Bấy giờ Tu Bi Phạm
Thiên hỏi Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Bạch Đại Sĩ ! Nói là Phật pháp ấy, thế nào gọi
là Phật pháp ?".
Hải Huệ đại Bồ Tát nói
: "Thưa Thiên Tử ! Phật pháp ấy tên là tất cả pháp. Tất cả pháp ấy tên là Phật
pháp. Như Phật pháp tánh tức là tất cả pháp tánh. Như tất cả pháp tánh ấy tức
là Phật pháp tánh. Tất cả pháp tánh cùng Phật pháp tánh không hai không sai
biệt. Tất cả pháp tịch tĩnh Phật pháp cũng tịch tĩnh. Tất cả pháp rỗng không
Phật pháp cũng rỗng không.
Thưa Thiên Tử ! Tất cả pháp
tức mười hai nhơn duyên, Bồ đề ấy cũng là mười hai nhơn duyên".
Tu Bi Phạm Thiên nói : "Bạch
Đại Sĩ ! Luận về Phật pháp ấy phải chăng là chẳng quá tam giới pháp ư
?".
Hải Huệ đại Bồ Tát nói : "Thưa
Thiên Tử ! Tam giới cùng Phật pháp, tánh không sai biệt. Tam giới tánh bình
đẳng, Phật pháp tánh bình đẳng không có hai tướng. Ví như hư không không có
tăng giảm, Phật pháp cũng như vậy không có tăng giảm, vì tánh rỗng không nên
không có thượng không có hạ. Nếu ai muốn thấy Phật pháp thì nên quan sát như
vậy.
Lại nầy Thiên Tử ! Luận về
Phật pháp ấy chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải sanh chẳng phải diệt,
chẳng phải xanh chẳng phải vàng đỏ trắng chẳng phải mầu tạp mầu lưu ly mầu hư
không giới, lìa mầu sắc không có mầu sắc, chẳng phải có hình chất vuông tròn dài
vắn, không có tướng không có các tướng, không có phược không có giải, không có
tướng như vậy gọi là Phật pháp, không có tướng không có cú không có văn tự, là
thanh tịnh tịch tĩnh, là nghĩa rỗng không, là nghĩa không có tướng, là nghĩa
không có tích tụ, là nghĩa rốt ráo không có xuất sanh, là nghĩa giác
tri.
Nghĩa tịch tĩnh ấy là chẳng
tuyên nói được, chẳng nhìn được chẳng thấy được. Nghĩa tịch tĩnh ấy là nghĩa
không. Nghĩa không ấy là nghĩa không tích tụ. Nghĩa không tích tụ ấy là nghĩa
chơn thiệt. Nghĩa chơn thiệt ấy là nghĩa rốt ráo bất xuất. Nghĩa rốt ráo bất
xuất ấy là nghĩa bất diệt. Nghĩa bất diệt ấy tức là nghĩa không có xứ. Nghĩa
không có xứ ấy tức là pháp tánh. Pháp tánh ấy tức là Phật pháp. Đây gọi là hữu
học pháp, gọi là A La Hán pháp, gọi là Duyên Giác pháp, gọi là Phật pháp. Phật
pháp như vậy cùng các pháp khác cũng không có trụ xứ, bất xuất bất diệt, không
có sắc xanh vàng đỏ trắng, không có hình vuông tròn dài vắn, không có tướng mạo,
không có sáng không có tối, tất cả các pháp bình đẳng vô sai biệt. Người cầu
Phật pháp gọi rằng Phật, Phật pháp và tất cả pháp.
Đại Bồ Tát ngồi đạo tràng dưới
cội Bồ đề mới có thể rành rẽ rõ ràng chơn thiệt biết thấy. Tại sao, vì Phật
chánh pháp không có trụ xứ vậy, tất cả các pháp cũng không có trụ xứ. Phật pháp
bất khả đắc tất cả các pháp cũng bất khả đắc. Phật pháp bình đẳng tất cả các
pháp cũng bình đẳng. Nếu không có nhơn duyên thì không có chủng tánh. Nếu
không có chủng tánh thì không có xuất không có diệt. Nếu không có xuất diệt thì
gọi là chơn thiệt. Biết chơn thiệt ấy tức là thiệt tánh. Các pháp quá khứ vị
lai hiện tại tức là Phật pháp. Tại sao, vì thông đạt tam thế không có chướng
ngại vậy. Không có chướng ngại ấy tức là Phật trí. Phật trí ấy tức là mười tám
pháp bất cộng. Pháp bất cộng ấy nhiếp tất cả pháp. Vì thế nên tất cả các pháp
tức là Phật pháp. Các pháp cùng Phật pháp không có hai không sai
biệt".
