Nầy thiện nam tử ! Ví như tấm
lưới có nhiều gút mắt, có người ở trong ấy dùng sức chú thuật phá lưới thoát ra
tùy ý mà đi. Cũng vậy, đại Bồ Tát vào trong chúng sanh dùng sức trí huệ phá
lưới phiền não tùy ý tự tại, dầu chưa chứng được Vô thượng Bồ đề mà có thể thông
đạt sở hành của các chúng sanh".
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng
: "Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề nghe nói sở
hành bất tư nghị của các chúng sanh như vậy mà chẳng kinh chẳng sợ, sự nầy thiệt
rất khó chẳng thể nghĩ bàn được".
Đức Phật nói : "Nầy Xá Lợi
Phất ! Ý của ông nghĩ thế nào, như sư tử con lúc mới được đẻ ra nghe tiếng rống
của sư tử nó có kinh sợ chăng ?".
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng
: "Bạch đức Thế Tôn ! Dầu mới sanh nhưng sư tử con không kinh sợ khi nghe tiếng
rống của sư tử".
Đức Phật nói : "Nầy Xá Lợi
Phất ! Cũng vậy, đại Bồ Tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề nghe nói sở hành
bất tư nghị của các chúng sanh chẳng kinh chẳng sợ.
Lại này Xá Lợi Phất ! Ý ông
nghĩ thế nào, thế lực của mồi lửa dầu nhỏ mà nó có sợ đống củi khô lớn chăng
?".
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng
: "Bạch đức Thế Tôn ! Mồi lửa nhỏ không sợ củi khô lớn".
Đức Phật nói : "Nầy Xá Lợi
Phất ! Đại Bồ Tát lúc sơ phát Bồ đề tâm vô thượng được lửa trí huệ cũng như
vậy.
Lại nầy Xá Lợi Phất ! Nay đức
Như Lai lấy việc chẳng phải ví dụ để làm ví dụ.
Ví như có ngọn lửa giao hẹn
sau bảy ngày sẽ cùng củi gỗ khô chiến đấu. Bấy giờ bao nhiêu củi gỗ khô cùng
họp tụ lại một chỗ cao lớn như tòa núi Tu Di, mà ngọn lửa ấy vẫn không núng sợ
tự biết sức mình có thể chống phá nổi chẳng cần phải giúp thêm. Cũng vậy, dầu
các phiền não cùng hòa hiệp chung nhau thế lực mãnh liệt, nhưng sức trí huệ của
Bồ Tát đều có thể tiêu phục.
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ Tát
có hai thứ sức lực, một là phiền não lực, hai là trí huệ lực.
Bồ Tát nếu không có phiền não
lực thì chẳng có thể cùng đồng với hành nghiệp của các chúng sanh, cũng chẳng có
thể biết được hành xứ của các chúng sanh và cũng sẽ đồng như bực Thanh Văn và
Duyên Giác. Vì vậy nên Bồ Tát dùng phiền não lực đi đến khắp các cõi hóa độ các
chúng sanh chẳng hề kinh sợ, đây gọi là Bồ Tát hiện hành phương tiện.
Này Xá Lợi Phất ! Như có số
đốm lửa nhiều vô lượng ngàn vạn ức cũng chẳng thể chiếu lấn được ánh sáng mặt
nhựt. Cũng vậy, dầu có vô lượng vô số phiền não cũng chẳng thể ngăn ngại được
trí quang của Bồ Tát.
Này Xá Lợi Phất ! Như một hoàn
thuốc A Già Đà có khả năng phá được đại độc. Trí huệ của Bồ Tát cũng vậy, chút
ít sức trí huệ có khả năng phá vô lượng đại phiền não.
Này Xá Lợi Phất ! Như trận
mưa nước một vị, rơi xuống rồi thì tùy theo đất mà có các thứ vị. Một giải
thoát trí của đại Bồ Tát cũng vậy, theo căn tánh của các chúng sanh mà nói nhiều
pháp sai khác.
