Này Hải Huệ thiện nam
tử ! Thế nào gọi là tâm Bồ đề ép mà chẳng hư hoại ?
Nầy thiện nam tử ! Ép ấy là
nói đại bi, duyên nơi tất cả chúng sanh nối dòng Tam bửu chẳng cho đoạn tuyệt.
Vì Phật pháp mà trang nghiêm thiện căn ba mươi hai tướng đại nhơn tám mươi hình
đẹp và nghiêm tịnh thế giới. Vì thủ hộ chánh pháp mà chẳng tiếc thân
mạng.
Nầy thiện nam tử ! Nếu có bị
các chúng sanh ác đánh đập mắng nhiếc nhiễu hại đều nên nhịn chịu, cũng chẳng
ghét bỏ tất cả chúng sanh, trong lòng chẳng hối chẳng sầu chẳng giận cũng chẳng
báo hại, chỉ nên yên lặng nhẫn nhịn càng thêm tinh tiến điều phục chúng sanh.
Phải suy nghĩ như vầy : là người ở trong Đại thừa phải trái khác thế tục, tại
sao, vì tất cả chúng sanh trong thế gian thì thuận theo dòng sanh tử, tất cả
chúng sanh trong thế gian thì mỗi mỗi tranh tụng, còn pháp Đại thừa thì phá sự
tranh đấu kiện tụng, thế gian thì sân hận hại thù, còn pháp Đại thừa thì diệt
lòng thù giận, thế gian thì hư dối, còn pháp Đại thừa thì chất trực chơn thiệt.
Giả sử mười phương thế giới có các chúng sanh cầm dao gậy rượt đuổi Bồ Tát mà
bảo rằng ai phát tâm Bồ đề thì ta sẽ chặt bằm thân thể nát nhừ như hột mè, dầu
gặp sự ác hại như vậy mà Bồ Tát vẫn chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, cũng chẳng rời
bỏ tất cả hạnh lành từ bi, hỉ xả, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền
định, trí huệ. Tại sao vậy, vì Bồ Tát suy nghĩ rằng ta từ quá khứ trong vô
lượng vô biên kiếp thọ nhiều đời rất khổ trong các địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ,
Nhơn Thiên, các thân trong lục đạo ấy làm những việc ác chẳng lợi ích mình mà
cũng chẳng lợi ích cho người, làm ác thọ khổ rất lớn ở lục đạo trong vô lượng vô
biên đời như vậy mà còn chịu được, huống là nhẫn chịu sự khổ để tăng trưởng pháp
lành lợi ích mình lợi ích cho người, nên ta quyết định chẳng rời bỏ tâm Bồ đề
dầu phải bị ác hại trong vô lượng vô biên đời. Bồ Tát lại nghĩ rằng lúc người
thật hành pháp lành thì phần nhiều có ác pháp đến làm trở ngại nếu ta không nhẫn
chịu thì làm sao thật hành các pháp lành được. Người ban ta sự ác hại ta cho
người lợi lành. Người ban ta dao gậy chém đập ta cho người vô thượng nhẫn
nhục. Nếu đại Bồ Tát suy nghĩ được như vậy thì phải biết chẳng lâu sẽ được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bồ Tát suy nghĩ như vậy thì có thể nhẫn chịu được
ba sự ép nơi thân khẩu và ý.
Thế nào là ép thân ?
