp đó là tịnh
khẩu và xa lìa bốn lỗi. Còn có hai pháp đó là quán tất cả pháp đều bất khả
thuyết và quán thanh như vang. Còn có hai pháp đó là tịnh tâm và xa lìa vô minh
tật đố tà kiến.
Còn có hai pháp đó là đó là
nội tịnh và ngoài không có hành xứ. Còn có hai pháp đó là tu từ và xa lìa ý
tưởng oán thân. Còn có hai pháp đó là đó là quán chúng sanh như hư không và tu
từ. Còn có hai pháp đó là chẳng bỏ bi tâm và cầu thiện chẳng hối. Còn có hai
pháp đó là hay điều kẻ chẳng điều và lúc điều chẳng hối. Còn có hai pháp đó là
trì chánh pháp và hộ người trì chánh pháp. Còn có hai pháp đó là thích pháp và
hộ pháp. Còn có hai pháp đó là khen ngợi điều lành của người và ưa giấu lỗi
người. Còn có hai pháp đó là lìa tham và lìa sân. Còn có hai pháp đó là chẳng
bỏ chúng sanh và tu xả. Còn có hai pháp đó là niệm Phật và biết vô niệm xứ.
Còn có hai pháp đó là quán thân vô thường và cầu ba mươi hai tướng. Còn có hai
pháp đó là niệm pháp và giáo hóa chúng sanh khiến họ trụ trong pháp. Còn có hai
pháp đó là quán vô tham xứ và với kẻ tham thì có lòng thương. Còn có hai pháp
đó là niệm Bồ Tát Tăng và y chỉ Tăng bất thối chuyển. Còn có hai pháp đó là
quán không có Tăng và ủng hộ bốn quả Sa Môn.
Còn có hai pháp đó là niệm
giới và biết tâm Bồ đề bất khả thuyết. Còn có hai pháp đó là quán giới vô tác và
thủ hộ người phạm giới. Còn có hai pháp đó là niệm thí và thí rồi không hối.
Còn có hai pháp đó là đó là xa lìa phiền não và vì lìa phiền não nên diễn thuyết
chánh pháp. Còn có hai pháp đó là niệm thiên và thích tịch tĩnh. Còn có hai
pháp đó là có đủ niệm tâm và ủng hộ người loạn tâm. Còn có hai pháp đó là công
đức trang nghiêm và trí huệ trang nghiêm. Còn có hai pháp đó là quán không có
tạo tác và thích tu pháp lành. Còn có hai pháp đó là không có phược và bị phược
thì giải thoát. Còn có hai pháp đó là xa lìa tâm dối phỉnh và chí tâm tu tịnh.
Còn có hai pháp đó là biết ơn và nhớ ơn. Còn có hai pháp đó là nói tất cả lỗi
và xa lìa lỗi. Còn có hai pháp đó là tự tu thánh hạnh và khuyên người tu. Còn
có hai pháp đó là nguyện cầu pháp lành và lòng không nhàm đủ. Còn có hai pháp
đó là xa lìa ác pháp và thân cận thiện pháp. Còn có hai pháp đó là thỉnh Phật
thuyết pháp và chí tâm nghe thọ. Còn có hai pháp đó là biết tất cả pháp bất
sanh bất diệt và diễn nói tự cú nghĩa. Còn có hai pháp đó là biết không có
chúng sanh và đem căn lành của mình cùng chúng sanh chung. Còn có hai pháp đó
là xa lìa các tướng và thâm cầu ba mươi hai tướng. Còn có hai pháp đó là quán
rỗng không và giúp hộ chúng sanh. Còn có hai pháp đó là tu tập vô nguyện và
nguyện đến chúng sanh. Còn có hai pháp đó là tu tất cả thiện và nguyện các chúng
sanh đồng tu thiện căn. Còn có hai pháp đó là trí huệ vô ngại và thọ thân trong
các cõi. Còn có hai pháp đó là bất động và bất hối.
Còn có hai pháp đó là tàm và
quý. Còn có hai pháp đó là thích tịch tĩnh và cầu pháp tịch tĩnh. Còn có hai
pháp đó là tu tập vô tránh tam muội và quán không có chúng sanh. Còn có hai
pháp đó là thiểu dục và tri túc. Còn có hai pháp đó là che giấu tội người và
phát lộ tội mình. Còn có hai pháp đó là quán thập nhị nhơn duyên và tin sâu.