Này Xá Lợi Phất ! Như dưới
cây Diêm Phù có bùn hoàng kim, trong bùn này có các loại báu quý. Trong vô
thượng Bồ đề tâm mới phát của Bồ Tát cũng vậy, trong tâm ấy có đủ Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Này Xá Lợi Phất ! Như các
Tiểu Vương đều thuộc Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng vậy, tất cả hàng nhơn thiên
đều đến quy thuộc sơ tâm Bồ Tát.
Này Xá Lợi Phất ! Như người
phước mỏng ít thì chẳng gặp được thất bửu. Cũng vậy, nếu người chẳng thể ở chỗ
vô lượng chư Phật gieo trồng thiện căn thì chẳng thể phát tâm Vô thượng Bồ
đề.
Này Xá Lợi Phất ! Như mầm non
mía thì không có các vị thạch mật v.v. Cũng vậy, nếu người không có tâm Vô
thượng Bồ đề thì không có các công đức Tam bảo.
Này Xá Lợi Phất ! Như y vương
Kỳ Bà thường nói rằng tất cả vật có trong thiên hạ không gì chẳng phải là
thuốc. Cũng vậy, Bồ Tát nói tất cả các pháp không gì chẳng phải là Bồ
đề.
Này Xá Lợi Phất ! Như A Tu La
Vương tận lực cũng không ngăn được vòng đi của mặt nhựt nguyệt. Cũng vậy, tất
cả ma chúng dùng hết thế lực chẳng thể trở ngại Bồ Tát siêng tu Bồ đề đạo.
Này Xá Lợi Phất ! Như sắc giới
cung điện chư Thiên an trụ tại hư không. Cũng vậy, Bồ đề được có của Bồ Tát
cũng y dựa nơi không mà an trụ.
Này Xá Lợi Phất ! Như hư
không có thể dung thọ tất cả vạn vật mà hư không ấy không hề tăng giảm. Vô
lượng Phật pháp cũng vậy, dầu có Bồ Tát phát tâm nguyện cầu mà Phật pháp ấy vẫn
không tăng giảm.
Này Xá Lợi Phất ! Như có
người tha hồ tùy sức mình đi trong hư không mà hư không ấy không hề tăng giảm.
Cũng vậy, Bồ Tát dùng hết tín lực đi trong Phật trí mà Phật trí ấy vẫn không
tăng giảm.
Này Xá Lợi Phất ! Như thợ lò
gốm lúc làm chưa thành món vật thì vật ấy chưa được tên món vật. Cũng vậy lúc
chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì pháp lành của Bồ Tát cũng chưa được
tên.
Này Xá Lợi Phất ! Như người đã
được thấy Chuyển Luân Thánh Vương thì chẳng cầu thấy các Tiểu Vương. Cũng vậy,
Bồ Tát đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi thì chẳng còn phát tâm Thanh Văn, tâm
Bích Chi Phật.
Này Xá Lợi Phất ! Như các bửu
châu chẳng sản xuất ở những nơi khác mà phải sản xuất ở lòng đại hải. Cũng vậy,
trong pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng sản xuất được Tam bảo, mà Tam bảo phải
được sản xuất trong pháp Bồ Tát.
Này Xá Lợi Phất ! Như bực Thái
Tử chẳng gọi là vua chẳng phải chẳng gọi là vua. Cũng vậy, đại Bồ Tát chẳng gọi
là Phật chẳng phải chẳng gọi là Phật.
Này Xá Lợi Phất ! Thất bửu dầu
là lượng nhỏ cũng chẳng nên khinh, tại sao, vì lượng bửu dầu nhỏ mà có thể dùng
làm việc lớn có nhiều lợi ích. Cũng vậy, dầu Bồ Tát lúc sơ phát tâm cũng chẳng
nên khinh.
Này Xá Lợi Phất ! Nay Phật vì
chư đại Bồ Tát mà nói những ví dụ như vậy. Bồ Tát được nghe những ví dụ ấy thì
được an lạc".