Tu Bi Phạm Thiên nói : "Bạch
Đại Sĩ ! Nay Đại Sĩ có rõ ràng thấy Phật pháp chăng ?".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Thưa
Thiên Tử ! Phật pháp chẳng phải sắc hình thể nhìn thấy được, sao Thiên Tử lại
nói là rõ ràng thấy Phật pháp ư ! Tất cả các pháp đều chẳng thể thấy được.
Luận về rõ ràng ấy tức là Phật pháp, không có hai tướng sai biệt".
Tu Bi Phạm Thiên nói : "Bạch
Đại Sĩ ! Sao đức Như Lai cớ chi nói rằng Phật biết thấy tất cả các pháp
?".
Hải Huệ Bồ Tát nói : "Thưa
Thiên Tử ! Như Lai Phật pháp nếu có định tướng mới có thể nói được rằng rõ ràng
biết thấy".
-Bạch Đại Sĩ ! Phật pháp
không có ư ?
-Thưa Thiên Tử ! Pháp nếu là
vô định thì chẳng thể nói có chẳng thể nói không. Nếu chẳng thể nói có tướng
không có tướng thì làm sao nói được rằng rõ ràng biết thấy.
-Bạch Đại Sĩ ! Tại sao đức
Như Lai nói các Phật pháp ?
-Thưa Thiên Tử ! Như nói hư
không, mà tánh hư không thiệt không có định tướng, Phật pháp cũng
vậy.
-Bạch Đại Sĩ ! Phật pháp như
vậy chẳng thể nghĩ bàn. Bồ Tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề nghe pháp như
vậy mà chẳng kinh chẳng sợ cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Tánh Chánh giác cũng
chẳng thể nghĩ bàn.
-Thưa Thiên Tử ! Người được
đức Phật gia hộ mới có thể phát được tâm Vô thượng Bồ đề ấy, vì thế nên nghe
pháp như vậy mà chẳng kinh chẳng sợ.
Thưa Thiên Tử ! Nếu người có
tham trước thì sanh lòng kinh sợ, người không có tham trước thì không có kinh
sợ. Người luyến tiếc thân mạng thì sanh lòng kinh sợ, người không luyến tiếc
thân mạng thì không có kinh sợ, người có chướng ngại thì sanh lòng kinh sợ,
người không có chướng ngại thì không có kinh sợ. Tham trước ngã và ngã sở thì
sanh lòng kinh sợ, người dứt ngã và ngã sở thì không có kinh sợ.
-Bạch Đại Sĩ ! Đại Bồ Tát có
sức lực gì mà khi nghe Phật pháp thậm thâm chẳng sanh lòng kinh sợ ?
-Thưa Thiên Tử ! Có tám thứ
lực khi nghe Phật pháp thậm thâm thì chẳng sanh lòng kinh sợ. Đó là trụ lực,
thiện hữu lực, đa văn lực, thiện căn lực, thiện tư duy lực, phá kiêu mạn lực,
đại từ bi lực và như pháp trụ lực.
-Thưa Thiên Tử ! Bồ Tát có đủ
tám sức lực như vậy thì khi nghe Phật pháp thậm thâm chẳng sanh lòng kinh
sợ.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn khen
Hải Huệ Bồ Tát rằng : "Lành thay lành thay ! Thiện nam tử có thể khéo tuyên nói
các lực của Bồ Tát. Đúng như lời ông nói Bồ Tát có đủ các lực như vậy thì nghe
Phật pháp thậm thâm không sanh lòng kinh sợ.
Nầy thiện nam tử ! Tất cả
ngôn thuyết gọi đó là âm thanh. Tánh Bồ đề chẳng thể nói được cũng chẳng thể
thấy được. Chẳng thể nói chẳng thể thấy gọi đó là đệ nhứt nghĩa. Đức Như Lai
rõ ràng biết thấy chẳng thể tuyên nói được như vậy, vì thương chúng sanh nên
tuyên nói cho họ. Bồ đề chẳng phải tâm cũng chẳng phải tâm sở, huống là âm
thanh văn tự.
Nầy thiện nam tử ! Vì thương
các chúng sanh nên đức Như Lai giác ngộ pháp thậm thâm. Giác ngộ pháp thậm thâm
rồi không có tri không có giác không có tâm, không có tâm sở, không có thanh,
không có tự chẳng thể tuyên nói được. Vì chúng sanh nên đức Như Lai nói có văn
tự âm thanh thứ đệ.
Nầy thiện nam tử ! Như hư
không chẳng phải là sắc pháp chẳng thể nhìn thấy chẳng phải đối chẳng phải tác.
Có người vẽ giỏi vẽ hư không làm hình tượng hoặc là nam, hoặc là nữ, là voi, là
ngựa. Người vẽ giỏi như vậy có thể nghĩ bàn được chăng ?".