Bồ Tát lúc thân thể bị chém đập thì y theo pháp mà thuận với người ác ấy để
thành tựu đầy đủ sáu Ba la mật. Thế nào là Bồ Tát bị đập chém mà được đầy đủ
sáu Ba la mật ? Nếu lúc Bồ Tát bị chém đập chẳng tiếc thân mạng đó là đầy đủ
Đàn na Ba la mật, với người ác ấy tu tập từ tâm chẳng giận thù đó là đầy đủ Thi
Ba la mật, chẳng đem sự tổn hại độc ác để đáp trả lại người ác ấy đó là sằn đề
Ba la mật, vì các chúng sanh mà siêng tu tinh tiến trọn chẳng rời bỏ tâm Bồ đề
đó là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật, lúc bị hại như vậy mà tâm không loạn động
chẳng mất chánh niệm tâm ý thanh tịnh đó là Thiền na Ba la mật, quán thân vô
thường khổ vô ngã như cỏ cây ngói đá đó là đầy đủ Bát nhã Ba la mật, vì đầy đủ
sáu Ba la mật rồi ép mà chẳng hư hoại Bồ đề tâm, đây gọi là ép thân.
Thế nào là ép miệng ?
Nhịn chịu tất cả lời ác mắng nhục hoặc chẳng thiệt, chỉ tự trách mình phiền não
kiết sử chẳng hề oán ghét người, vì các chúng sanh mà tu tập từ bi. Lúc đại Bồ
Tát tu tập nhịn chịu lời mắng nhục như vậy thì đầy đủ sáu Ba la mật. Lúc ấy đại
Bồ Tát nghĩ rằng người này vì xan tham mà gần kề ác hữu nên có ác tâm ấy, ta vì
phá tâm xan tham tu tập bố thí gần kề thiện hữu nên nay ta có thể bỏ tâm giận
hờn thù ghét đó là đầy đủ Đàn na Ba la mật. Lúc ấy đại Bồ Tát nghĩ rằng người
nầy không tin nghiệp quả phá giới mắng chửi ta, còn ta tin nghiệp quả thọ trì
tịnh giới tu vững tâm Bồ đề hộ trì chánh pháp tùy thuận chúng sanh đó là đầy đủ
Thi Ba la mật. Lúc ấy đại Bồ Tát nghĩ rằng người này giải đãi chẳng tu tập pháp
lành nên có ác tâm mắng nhiếc ta, còn ta siêng tu tinh tiến các pháp lành bỏ rời
tâm sân, nơi pháp lành ta chẳng hề nhàm đủ, nay ta nên lập phương tiện cho người
này trước ngồi dưới cội Bồ đề rồi sau ta mới thành quả Bồ đề đó là đầy đủ Tinh
tiến Ba la mật. Lúc ấy đại Bồ Tát nghĩ rằng người nầy thất niệm cuồng loạn
phóng dật bị phiền não ô nhiễm nên sanh ác tâm mắng nhiếc ta, nay ta phá hoại
tất cả phiền não vì các ác chúng sanh nầy mà vững phát tâm Bồ đề, nếu các chúng
sanh đếu thanh tịnh cả thì còn có nhơn duyên gì mà ta phát tâm Bồ đề, vì vậy nên
chuyên tâm duyên niệm Bồ đề tâm chẳng loạn động đó là đầy đủ Thiền Ba la mật.
Lúc ấy đại Bồ Tát lại nghĩ rằng người nầy chấp ngã ngã sở chúng sanh thọ mạng sĩ
phu, còn ta thì y dựa pháp giới trong pháp giới ai mắng ai chịu cũng chẳng thấy
có một pháp nào là mắng là kẻ mắng đó là đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Lúc bị người
mắng nhiếc nhục mạ mà có thể chí tâm thọ trì tu hành năm Ba la mật như vậy thì
đồng thời đầy đủ Nhẫn Ba la mật. Đây gọi là ép khẩu.