Muốn tuyên lại nghĩa ấy đức
Thế Tôn nói kệ rằng :
Nếu muốn
chứng được vô thượng đạo
Phải nên
dứt trừ lòng nghi hối
Người
siêng tu lòng tin vô thượng
Thì có thể
được đạo Bồ đề
Nếu người
tu tập tịnh ấn định
Tuyên nói
các pháp như cảnh mộng
Trong vô
lượng đời tịnh tâm mình
Thì có thể
chứng chánh giác đạo
Đạo Phật
được chẳng phải thân nghiệp
Cũng chẳng
phải khẩu nghiệp ý nghiệp
Vô vi chơn
thiệt tánh cũng vậy
Vì thế
chẳng thể ví dụ nói
Phật đạo
không đối chẳng thấy được
Chẳng phải
nhãn thức như hư không
Chẳng phải
tất cả các tình căn
Chẳng phải
cảnh giới của các căn
Chẳng phải
tướng ấm giới lục nhập
Chẳng phải
tâm ý thọ tưởng thức
Chẳng phải
cảnh của tri của trí
Vì thế
Phật cảnh chẳng biết được
Chư Phật
đại bi khó nghĩ bàn
Vô lượng
vô biên không chướng ngại
Không chữ
không tiếng chẳng nói được
Vì thế
không ai biết Phật giới
Nếu chúng
sanh trong vô lượng đời
Gần kế
thiện hữu nghe chánh pháp
Nghe rồi
liền được đại phước đức
Thường thọ
diệu lạc như chư Phật
Tất cả các
ma chẳng hại được
Các căn
điều phục thường an lạc
Hay dùng
phương tiện phá tứ ma
An trụ như
pháp hành Phật đạo
Nếu tu đạo
Bồ đề như vậy
Thì được
Bồ đề vì người nói
Hay độ
chúng sanh biển sanh tử
Hay phá
tất cả đại tà kiến
Liền được
vô thượng các tướng hảo
Thành tựu
Thập lực Tứ vô úy
Hay biết
chúng sanh phiền não hành
Hay phá
tất cả cõi sanh tử
Nếu có Bồ
Tát siêng tinh tiến
Thì hay
phá hoại các phiền não
Như lửa
đốt cháy gỗ cỏ khô
Tâm Bồ đề
đốt được phiền não.
Lại nầy Hải Huệ ! Vì được Vô
thượng Bồ đề mà đại Bồ Tát siêng tu tinh tiến. Có ai siêng tu tinh tiến thì nên
biết người ấy tức là có Bồ đề. Có ai siêng tu tinh tiến thì người ấy tức là có
Đàn Ba la mật, Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tỳ lê gia Ba la mật, Thiền Ba la
mật, Bát Nhã Ba la mật, có thể lợi ích mình mà cũng có thể lợi ích
người.
Nầy thiện nam tử ! Vô lượng
kiếp quá khứ có đức Phật Thế Tôn hiệu Cần Tinh Tiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, quốc độ tên Thiện Kiến, kiếp ấy tên Hoa Tụ.
Lúc ấy đại thủy tràn đầy cả thế giới, trong đại thủy sản xuất tám vạn bốn ngàn
thượng diệu liên hoa, mỗi hoa sen ngang rộng đủ ngàn do tuần có vô lượng ức ánh
sáng màu hoàng kim, mùi thơm vi diệu. Chư Thiên cõi Trời Sắc Cứu Cánh thấy các
hoa sen ấy cảm thọ nhiều an lạc đồng nói rằng trong thế gian mà có nhiều hoa sen
ấy thì nên biết là có nhiều đức Phật xuất thế. Do cớ ấy mà kiếp ấy có tên là
Hoa Tụ.
Thuở ấy cả thế giới tịch tĩnh
không có tiếng động. Vì tịch tĩnh mà chư Bồ Tát ở vô lượng thế giới thường
thích quán sát. Do quán sát nên mỗi mỗi Bồ Tát đều được hỷ hành tam muội. Vì
cớ ấy mà thế giới ấy có tên là Thiện Kiến.