Còn có hai pháp đó là vô ngã và không có chúng sanh. Còn có hai pháp đó là
phòng ngừa phiền não mình và phá phiền não người. Còn có hai pháp đó là quán vô
tác vô thọ và thích tu pháp lành. Còn có hai pháp đó là quán lỗi sanh tử và
chẳng dứt sanh tử. Còn có hai pháp đó là tự thích sanh tử và giáo hóa các chúng
sanh khiến họ thoát khỏi sanh tử. Còn có hai pháp đó là cầu Ba la mật và cầu
chỗ đã không có. Còn có hai pháp đó là cầu biết và dậy người đồng biết như
mình. Còn có hai pháp đó là chẳng cầu cúng dường và vì cúng dường mà tạo tác
nghiệp làm. Còn có hai pháp đó là với chỗ có ơn thường muốn đền đáp và nơi có
ơn và không có ơn bình đẳng báo đáp. Còn có hai pháp đó là tu bất phóng dật và
tu vô duyên từ. Còn có hai pháp đó là thích vào xuất gia và xuất gia rồi lòng
rất yêu thích. Còn có hai pháp đó là tự nên công đức và với người không có công
đức thì sanh lòng thương. Còn có hai pháp đó là tu thân niệm xứ và không có
niệm xứ. Còn có hai pháp đó là tu thọ niệm xứ và không có niệm xứ. Còn có hai
pháp đó là tu tâm niệm xứ và không có niệm xứ. Còn có hai pháp đó là tu pháp
niệm xứ và không có niệm xứ. Còn có hai pháp đó là là xa lìa pháp bất thiện và
thân cận hay sanh thiện pháp. Còn có hai pháp đó là xa lìa ác pháp đã sanh và
hộ trì thiện pháp đã sanh. Còn có hai pháp đó là làm cho thiện pháp chưa sanh
được sanh và vì thêm rộng mà ủng hộ thiện pháp ấy. Còn có hai pháp đó là được
đại thần thông và giáo hóa chúng sanh. Còn có hai pháp đó là an trụ pháp giới
và thấy khắp chư Phật thế giới.
Còn có hai pháp đó là tín tâm
bất động và dạy chúng sanh cũng tin như mình. Còn có hai pháp đó là tịnh tâm và
giáo hóa người tán loạn. Còn có hai pháp đó là siêng tinh tiến và giáo hóa
người giải đãi. Còn có hai pháp đó là đầy đủ trí huệ vô ngại và giáo hóa vô
minh chúng sanh. Còn có hai pháp đó là quán giới và quán duyên. Còn có hai
pháp đó là cầu trí trang nghiêm và tâm ấy chẳng hối. Còn có hai pháp đó là quán
các phiền não và ra khỏi phiền não rồi biết rõ giải thoát. Còn có hai pháp đó
là tất cả pháp giải thoát và phiền não chẳng hiệp tam giới. Còn có hai pháp đó
là trang nghiêm Bồ đề và tu học Bồ đề. Còn có hai pháp đó là tận trí và vô sanh
trí. Còn có hai pháp đó là quán thánh đạo phương tiện và quán sanh tử phương
tiện. Còn có hai pháp đó là cứu cánh đạo và biết thối chuyển đạo.
Còn có hai pháp đó là như pháp
trụ và trong các pháp không có kiến chấp. Còn có hai pháp đó là theo duyên mà
sanh diệt và theo duyên mà giải thoát. Còn có hai pháp đó là biết ma nghiệp và
biết đã lìa. Còn có hai pháp đó là nơi giận có thể nhẫn và nơi nhẫn thì
thương. Còn có hai pháp đó là vì Bồ đề mà tu trang nghiêm và dầu tu trang
nghiêm mà tâm không tham trước. Còn có hai pháp đó là chẳng bỏ phiền não và
chẳng bỏ tu thiện trang nghiêm. Còn có hai pháp đó là biết thị xứ phi xứ và đem
các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Còn có hai pháp đó là quán tâm Bồ đề
như tướng ảo huyễn và tu hướng đến Vô thượng Bồ đề trang nghiêm. Còn có hai
pháp đó là quán các chúng sanh với Bồ đề bình đẳng vô sai biệt và biết các chúng
sanh nhơn nơi Bồ đề mà được giải thoát. Còn có hai pháp đó là biết pháp vô sanh
và vì sanh pháp lành mà tu trang nghiêm. Còn có hai pháp đó là pháp bất khả
thuyết mà có thể tuyên nói và tất cả chúng sanh đều đồng nhứt thừa.