Thế nào là ép ý ? Bồ
Tát phát Bồ đề tâm chẳng sợ chúng ma mà thối tâm, chẳng sợ tất cả chúng tà kiến
dị kiến mà thối tâm, chẳng sợ những sự đau khổ nơi địa ngục súc sanh ngạ quỷ mà
thối tâm, nếu thấy có hình tượng Phật đến bảo rằng ngươi chẳng có khả năng phát
tâm Bồ đề đạo Bồ đề rất khó tu khó được chẳng bằng ngươi sớm tu pháp Thanh Văn
thừa mau chứng Niết bàn hưởng an lạc lớn, nghe lời trên đây Bồ Tát liền nghĩ
rằng đạo Bồ đề hoặc khó hay dễ ta vẫn vững tâm chẳng thối ta quyết tự có khả
năng sẽ đến ngồi tòa kim cương dưới cội Bồ đề, trước kia ta vì tất cả chúng sanh
mà phát tâm nguyện sẽ đem pháp Đại thừa vô thượng ban cho họ nay sao ta lại khi
dối họ mà thối tâm, ta phải tuỳ thuận tâm chư Phật chịu đựng những sự ép tâm ép
ý như vậy giữ vững tâm đại Bồ đề càng thêm tinh tiến tu tập đạo vô thượng để
khỏi khi phụ chư Phật nhơn thiên đại chúng và với chính mình, đây gọi là ép tâm
ý".
Muốn tuyên lại nghĩa
nầy đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Hướng đến
Bồ đề tâm chẳng hoại
Đại từ đại
bi cũng chẳng hư
Cũng chẳng
đoạn tuyệt dòng Tam bửu
Vô lượng
trang nghiêm vì Bồ đề
Vì được
thập lực tứ vô úy
Ba mươi
hai tướng tám mươi tốt
Trong vô
lượng đời bố thí của
Cũng chịu
các thứ khổ não lớn
Vì được
Tam bửu các công đức
Nên trì
chánh pháp vì chúng nói
Vì độ
chúng sanh khỏi sanh tử
Do đó chịu
được các sự khổ
Mười
phương thế giới ác chúng sanh
Cầm nắm
dao gậy chém đập tôi
Trọn chẳng
động tâm vững Bồ đề
Vì thương
tất cả chúng sanh vậy
Trong vô
lượng đời chịu khổ não
Mà chẳng
lợi mình chẳng lợi người
Nay tôi
nhẫn khổ được lợi ích
Cũng được
vô lượng Phật công đức
Vì công
đức Phật mà nát thân
Như hạt mè
nhỏ lòng chẳng hối
Cũng chẳng
thối tâm đại Bồ đề
Chịu nhiều
đau khổ vì Phật pháp
Đi đứng
ngồi nằm nhớ Bồ đề
Nội tâm
tịch tĩnh lìa phiền não
Không hế
sanh lòng giận ghét người
Chỉ nên
xét trách mình không trọn
Trong ba
ác đạo chịu nhiều khổ
Vì các
chúng sanh cầu Phật đạo
Chẳng cầu
Nhơn thiên với Nhị thừa
Đành cam
chịu khổ vì chúng sanh
Ở trong
loài người chịu khổ não
Chẳng bằng
phân ngàn của địa ngục
Dầu chịu
khổ lớn ba ác đạo
Cũng chẳng
thối thất tâm Bồ đề
Quán thân
vô thường và vô ngã
Tánh thân
tứ đại như rắn độc
Chí tâm
buông bỏ thân độc nầy
Hay được
trí huệ đạo vô thượng
Lưu chuyển
lục đạo chịu nhiều khổ
Do chẳng
quán xét thân chơn thiệt
Bồ Tát hay
quán thân chơn thiệt
Do đây lìa
hẳn các khổ não
Lúc làm
điều ác ít trở ngại
Còn tu
pháp lành nhiều chướng nạn
Chư Phật
Thế Tôn chứng biết tôi
Nên tôi
vui lòng chịu đựng khổ
Tôi nay
nhẫn được khổ hại ấy
Thân khẩu
và ý khổ vô lượng
Do duyên
cớ nầy tâm Bồ đề
Bị ép đè
cũng chẳng lay động
Xả thân có
đủ Ba la mật
Với thân
chẳng tham là Đàn na
Với người
ác hại có tâm từ
Đây là có
đủ trì giới độ
Chém thân
nhẫn chịu không hề giận
Có đủ Nhẫn
nhục Ba la mật
Lúc thân
bị khổ tâm không động
Đây là đầy
đủ Tỳ lê gia
Vững tâm
Bồ đề vui tịch tĩnh
Thiền Ba
la mật do đầy đủ
Quán thân
vô ngã vô ngã sở
Bát nhã do
đây được đầy đủ
Nếu ta làm
được trang nghiêm nấy
Chẳng lâu
chắc được Vô thượng đạo
Nếu ta
chẳng dứt ác khẩu nghiệp
Làm sao
phá hoại các phiền não
Nếu ta
điều phục thân khẩu ý
Thì hay
nhẫn được các khổ não
Hay phá
tất cả các chúng ma
Với các tà
ác ta chẳng động
Nếu muốn
đủ sáu Ba la mật
Phật vô sở
úy và thập lực
Có được vô
thượng vô giá bửu
Nên học
điều phục thân khẩu ý.