Quốc độ Thiện Kiến có nhiều
rừng cây thất bửu, nhiều những điện đền lầu các thất bửu như Đâu Suất Thiên.
Chúng sanh cõi ấy ăn uống đầy đủ, phần đông đều có thần thông, tất cả đều hóa
sanh, không có thân người nữ cũng không có ba ác đạo, đều tu pháp Đại thừa,
không có Nhị thừa. Đức Phật Cần Tinh Tiến có ba vạn sáu ngàn Bồ Tát xuất gia
đều được tâm bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề, còn có vô lượng nhơn thiên sơ phát
tâm Bồ đề kiên cố chẳng thối chuyển. Đức Cần Tinh Tiến Như Lai thường thích
tuyên nói hạnh cần tinh tiến. Lúc ấy trong đại chúng có một vị Bồ Tát tên Kiên
Cố Trang nghiêm từ chỗ ngồi đứng dậy đến lễ chưn đức Cần Tinh Tiến Như Lai rồi
quỳ dài chắp tay bạch rằng :
Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là
Bồ Tát cần hành tinh tiến ?
Đức Cần Tinh Tiến Như Lai nói
:
Nầy Kiên Cố Trang nghiêm !
Cần hành tinh tiến có bốn pháp, đó là phát tâm, tác tâm, quán tâm và như pháp
trụ. Bốn pháp như vậy tức là đầy đủ nhơn duyên Phật pháp.
Tại sao vậy ? Nầy thiện nam
tử ! Do phát tâm nên sanh thiện pháp. Do tu tác mà thiện pháp tăng trưởng. Do
quán sát mà lợi ích chúng sanh. Do như pháp trụ nên nhập vào tất cả nhơn duyên
Phật pháp.
Còn nữa, nầy thiện nam tử !
Phát ấy là cầu được nghe chánh pháp. Tác ấy là nghe pháp rồi có thể nói. Quán
ấy là giỏi tư duy nghĩa. Như pháp trụ ấy là như pháp được nói mà an
trụ.
Lại phát ấy là điều phục tâm
xan tham, tác ấy là có thể bố thí tất cả, quán ấy là vì chúng sanh bố thí hồi
hướng Bồ đề, như pháp trụ ấy là chẳng cầu quả báo bố thí. Lại phát ấy là tìm
cầu người lãnh thọ, tác ấy là khi thấy người đến cầu xin thì sanh lòng thương
xót, quán ấy là quán sát của cải vô thường, như pháp trụ ấy là chẳng cầu quả
báo. Lại phát ấy là cầu của cải đúng như pháp, tác ấy là cầu được tịnh mạng,
quán ấy là nơi vật chẳng bền mà tu pháp bền vững, như pháp trụ ấy là lúc xả thí
tất cả chẳng có lòng kiêu mạn. Lại phát ấy là lìa các ác cấm giới, tác ấy là
chí tâm thọ trì các tịnh cấm giới, quán ấy là chí tâm điều phục người phá giới,
như pháp trụ ấy là trì tịnh cấm giới chẳng sanh lòng kiêu mạn. Lại phát ấy là
tịnh khẩu nghiệp, tác ấy là tịnh thân nghiệp, quán ấy là tịnh ý nghiệp, như pháp
trụ ấy là tu tập thiện pháp. Lại phát ấy là xa lìa tâm sân hận, tác ấy là tu
tập nhẫn nhục, quán ấy là thủ hộ mình và người, như pháp trụ ấy là tu nhẫn nhục
rồi chẳng sanh lòng kiêu mạn. Lại phát ấy là thích giáo hoá chúng sanh tà kiến,
tác ấy là hay phá tâm sân hận của các chúng sanh, quán ấy là chẳng thấy có nội
ngoại, như pháp trụ là xa lìa tất cả phiền não kiết sử. Lại phát ấy là xa lìa
giải đãi, tác ấy là siêng tu tinh tiến, quán ấy là điều phục tất cả chúng sanh
giải đãi, như pháp trụ ấy là khuyên các chúng sanh tu tinh tiến.