Lại này Hải Huệ ! Còn có ba
pháp có thể lợi ích Đại thừa, đó là sơ phát tâm Bồ đề, thân cận thiện hữu lòng
chẳng sanh hối và tu tập tâm đại bi chẳng thối chuyển. Còn có ba pháp đó là phá
hoại san lẫn, ban cho tất cả và nhiếp thủ Bồ đề. Còn có ba pháp đó là đầy đủ
tịnh giới, điều phục kẻ phá giới và hồi hướng Bồ đề. Còn có ba pháp đó là tâm
không sân hận, điều phục kẻ sân hận và hồi hướng Bồ đề. Còn có ba pháp đó là ở
trong sanh tử lòng không thối hối, vui thích vì người mà gầy dựng sự nghiệp và
hồi hướng Bồ đề. Còn có ba pháp đó là được tam muội định, chẳng sanh kiêu mạn
và hồi hướng Bồ đề. Còn có ba pháp đó là cầu đa văn, được đa văn rồi chẳng sanh
kiêu mạn và hồi hướng Bồ đề. Còn có ba pháp đó là chúng sanh duyên, pháp tánh
duyên và vô duyên. Còn có ba pháp đó là tự bi, bi tha và lìa tự bi tha bi. Còn
có ba pháp đó là vì tư lợi mà tu tập trí huệ, dùng trí huệ chuyển giáo hóa chúng
sanh và tự lợi lợi tha. Còn có ba pháp đó là biết quá khứ đã hết, biết vị lai
vô sanh và biết hiện tại vô trụ. Còn có ba pháp đó là vì người chánh định mà tu
tập từ tâm, vì người tà định mà tu tập bi tâm và vì người bất định mà tu tập
giải thoát. Còn có ba pháp đó là tịnh thân, tịnh khẩu và tịnh ý. Còn có ba
pháp đó là tu bất tịnh quán để phá tham dục, tu từ để phá sân hận và quán mười
hai nhơn duyên để phá vô minh. Còn có ba pháp đó là an, lạc và tri túc. Còn có
ba pháp đó là nghe pháp rồi hay thọ trì, có thể rộng phân biệt văn tự cú nghĩa
và quán sát tội lỗi. Còn có ba pháp đó là đầy đủ thất thánh tài, có thể đại
pháp thí và có thể thí cho chúng sanh. Còn có ba pháp đó là thiệt nghĩa, chơn
nghĩa và bất cuống nghĩa. Còn có ba pháp đó là tự tri, tri tha và tri
thời.
Còn có ba pháp đó là ngũ ấm
với pháp ấm bình đẳng, các giới cùng pháp giới bình đẳng và các nhập cùng pháp
nhập bình đẳng. Còn có ba pháp đó là tu không, vô tướng và vô nguyện. Còn có
ba pháp đó là chẳng phỉ báng nhơn quả, phương tiện sanh pháp đều từ nhơn duyên
và hòa hiệp nhơn duyên mà được có danh tự. Còn có ba pháp đó là tin Phật bất
khả tư nghị, tin Pháp chẳng sanh hủy báng và tin Tăng là phước điền lành tốt.
Còn có ba pháp đó là xa lìa tham dục, xa lìa sân hận và xa lìa ngu si. Còn có
ba pháp đó là thế tục để, đệ nhứt nghĩa để và chẳng trụ trước hai đế. Còn có ba
pháp đó là xa lìa phiền não, xa lìa kiêu mạn và ở chỗ phước điền thì lễ lậy cúng
dường. Còn có ba pháp đó là chẳng nhiễm Dục giới, chẳng trước Sắc giới và nơi
Vô Sắc giới chẳng sanh kiêu mạn. Còn có ba pháp đó là được cúng dường chẳng
mừng, bị hủy nhục chẳng giận và lìa tám pháp thế gian. Còn có ba pháp đó là che
giấu các căn, hiểu rõ các căn và tịch tĩnh các căn. Còn có ba pháp đó là hướng
đến thiện địa, xa lìa chướng thiện địa và quán công đức thiện địa. Còn có ba
pháp đó là chí tâm, tịnh tâm và tịnh trang nghiêm. Còn có ba pháp đó là học
luật nghi giới, học tâm giới và học huệ giới. Còn có ba pháp đó là thọ lạc
chẳng sanh tham dật, thọ khổ chẳng sanh sân não và thọ chẳng lạc chẳng khổ tu
tập nơi xả. Còn có ba pháp đó là chuyển nhơn vì chẳng tạo tác, chuyển phiền não
vì chẳng thấy tướng dạng và chuyển tam thế vì không nguyện cầu.