Nầy thiện nam tử Hải Huệ ! Thế
nào gọi là xỏ tâm Bồ đề ?
Bồ Tát đã phát tâm Bồ đề rồi
thì trọn chẳng sanh lòng tương tợ ngã mạn, chẳng trụ trước Bồ đề tâm, chẳng tham
Bồ đề tâm, chẳng ái Bồ đề tâm, chẳng quán Bồ đề tâm. Được như vậy thì làm cho
tâm tịch tĩnh quán thâm pháp giới quán pháp chư Phật. Thâm pháp giới ấy là thập
nhị nhơn duyên xa lìa nhị biên, tất cả các pháp tánh nó tự không có ngã, quán
nơi ngã tánh tất cả pháp tánh rỗng không không có chủ an trụ nơi không tam muội,
vô tướng tam muội, vô nguyện tam muội. Biết các hành pháp không bị tạo tác,
quán sắc ấm như bọt nước, thọ ấm như bong bóng nước, tưởng ấm như dương diệm,
hành ấm như thân cây chuối, thức ấm như ảo huyễn. Quán thập bát giới không có
tạo tác không có động diêu. Quán lục nhập như điếc như đui tâm không có tạm
dừng ở. Kiết sử kiêu mạn không có chỗ phát sanh. Tất cả các pháp không có hai
không có phân biệt là nhứt vị, nhứt thừa, nhứt đạo, nhứt nguyện. Quán tất cả âm
thanh không có tướng âm thanh, tất cả âm thanh đều có thứ đệ chẳng hiệp nhau.
Tất cả các pháp chẳng thể tuyên nói được. Biết rõ tướng khổ quả, tập nhơn không
có ngã sở, nơi diệt đế chẳng tăng giảm, biết đạo đế rốt ráo không có chướng
ngại. Quán thân niệm xứ, biết khứ lai thọ, niệm tâm sanh diệt, biết rõ pháp
giới. Quán pháp giới chẳng phải giới nên tu tứ chánh cần, vì muốn tự tại nên tu
tứ như ý, lìa các phiền não gọi là tín căn, ưa thích tịch tĩnh gọi là tinh tiến
căn, vì chẳng phải có niệm nên gọi là niệm căn, vì chẳng phải tư duy nên gọi là
định căn, xa lìa tất cả gọi là huệ căn. Vì chẳng tuỳ theo người nên gọi là tín
lực, vì không có chướng ngại nên gọi là tinh tiến lực, vì chẳng thối chuyển nên
gọi là niệm lực, tâm được tự tại gọi là định lực, chẳng quán thiện ác gọi là huệ
lực. Vì chẳng phóng dật nên gọi là niệm giác phần, vì nhập vào các pháp nên gọi
là trạch pháp giác phần, vì như pháp tu hành nên gọi là tinh tiến giác phần,
thân tâm tịch tĩnh gọi là trừ giác phần, vì như pháp tu hành nên gọi là tinh
tiến giác phần, vì xa lìa ác nên gọi là hỷ giác phần, thân tâm tịch tĩnh gọi là
trừ giác phần, biết thiệt tam muội gọi là định giác phần, chẳng thấy có hai gọi
là xả giác phần. Xa lìa các kiến chầp gọi là chánh kiến, lìa các giác quán gọi
là chánh tư duy, biết rõ các tánh âm thanh gọi là chánh ngữ, thân khẩu và ý