Lại phát ấy là thiện từ, tác
ấy là việc phải làm đã xong, quán ấy là chẳng cầu các thừa khác, như pháp trụ ấy
là chẳng mất tâm vô lượng Bồ đề. Lại pháp ấy là trang nghiêm thiền chi, tác ấy
là trang nghiêm tam muội, quán ấy là tu tập chẳng sanh tương tợ ngã mạn, như
pháp trụ là phá hoại tâm hành ác của các chúng sanh. Lại phát ấy là trang
nghiêm niệm tâm, tác ấy là trang nghiêm các cõi, quán ấy là ý chí kiên cố, như
pháp trụ là dũng kiện không khiếp sợ. Lại phát ấy có tên như pháp nhơn, tác ấy
có tên như phương tiện, quán ấy có tên môn hộ, như pháp trụ ấy có tên giải
thoát. Lại phát ấy là cầu văn tự, tác ấy là thọ trì văn tự, quán ấy là tự bất
khả thuyết, như pháp trụ ấy là xa lìa văn tự. Lại phát ấy là lìa ác tri thức,
tác ấy là cầu thiện tri thức, quán ấy là ở nơi thiện tri thức chí tâm nghe pháp,
như pháp trụ ấy là chẳng hiểu sai nghĩa. Lại phát ấy là thích rời bỏ nhà, tác
ấy là xa lìa oán và thân, quán ấy là cầu phá lành, như phát trụ là chẳng theo ý
người. Lại phát ấy là nói thiểu dục, tác ấy là nói tri túc, quán ấy là dễ nuôi
dễ thoả mãn, như pháp trụ ấy là khéo biết thời nghi.
Lại phát ấy là tu đúng cấm
giới, tác ấy là nơi cấm giới chẳng hư, quán ấy là như định học giới, như pháp
trụ ấy là như huệ học giới. Lại phát ấy là Đàn na và Thi la Ba la mật, tác ấy
là Sằn đề và Tỳ lê gia Ba la mật, quán ấy là Thiền na và Bát Nhã Ba la mật, như
pháp trụ ấy là trí và phương tiện Ba la mật. Lại phát ấy là hành bố thí nhiếp
thủ, tác ấy là hành nhuyến ái ngữ nhiếp thủ, quán ấy là làm lợi ích cho người
nhiếp thủ, như pháp trụ ấy là đồng sự với người nhiếp thủ. Lại phát ấy là đại
từ, tác ấy là đại bi, quán ấy là đại hỷ, như pháp trụ ấy là đại xả. Lại phát ấy
là hộ trì chánh pháp, tác ấy là thanh tịnh phước điền, quán ấy là trang nghiêm
tướng hảo, như pháp trụ ấy là điều phục chúng sanh. Lại pháp ấy là thiệt biết
ấm ma, tác ấy là lìa phiền não ma, quán ấy là phá tử ma, như pháp trụ ấy là xô
dẹp thiên ma. Lại phát ấy là thân niệm xứ, tác ấy là thọ niệm xứ, quán ấy là
tâm niệm xứ, như pháp trụ là pháp niệm xứ. Lại phát ấy là rành rẽ biết khổ, tác
ấy là xa lìa tập nhơn, quán ấy là chúng chơn thiệt diệt, như pháp trụ là tu tập
trợ đạo. Lại phát ấy là tín căn, như pháp trụ ấy là huệ căn. Lại phát ấy là
thất giác phần, tác ấy là bát chánh đạo phần, quán là xa ma tha, như pháp trụ là
tỳ bà xá na.
Nầy thiện nam tử ! Như tất cả
hạnh lành đều gọi là phát, tu tập pháp lành đều gọi là tác, tất cả tâm thanh
tịnh đều gọi là quán, biết tất cả nghiệp thì gọi là như pháp trụ.