Còn có ba pháp đó là nhãn rỗng
không, sắc tịch tĩnh và thọ không có chỗ tạo tác. Còn có ba pháp đó là kín
giới, hộ định và quán huệ. Còn có ba pháp đó là nhớ giữ niệm pháp, tư duy quán
pháp và như pháp trụ. Còn có ba pháp đó là âm thanh làm nhơn duyên cho Thanh
Văn giải thoát, mười hai chi làm nhơn duyên cho Duyên Giác giải thoát và lục độ
làm nhơn duyên cho Bồ Tát giải thoát. Còn có ba pháp đó là thí, đại thí và cứu
cánh thí. Còn có ba pháp đó là hộ pháp, hộ người trì pháp và hộ trì Đại thừa.
Còn có ba pháp đó là đi trong sanh tử, xét lỗi sanh tử và biết mình đã xa lìa.
Còn có ba pháp đó là chí tâm nghe pháp phá trừ ngũ cái, thường thích tịch tĩnh
và như pháp trụ. Còn có ba pháp đó là y nghĩa, y pháp và y trí. Còn có ba pháp
đó là cầu đa văn rồi thích nơi tịch tĩnh, thích nơi tịch tĩnh rồi tư duy pháp
lành và thiện tư duy rồi biết pháp bình đẳng. Còn có ba pháp đó là thân cận
người trí, thưa hỏi bực đa văn và hộ trí người lành. Còn có ba pháp đó là không
lòng tham vì người thuyết pháp, thấy người nghe pháp thì từ tâm nhìn họ và nhứt
tâm quán nơi Bồ đề. Còn có ba pháp đó là xem các chúng sanh tâm mình bình đẳng,
quán tâm bình đẳng và quán Phật bình đẳng. Còn có ba pháp đó là quá khứ bất
tận, vị lai bất hiệp và hiện tại bất trụ. Còn có ba pháp đó là đó là quán khổ
vô thường, quán pháp vô ngã và quán Niết bàn tịch tĩnh. Còn có ba pháp đó là
nghe pháp rồi kiên trì, tam muội kiên trì và trí huệ kiên trì. Còn có ba pháp
đó là phạm tội chẳng che dấu, chẳng hối tội trước đã phạm và chí tâm hộ giới.
Còn có ba pháp đó là phá tâm nghi, phá tâm hối và phá tâm chướng ngại. Còn có
ba pháp đó là muốn điều lành, lìa luận đàm thế sự và thích nơi tịch tĩnh. Còn
có ba pháp đó là nhẫn nghĩa thậm thâm, nói nghĩa thậm thâm và hiểu rõ các
nghĩa. Còn có ba pháp đó là đầy đủ thanh nhẫn, đủ tư duy nhẫn và đủ thuận
nhẫn. Còn có ba pháp đó là trí huệ phương tiện, đại từ và tinh tiến vững
chắc.
Này Hải Huệ ! Bồ Tát có đủ
những pháp như vậy thì có thể lợi ích Đại thừa.
Lại nầy Hải Huệ ! Có bốn pháp
chướng ngại Đại thừa.