chẳng tham trước gọi là chánh nghiệp, lìa tâm tật đố gọi là chánh mạng, chẳng
tăng chẳng giảm gọi là chánh tinh tiến, nơi thiện nơi bật thiện chẳng nhớ nghĩ
gọi là chánh niệm, quán các tâm giới gọi là chánh định. Tánh thiệt tướng ấy
tánh nó tịch tĩnh. Về nghĩa rốt ráo ấy gọi là vô thường, là khổ, là vô ngã, là
giả danh, là thanh tịnh, là đại tịnh. Hay điều tâm thì gọi là bố thí, thân tâm
mát mẻ thì gọi là trì giới, các pháp vô thường thì gọi là nhẫn nhục, siêng tu
trí ấy thì gọi là tinh tiến, nội ngoại thanh tịnh thì gọi là chánh định, vì quán
chơn thiệt nên gọi là trí huệ. Biết tất cả chúng sanh tâm tánh vốn thanh tịnh
đây gọi là từ, quán tất cả pháp bình đẳng như hư không đây gọi là bi, dứt tất cả
hỉ đây gọi là hỉ tâm, xa lìa tất cả hành đây gọi là xả tâm. Tất cả các pháp
thuở quá khứ nhiều thứ, thuở vị lai thanh tịnh, thuở hiện tại không có
ngã.
Nầy thiện nam tử ! Nếu có thể
quán sát biết rõ được các pháp như vậy đây gọi là xỏ Bồ đề tâm bửu. Bồ Tát quán
sát các pháp như vậy rồi thứ đệ được nhứt thiết pháp tự tại đà la ni.
Nầy thiện nam tử ! Như mặt
nhựt nguyệt chẳng có tâm nghĩ qua lại chiếu soi, do nơi thế lực phước đức của
các chúng sanh mà nó tự qua lại phá các tối tăm.
Cũng vậy, đại Bồ Tát nếu có
thể quán sát biết rõ các pháp như vậy thì chẳng có suy nghĩ rằng tôi sẽ làm lợi
ích vô lượng chúng sanh mà làm cho chúng sanh được lợi ích lớn.
Nầy thiện nam tử ! Nếu đại Bồ
Tát có thể quán sát được như vậy thì gọi là Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la
mật. Tại sao, vì nhập định mới có thể quán sát được như vậy mà tâm tán loạn thì
chẳng thể được. Định ấy là Thiền Ba la mật và quán ấy là Bát Nhã Ba la mật.
Như vậy mới có thể quán sát chơn thiệt thấy rõ ràng tất cả pháp tướng. Thế nào
gọi là thấy rõ tất cả pháp tướng ?
Tất cả pháp tướng ấy gọi là
tướng không có tướng. Nói không có tướng ấy là vô tác, chính vô tác nầy gọi là
tướng. Nếu có thể dứt hẳn vô tướng như vậy thì gọi là tướng không có
tướng.
Lại vô tướng ấy gọi là tướng
vô sanh, tướng không có tướng ấy gọi là tướng vô diệt. Vô sanh vô diệt gọi là
tướng không có tướng không có tướng. Nếu thấy vô sanh, vô diệt, vô trụ, vô
nhứt, vô nhị, vô sanh, vô tranh, vô hữu bất động bất chuyển, biết rõ pháp tánh,
đây gọi là chơn tánh là pháp tánh là thiệt tánh.
Nầy thiện nam tử ! Nếu đại Bồ
Tát chơn thiệt biết các pháp như vậy thì gọi là trụ chẳng phải trụ".