Lại nầy Kiên Cố Trang nghiêm
Bồ Tát ! Người siêng tu tinh tiến thì tịch tĩnh tâm mình, nếu tâm tịch tĩnh tức
là tinh tiến. Nếu phá tâm tham thân tức là tinh tiến. Nếu biết thân và ý tức
là tinh tiến. Nếu đoạn dứt ngã và ngã sở tức là tinh tiến. Đoạn dứt các hệ
phược tức là tinh tiến. Phiền não chướng dứt hết tức là tinh tiến. Nếu có thể
xa lìa tất cả chướng ngại tức là tinh tiến. Nếu có thể trừ bỏ mười thứ kiêu mạn
tức là tinh tiến. Nếu phá tham sân tức là tinh tiến. Nếu phá vô minh hữu ái
tức là tinh tiến. Nếu chẳng phóng dật tu tập thiện pháp tức là tinh tiến. Nếu
có thể chơn thiệt thấy nội lục nhập ngoại lục nhập tức là tinh tiến. Nếu chơn
thiệt biết ngũ ấm, thập bát giới, thập nhị nhập tức là tinh tiến. Tâm tịch tĩnh
tức là tinh tiến. Phá hoại lòng nghi tức là tinh tiến. Nơi tam thế chẳng phân
biệt tức là tinh tiến. Nếu quán pháp giới chẳng động chuyển tức là tinh tiến.
Nếu chẳng lậu tức là tinh tiến. Nếu chẳng hại tức là tinh tiến. Nếu chẳng sanh
hối tức là tinh tiến. Nếu chẳng cầu tức là tinh tiến. Nếu chẳng diệt tức là
tinh tiến. Nếu chẳng tác tức là tinh tiến. Nếu không có tăng giảm tức là tinh
tiến.
Không có thượng không có hạ
tức là tinh tiến. Chẳng xả chẳng trước tức là tinh tiến. Chẳng phược chẳng
giải tức là tinh tiến. Chẳng đến chẳng đi tức là tinh tiến. Bất sanh bất diệt
tức là tinh tiến. Chẳng phải phóng dật chẳng phải chẳng phóng dật tức là tinh
tiến. Không có tác không có tác giả tức là tinh tiến. Không có tối không có
sáng tức là tinh tiến. Chẳng phải có thấy chẳng phải chẳng thấy tức là tinh
tiến.
Đức Thế Tôn bảo Hải Huệ đại Bồ
Tát : "Nầy thiện nam tử ! Lúc đức Cần Tinh Tiến Như Lai nói pháp tinh tiến như
vậy có vô lượng Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn. Hiện nay trong pháp hội này cũng
có năm ngàn Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn, bảy ngàn thiên nhơn phát tâm Vô
thượng Bồ đề.
Nầy thiện nam tử ! Thuở xa
xưa ấy, Kiên Cố Trang Nghiêm Bồ Tát nghe đức Cần Tinh Tiến Như Lai nói pháp ấy
rồi, vì muốn được vô lượng pháp như vậy nên siêng tu tinh tiến chứng được hạ
nhẫn. Vì cầu pháp mà Bồ Tát ấy chẳng ngồi chẳng nằm cho đến mạng chung. Lúc đã
bỏ thân liền sanh Trời Phạm Thiên, trong vô lượng đời cúng dường Phật và nghe
pháp thọ trì. Trong kiếp Hoa Tụ ấy Bồ Tát Kiên Cố Trang Nghiêm cúng dường cùng
khắp tám vạn bốn ngàn chư Phật Như Lai nghe pháp thọ trì siêng tu tinh
tiến.
Nầy Hải Huệ ! Ông có biết
thuở kiếp Hoa Tụ xa xưa, Bồ Tát Kiên Cố Trang Nghiêm ấy là người nào chăng ?
Chính là
thân ta Thích Ca Mâu Ni Phật vậy.
Nầy Hải Huệ ! Từ lâu
ta đầy đủ tinh tiến nên siêu việt Di Lặc và chư vị đại Bồ Tát mà thành Chánh
Giác trước. Vì vậy mà ta nói rằng ai có tinh tiến thì nên biết người ấy tức là
có Bồ đề.