Những gì là bốn ? Đó
là nghe pháp chẳng nên nghe, chẳng muốn nghe thọ Bồ Tát pháp tạng, hành các
nghiệp ma và phỉ báng chánh pháp. Còn có bốn pháp đó là tham dục, sân hận, ngu
si và chẳng thích cầu chánh pháp. Còn có bốn pháp đó là ganh ghét người được
lợi, nơi của cải có lòng bỏn xẻn, ưa phỉnh dối Pháp sư và chẳng thích thân cận
thấy thiện tri thức. Còn có bốn pháp, đó là nơi thiện tri thức sanh ý tưởng là
ác hữu, nơi ác hữu sanh ý tưởng là thiện tri thức, phi pháp tưởng là pháp và
pháp thì tưởng là phi pháp. Còn có bốn pháp, đó là chẳng ưa thí cho, cho rồi
tiếc hối, cho rồi thấy lỗi và chẳng niệm tâm Bồ đề. Còn có bốn pháp, đó là vì
tham cầu mà cho, vì sân hận mà cho, vì ngu si mà cho và vì sợ hãi mà cho. Còn
có bốn pháp, đó là vì danh mà cho, vì bạn mà cho và vì hơn mà cho. Còn có bốn
pháp, đó là chẳng chí tâm cho, chẳng tự tay cho, chẳng hiện thấy cho và khinh
mạn cho. Còn có bốn pháp, đó là cho vật xấu, cho ít vật, chẳng chí tâm cho và
khinh mạn cho. Còn có bốn pháp, đó là cho vật có độc, cho dao binh khí, bất
tịnh thí và thí cho không lợi ích. Còn có bốn pháp đó là thấy người trì giới
thì giận ghét, thấy người phạm giới thì mến thương, theo lời của ác hữu và chẳng
niệm thí giới. Còn có bốn pháp đó là cầu lợi phi pháp, được của cải đúng pháp
chẳng cùng người chung, ngăn dứt sự cúng dường của người và lòng chẳng biết đủ.
Còn có bốn pháp đó là vì lợi dưỡng mà nhiếp trì oai nghi, vì lợi dưỡng mà nói
nhỏ tiếng, có tâm dua vạy và tà mạng mà sống. Còn có bốn pháp đó là nơi người
đồng học sanh lòng giận ghét, nơi người đồng thừa sanh lòng giận ghét, chẳng
biết nghiệp ma và ưa nói lỗi của người. Còn có bốn pháp đó là kiêu mạn chẳng
nghe chánh pháp, chẳng cung kính Pháp sư, chẳng lễ lạy cha mẹ Sư trưởng thiện
hữu và có ý theo ác nghiệp. Còn có bốn pháp đó là giấu công đức của người, nói
rộng lỗi người, thêm lớn kiêu mạn và giận hờn vững chắc. Còn có bốn pháp đó là
giải đãi, chẳng thích nghe lời lành, nói lời chẳng thuận hòa và trụ nơi phi
pháp. Còn có bốn pháp đó là chẳng điều, chẳng sạch, chẳng kín và chẳng nhẫn
nhịn. Còn có bốn pháp đó là chẳng thích nghe nhận pháp lành vô thượng, thích ở
thành thị, phạm cấm giới mà thích thọ cúng dường và chẳng điều phục được sáu
căn. Còn có bốn pháp đó là chẳng có thể nhiếp thủ chúng sanh, chẳng thể hộ trì
chánh pháp và ưa nói tội lỗi của Pháp sư. Còn có bốn pháp đó là đó là chẳng tu
tín tâm, chẳng có thể quán sát tội lỗi sanh tử, chẳng quán sát lỗi ác hữu và
chẳng quán sát tội lỗi của tâm nghi ngờ. Còn có bốn pháp đó là chẳng quán nội,
chẳng quán ngoại, vô tàm và vô quý. Còn có bốn pháp đó là chẳng biết ơn, chẳng
báo ơn, bội ơn và thích tà kiến. Còn có bốn pháp đó là phỉ báng Thánh nhơn,
giúp họ thế nhơn, chẳng tin phước điền và chê trách pháp thí cho. Còn có bốn
pháp đó là chẳng sạch thân nghiệp, chẳng hộ khẩu nghiệp, chẳng xả ý nghiệp và
nhàm chê Đại thừa.
Còn có bốn pháp đó là
vì phá hoà hiệp mà lưỡng thiệt, nơi thầy Hòa thượng thốt lời giận cãi, vì phá sự
lợi ích mà ỷ ngữ và phỉnh nhơn thiên mà vọng ngữ. Còn có bốn pháp đó là chẳng
hộ giới nhơn, loạn thiền định nhơn, chẳng tin đời sau và thích ưa thế sự. Còn
có bốn pháp đó là thô cộc, kiêu mạn, ưa nói việc đời và thường thích ngủ nghỉ.