Lúc đức Thế Tôn nói pháp ấy có
mười hai na do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, một vạn
sáu ngàn vị Thiên tử được vô sanh nhẫn. Muốn tuyên lại nghĩa ấy đức Thế Tôn nói
kệ rằng :
Hay phá
tất cả các pháp tướng
Thanh tịnh
tâm Vô thượng Bồ đề
Thì được
chẳng chấp tất cả pháp
Thấy rõ
các pháp giới thậm thâm
Cũng chẳng
kinh sợ nơi Niết bàn
Do vì
chẳng sợ nơi nhơn duyên
Thì hay
tăng trưởng các Phật pháp
Tin rõ nơi
nhơn và quả báo
Mười hai
nhơn duyên cũng tin rõ
Xa lìa nhị
biên kiến đoạn thường
Tuỳ ý vì
người nói chánh pháp
Nơi thường
vô thường tâm chẳng trước
Lại hay
diễn nói nơi trung đạo
Biết tất
cả pháp lành là tánh không
Không có
chúng sanh không thọ mạng
Tất cả các
pháp không vô tướng
Lại cũng
không có thứ đệ sanh
Tánh nó
bổn lai thường tịch tĩnh
Không có
năng tác như hư không
Chẳng thấy
tất cả các pháp tướng
Biết hiểu
rõ ràng không có tánh
Xem sắc và
thọ như bọt bóng
Tưởng và
hành như diệm chuối cây
Tâm như ảo
huyễn tứ đại không
Lục nhập
thấy như kẻ mù điếc
Còn xem
tâm ý không nội ngoại
Tâm không
trụ xứ giới không hai
Chẳng
trước các pháp sắc sắc tướng
Dầu biết
thấy rõ không kiêu mạn
Xem tất cả
pháp đều bình đẳng
Một vị một
thừa một đạo nguồn
Hay biết
chơn thiệt nghĩa như vậy
Rành rõ
hay quán các pháp giới
Không có
âm thanh hay quán thanh
Không có
tâm ý hay quán tâm
Không có
văn tự hay quán văn tự
Đây là
chơn thiệt biết pháp giới
Tất cả
pháp nghĩa chẳng nói được
Âm thanh
văn tự chẳng nói được
Chơn thiệt
biết khổ tập diệt đạo
Đầy đủ
nhiếp tâm tứ niệm xứ
Nơi các
pháp giới không phân biệt
Tâm ấy hay
được đại tự tại
Xa lìa tất
cả các phiền não
Tu tứ
chánh cần chuyên tinh tiến
Vì được vô
lượng đại tự tại
Tâm siêng
tu tập tứ như ý
Nơi tất cả
pháp chẳng tham trước
Vì pháp
như vậy tu tín căn
Thường
thích an trụ đại tịch tĩnh
Vì vậy tu
tập tinh tiến căn
Tâm không
niêm lự biết chơn thiệt
Vì vậy tu
tập chánh niệm căn
Hay điều
phục được các tâm tưởng
Vì vậy tu
tập chánh định căn
Vì hay
quán sát các pháp giới
Vì vậy tu
tập trí huệ căn
Vì muốn
biết rõ các pháp giới
Vì vậy tu
tập thất giác phần
Chẳng quán
các pháp số một hai
Vì vậy tu
tập bát chánh đạo
Hay đem
của cải thí tùy ý
Cũng hay
tùy ý thọ trì giới
Còn hay
thanh tịnh nội và ngoại
Đây thì
gọi là đại thần thông
Tất cả các
pháp bổn tánh tịnh
Vì vậy tu
tập đại từ bi
Dứt tất cả
hỉ các phiền não
Vì vậy tu
tập tâm hoan hỷ
Tất cả các
pháp bổn tánh tịnh
Khứ lai
hiện tại cũng thanh tịnh
Nếu quán
các pháp không sanh diệt
Đây là trí
huệ chơn thiệt biết.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|