Nầy Hải Huệ ! Ta
siêng tu tinh tiến mà còn khó được Vô thượng Bồ đề huống là giải đãi ư ! Nếu có
Bồ Tát hay siêng tu tinh tiến thì người ấy có thể tự lợi lợi tha".
Muốn tuyên lại nghĩa
ấy đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Ta nhớ quá
khứ vô lượng đời
Trong kiếp
Hoa Tụ tinh tiến Phật
Thế giới
Thiện Kiến nước tràn đầy
Sản xuất
tám vạn bốn ngàn hoa
Cõi ấy báu
đẹp như Đâu Suất
Dư nhiều
vật thực không thân nữ
Chúng sanh
tất cả đều hóa sanh
Cũng không
nhị thừa thuần nhứt thừa
Mười
phương thế giới chư Bồ Tát
Thấy cõi
Thiện Kiến thọ an lạc
Ba vạn hai
ngàn chúng xuất gia
Vô lượng
nhơn thiên phát giác tâm
Tinh Tiến
Phật khen hạnh tinh tiến
Chỉ vì
Kiên Cố Trang Nghiêm nói
Nếu hay
phát tâm siêng tu thiện
Nhiếp tâm
tư duy như pháp trụ
Cần Tinh
Tiến Phật vì Kiên Cố
Phân biệt
nói rộng bốn câu ấy
Phát Bồ đề
tâm như pháp hành
Tư duy
được nhẫn như pháp trụ
Nếu cầu
chánh pháp gọi sơ phát
Như pháp
mà nói gọi là tác
Hiểu nghĩa
chẳng sai tư duy tốt
Tu tập
pháp nhẫn như pháp trụ
Nếu siêng
bố thí gọi sơ phát
Cầu người
nhận lãnh gọi là tác
Thấy rõ vô
thường tư duy tốt
Chẳng thấy
hai tướng như pháp trụ
Cầu của
đúng pháp gọi sơ phát
Thanh tịnh
sanh sống gọi là tác
Phá hoại
san tham tư duy tốt
Chẳng sanh
kiêu mạn như pháp trụ
Xa lìa ác
giới gọi sơ phát
Trì giới
chẳng hư gọi là tác
Điều phục
người lỗi tư duy tốt
Tịnh giới
không kiêu như phá trụ
Xa lìa ác
khẩu gọi sơ phát
Thân
thường tịch tĩnh gọi là tác
Ý nghiệp
tịch tĩnh tư duy tốt
Các pháp
tịch tĩnh như pháp trụ
Xa lìa hại
tâm gọi sơ phát
Tu tập
nhẫn nhục gọi là tác
Gìn giúp
mình người tư duy tốt
Nhẫn chẳng
kiêu mạn như pháp trụ
Khuyên dạy
kẻ sân gọi sơ phát
Xa lìa kẻ
ác gọi là tác
Trong
ngoài tịch tĩnh tư duy tốt
Tâm không
trước ngã như pháp trụ
Xa lìa
giải đãi gọi sơ phát
Siêng tu
tinh tiến gọi là tác
Biết rõ
chơn thiệt tư duy tốt
Tu tập trợ
đạo như pháp trụ
Mới cầu
pháp lành là sơ phát
Cầu rồi tu
tập gọi là tác
Niệm tâm
thọ trì tư duy tốt
Chẳng mất
thiện pháp như pháp trụ
Cầu nơi
thiền chi gọi sơ phát
Tu tập tam
muội gọi là tác
Không
tương tợ mạn tư duy tốt
Không có
lỗi lầm như pháp trụ
Tâm niệm
nơi huệ gọi sơ phát
Chứng được
pháp môn gọi là tác
Ủng hộ
chánh pháp tư duy tốt
Dũng kiện
tinh tiến như pháp trụ
Chánh niệm
nhơn duyên là sơ phát
Tu thiện
phương tiện gọi là tác
Quán xem
nội pháp tư duy tốt
Đã được