Hải Huệ Bồ Tát bạch đức Phật :
"Bạch đức Thế Tôn ! Chẳng thể nghĩ bàn được".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam
tử ! Việc ấy còn có thể tin được. Đức Như Lai Thế Tôn biết rõ chẳng thể tuyên
nói được mà có thể diễn nói, sự ấy rất là khó. Dầu là diễn nói pháp chẳng thể
tuyên nói được nhưng Như Lai chơn thiệt tánh chẳng thể nói được.
Nầy thiện nam tử ! Nếu người
nghe pháp ấy mà chẳng kinh sợ, nên biết người ấy đã từ lâu ở chỗ vô lượng chư
Phật Như Lai trồng các căn lành.
Nầy thiện nam tử ! Kinh điển
như vậy chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng biên chép giải
nói, người nầy có thể thọ trì pháp tạng của tất cả chư Phật, nhiếp thủ tất cả
chúng sanh làm cho họ giải thoát.
Nầy thiện nam tử ! Nếu có Bồ
Tát thấy rõ tất cả chư Phật trong vô lượng thế giới, thấy rồi liền mang thất bửu
đầy cả những thế giới ấy dâng hiến cúng dường tất cả chư Phật Thế Tôn. Người
nầy được công đức chừng có nhiều chăng ?".
Hải Huệ đại Bồ Tát bạch rằng :
"Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn ! Công đức như vậy không thể ví dụ nói
được".
Đức Phật nói : "Nầy thiện nam
tử ! Chẳng bằng người ủng hộ chánh pháp, vì thương mến chúng sanh mà thọ trì
đọc tụng biên chép giải nói kinh điển này. Tại sao, vì công đức pháp thí thắng
hơn tài thí. Luận về tài thí tức là thế gian thí, pháp thí là xuất thế
thí.
Nầy thiện nam tử ! Nếu người
hay hộ trì chánh pháp Phật thì được bốn sự nhiếp thủ. Đó là được Phật nhiếp,
được chư Thiên nhiếp, được phước nhiếp và được trí nhiếp.
Phật nhiếp chúng sanh còn có
bốn sự : một là thường được thân cận chư Phật, hai là chúng ma chẳng được dịp,
ba là được vô tận đà la ni và bốn là được trụ bực bất thối chuyển.
Chư Thiên nhiếp chúng sanh
cũng có bốn sự : một là chỗ thuyết pháp được chư Thiên trần thiết thanh tịnh,
hai là lúc thuyết pháp mọi người thích nghe, ba là chẳng hề bị các nhơn duyên
khác làm tổn hại và bốn là người chẳng tin thì tin.
Phước nhiếp chúng sanh cũng có
bốn sự : một là trang nghiêm nơi thân có ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo,
hai là trang nghiêm nơi miệng phàm lời nói ra được người thích nghe, ba là trang
nghiêm Phật độ và bốn là trang nghiêm chủng tánh như là Đế Thích, Phạm Thiên,
Chuyển Luân Thánh Vương.
Trí nhiếp chúng sanh cũng có
bốn sự : một là biết rõ căn của chúng sanh mà tùy ý thuyết pháp, hai là biết
bịnh khổ của các chúng sanh theo bịnh mà cho thuốc, ba là được đại thần thông đi
khắp các Phật quốc độ và bốn là rành rẽ thông đạt pháp giới.
Nầy thiện nam tử ! Nếu người
muốn được những công đức như vậy thì nên siêng tâm hộ trì chánh
pháp".
Muốn tuyên lại nghĩa ấy đức
Thế Tôn nói tụng rằng :
Hay hộ
chánh pháp thương chúng sanh
Thọ trì
kinh này và diễn thuyết
Phật nói
một phần trong ngàn phần
Dường như
một giọt trong đại hải
Biết ơn
báo ơn niệm Như Lai
Người nầy
đáng tin phó pháp tạng
Cúng dường
vô lượng mười phương Phật
Như vậy
thì hay hộ Phật pháp
Dầu thí
trân bửu vô lượng quốc
Chẳng bằng
chí tâm tụng một kệ
Pháp thí
tối diệu thắng tài thí
Vì vậy
người trí phải hộ pháp
Mười
phương chư Phật, Thiên, Long, Thần
Công đức
trí huệ được nhiếp thủ
Trang
nghiêm tu hành các tướng hảo
Người nầy
đều do hộ chánh pháp
Thường gặp
chư Phật thiện tri thức
Thường
nghe vô thượng chơn thiệt đạo
Mau được
vô lượng đà la ni
Người này
đều do hộ chánh pháp
Thân khẩu
ý giới được thanh tịnh
Đủ đại
thần thông đi các nước
Bất thối
Bồ đề đủ lục độ
Người này
đều do hộ chánh pháp
Thế giới
vi trần nói hết được
Công đức
hộ pháp chẳng lường được
Muốn được
trí chẳng tuyên nói được
Nên phải
bền lòng nói chánh pháp.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|