Còn có bốn pháp đó là giả danh hiệu Bồ Tát để thọ cúng dường, chẳng có thể săn
sóc người bịnh khổ, chẳng gieo giống lành và chẳng hướng đến Bồ đề. Còn có bốn
pháp đó là tự khinh, khinh pháp, khinh phước và luôn nhớ thừa Thanh Văn, Bích
Chi Phật. Còn có bốn pháp đó là tham thân, tham tâm, tham mạng và tham cấm
giới. Còn có bốn pháp đó là tham nhà phòng, tham đàn việt, tham tà kiến và tham
phá giới. Còn có bốn pháp đó là làm nhiều, nói nhiều, thọ nhiều và nhìn ngó
nhiều. Còn có bốn pháp đó là ngã kiến, tà kiến, đoạn kiến và thường kiến. Còn
có bốn pháp đó là chẳng làm, làm rồi chuyển đổi, lòng hối tiếc và chẳng vui.
Còn có bốn pháp đó là chẳng hướng đến Bồ đề, chẳng tu thiền định, thối thất trí
huệ và chẳng thích phương tiện. Còn có bốn pháp đó là chướng ngại chánh pháp,
chướng ngại nghiệp lành, phiền não chướng ngại và ma nghiệp chướng
ngại.
Nầy Hải Huệ ! Các
pháp như vậy gọi là chướng Đại thừa".
Lúc đức Phật nói pháp
ấy rồi, có bốn ngàn Nhơn Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề, hai vạn tám ngàn Bồ Tát
được Vô sanh Pháp nhẫn. Cả cõi Đại Thiên chấn động sáu cách. Trên không có vô
lượng chư Thiên khác miệng đồng lời xướng rằng : Lành thay, lành thay, ngày nay
đức Như Lai Thế Tôn đại sư tử hống, vì thương chúng sanh mà mở cửa Đại thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh được ít phần trong pháp ấy thì có thể đoạn
trừ khổ ba ác đạo, lần lần sẽ được vô lượng pháp bửu. Bạch đức Thế Tôn ! Ví như
có người ở ngoài thôn ấp thấy khối báu lớn, thấy rồi có lòng thương người nên
vào thôn ấp bảo quần chúng rằng : ai muốn hết nghèo thì nên theo tôi. Quần
chúng nghe nói có người tin có người không tin. Những người tin cùng đi theo
người ấy đến chỗ châu báu tùy ý lượm lấy bèn hết nghèo khổ. Khối châu báu lớn
ấy không có ỹ nghĩ rằng cho người nầy chẳng cho người kia, phá sự nghèo của
người nầy mà không phải người kia, cho người này lượm cầm đi mà chẳng cho người
kia lượm cầm đi. Cũng vậy, đức Như Lai Thế Tôn trong vô lượng đời cần cầu vô
thượng pháp bửu như vậy. Cầu rồi được thấy, sanh lòng thương rộng lớn dùng phạm
âm thanh bảo các chúng sanh rằng : ai muốn phá hoại bần cùng sanh tử thì nên chí
tâm lắng nghe. Trong các chúng sanh, người bạc phước chẳng tin thì chẳng có thể
phá hoại sanh tử nghèo cùng, những người tin theo thì tùy trí lực tha hồ lấy
thừa Thanh Văn hay thừa Duyên Giác hoặc lấy Bồ Tát Đại thừa. Pháp bửu tụ lớn ấy
không hề tăng giảm cũng không có phân biệt. Hoặc có người đến bên khối báu pháp
lớn ấy mà không có thể lượm lấy một pháp bửu nào, người nầy ắt mãi ở trong ba ác
đạo. Hoặc có người có thể lượm lấy một chữ một kệ nhẫn đến một niệm thọ trì đó,
người nầy ắt phá hoại sanh tử nghèo cùng. Huống là có thể thọ lấy kinh điển Đại
thừa nầy một phẩm hai phẩm và trọn đủ nghe thọ đọc tụng biên chép vì người mà
giải nói.
Đức Thế Tôn khen chư
Thiên rằng : "Lành thay lành thay, nầy chư Thiên Tử ! Nếu người thọ trì kinh
điển như đây thì có đủ tất cả pháp lành, hay đảnh đới Như Lai vô thượng Phật
trí, đó là khối báu lớn có thể làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh".
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|