giải thoát như pháp trụ
Mới cầu
văn tự gọi sơ phát
Thông đạt
hiểu rõ gọi là tác
Biết bất
khả thuyết tư duy tốt
Rõ không
văn tự như pháp trụ
Xa lìa ác
hữu là sơ phát
Gần kề
thiện hữu gọi là tác
Nghe pháp
hiểu đúng tư duy tốt
Chẳng rời
chánh pháp như pháp trụ
Phật pháp
xuất gia là sơ phát
Trừ bỏ oán
thân gọi là tác
Tu tập
pháp lành thiện tư duy
Chẳng theo
ý người như pháp trụ
Thiểu dục
sơ phát tri túc tác
Thích nơi
tịch tĩnh tư duy tốt
Trụ tịch
tĩnh rồi giảng vô tranh
Cũng tự tu
tập như pháp trụ
Theo giới
mà học gọi sơ phát
Thường
thích tịch tĩnh gọi là tác
Dễ nuôi dễ
đủ thiện tư duy
Quán sát
vô thường như pháp trụ
Thích tu
thí giới gọi sơ phát
Nhẫn nhục
tinh tiến gọi là tác
Thiền và
Bát Nhã tư duy tốt
Trí cùng
phương tiện như pháp trụ
Bố thí
nhiếp thủ là sơ phát
Ái ngữ
nhiếp thủ gọi là tác
Lợi ích
cho người tư duy tốt
Đồng sự
nhiếp thủ như pháp trụ
Tu từ là
phát tu bi tác
Tam thế vô
nhị tư duy tốt
Vì các
chúng sanh tịnh thân tâm
Tu tập hỉ
xả như pháp trụ
Hộ trì
chánh pháp là sơ phát
Thanh tịnh
phước điền gọi là tác
Trang
nghiêm tự thân tư duy tốt
Điều phục
chúng sanh như pháp trụ
Phá hoại
ấm ma là sơ phát
Rời phiền
não ma gọi là tác
Phá được
tử ma tư duy tốt
Dẹp phục
ma địch như pháp trụ
Tu tập
thân niệm là sơ phát
Tu tập thọ
niệm gọi là tác
Tu tập tâm
niệm tư duy tốt
Tu tập
pháp niệm như pháp trụ
Rành rẽ
biết khổ là sơ phát
Xa lìa
nhơn tập gọi là tác
Chứng diệt
chơn thiệt tư duy tốt
Tu tập trợ
đạo như pháp trụ
Tu tập tín
căn là sơ phát
Tu tập các
lực gọi là tác
Tu niệm
tam muội tư duy tốt
Tu tập trí
huệ như pháp trụ
Thân tâm
tịch tĩnh là sơ phát
Xa lìa tà
kiến gọi là tác
Quán rõ
danh sắc tư duy tốt
Tinh tiến
chẳng hối như pháp trụ
Không ngã
ngã sở là sơ phát
Không
phược không giải gọi là tác
Không khứ
không lai tư duy tốt
Pháp tánh
bất động như pháp trụ
Xa lìa
kiêu mạn là sơ phát
Từ bỏ tham
sân gọi là tác
Quán mười
hai duyên tư duy tốt
Lìa si hữu
ái như pháp trụ
Nếu hay xa
lìa tất cả tướng
Phá hoại
sở hữu các chướng ngại
Đầy đủ
thập lực tứ vô úy
Hay nói
công đức cần tinh tiến
Như Lai
nói pháp tinh tiến nầy
Mười ngàn
chúng sanh ngộ vô sanh
Năm ngàn
Bồ Tát được pháp nhẫn
Vô lượng
Trời Người phát Bồ đề
Bồ Tát
Kiên Cố nay Thích Ca
Tinh tiến
vượt hơn chư Bồ Tát
Nếu muốn
chứng được Vô thượng đạo
Nên tu
tinh tiến như Phật trước.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|