× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 52 LII. Pháp Hội Bửu Nữ - Thứ 52 (3)

Nầy Bửu Nữ! Ðại Bồ Tát vì thành tựu vô lượng công đức như vậy nên được ba mươi hai tướng ấy”.

Bửu Nữ lại bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát thiệt là bất khả tư nghị. Lành thay đức Thế Tôn nói rất tốt về Phật pháp”.

Ðức Phật phán dạy: "Nấy Bửu Nữ! Ðúng như lời ngươi nói. Tất cả chúng sanh nghe những nghĩa nầy thì được vô lượng công đức, nghe rồi mà tin thì cũng được vô lượng công đức”.

Lúc đức Phật nói pháp nầy, mười phương vô lượng vô biên thế giới chấn động sáu cách, vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề, năm ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, trên hư không chư Thiên mưa các thứ hoa trời cùng trỗi các loại kỹ nhạc trời để cúng dường đức Phật. Những chúng sanh nào đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật vun trồng căn lành mới được nghe thập lực tứ vô sở úy thập bát bất cộng pháp và tam thập nhị tướng của Như Lai. Người ấy nghe rồi có thể sanh lòng tin sâu, tin rồi có thể ở giữa đại chúng làm sư tử hống mà diễn nói pháp nầy. Tại sao vậy, vì những hạng người hạ liệt thì chẳng được nghe, dầu được nghe họ cũng vì tất sanh lòng tin, bực thượng nhơn trì giới trí huệ đầy đủ mới có thể được nghe, nghe rồi kính tin, tin rồi không lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề.

Bửu Nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Phật Như Lai bất khả tư nghị, Pháp và Tăng cũng bất khả tư nghị, nghe và tín kinh nầy cũng bất khả tư nghị, nếu có người kính tin kinh nầy, thì người ấy quyết định được Vô thượng Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát tu hành pháp hạnh?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Bửu Nữ! Ðại Bồ Tát chẳng bỏ hàng thân thuộc bạn bè, biết ơn báo ơn, thương xót tất cả, nếu có ai quy y thì trọn không vứt bỏ, chí tâm nhớ nghĩ đạo Bồ đề, tu hạnh nhẫn nhục, hay xả thí vật khó xả thí, nhiếp lấy chúng sanh, từ tâm hộ trì tịnh giới, tư duy nghĩa ý pháp hành, hộ trì chánh pháp, thích chánh pháp, nhớ chánh pháp, thọ trì chánh pháp, thích tịch tĩnh ở riêng chỗ rảnh rang vắng vẻ, với đạo Bồ đề lòng không thối không hối, khéo thủ hộ chúng sanh thanh tịnh thân khẩu ý, vì tứ vô lượng tâm mà phát đại nguyện, thường khuyên bảo chúng sanh hướng về đạo Bồ đề, lúc giảng thuyết luận bàn thì trước tán thán Ðại thừa, chẳng có trước hứa hẹn người mà sau sanh lòng hối, thanh tịnh phẩm hạnh tri túc thiểu dục chẳng xan chẳng đố chẳng dứt thánh chủng, tâm không hề tranh cãi, biết rõ nhơn quả, có đủ tin văn giới thí tàm quí và trí huệ, gần kề thiện hữu, thuận theo lời dạy của bực Sư trưởng, tâm không kiêu mạn, cung kính lễ lạy các bực trưởng lão có đức, rời lìa tham sân si ngã và ngã sở, thường niệm Phật Pháp Tăng thí giới và chư Thiên, lúc được cung kính cúng dường tâm không cao ngạo, thường siêng tu hành sáu Ba la mật, ba môn giải thoát và các thiện phương tiện, chẳng thấy các tướng ngã thường chúng sanh thọ mạng sĩ phu, thường tu Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và bát chánh đạo, đây gọi là Bồ Tát tu hành pháp hạnh.

Lại Bồ Tát pháp hành là không có nhãn không có sắc không có sắc tưởng hành, không có nhĩ không có thanh không có thanh tưởng hành, không có tỷ không có hương không có hương tưởng hành, không có thiệt không có vị không có vị tưởng hành, không có thân không có xúc không có xúc tưởng hành, không có ý không có pháp không có pháp tưởng hành. Lại nữa, chẳng phải sắc hành chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc hành, chẳng phải sắc khổ hành chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc khổ hành, chẳng phải sắc ngã hành chẳng phải chẳng sắc ngã hành, chẳng phải sắc không hành chẳng phải chẳng sắc không hành, chẳng phải sắc vô tướng hành, chẳng phải sắc vô nguyện hành, chẳng phải sắc vô tác hành, chẳng phải sắc tánh hành, chẳng phải sắc thiệt hành, chẳng phải sắc tịch tĩnh hành, chẳng phải sắc sanh hành, chẳng phải sắc xuất hành, chẳng phải sắc nhơn duyên hành, chẳng phải sắc tụ hành, đây gọi là pháp hành. Như với sắc, với thọ với tưởng với hành và với thức cũng như vậy.

Nầy Bửu Nữ! Nếu không có Ngũ ấm, Lục nhập, Thập bát giới hành như vậy thì gọi là pháp hành.

Không có Dục giới hành, không có Sắc giới hành, không có Vô Sắc giới hành, không có an trụ không có giải thoát thì gọi là pháp hành.

Không có khứ không có lai, không có trụ xứ, không có tâm ý thức, không có kiến văn không có tri thức, không có thân khẩu ý nghiệp, chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp, chẳng phải nhứt chẳng phải nhị, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải cấu tịnh, chẳng phải tụ tán, chẳng phải ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu, chẳng phải đoạn thường, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải thỉ chung, đây gọi là pháp hành, gọi là ngã pháp, gọi là trụ xứ, gọi là pháp tánh, gọi là pháp xứ, gọi là không xứ phi xứ, gọi là cứu cánh xứ, chẳng động chẳng trụ không có tướng dạng hình mạo, không xuất không diệt không có tu hành, không thủ không xả, không lãnh thọ không xả thí. Nếu có thể thấy biết các pháp như vậy thì gọi là chơn trí, là thiệt tri, là pháp tri.

Nấy Bửu Nữ! Nếu thấy Bồ Tát học được như vậy, vì các chúng sanh mà đi trong sanh tử, với Niết bàn không có động chuyển, đây gọi là Bồ Tát chơn thiệt pháp hành”.

Lúc đức Thế Tôn nói pháp nầy, trong pháp hội có tám ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn.

Bấy giờ Bửu Nữ đồng nữ lại dâng các thứ trân bửu vật quí đẹp cúng dường đức Phật mà bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát hành các pháp hạnh như vậy tức là tu hành tất cả Phật hạnh, liền được thọ ký ngồi Bồ đề thọ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Bửu Nữ: "Có phải nhơn giả đã biết Bồ Tát bất thối ấn chăng?”.

Ðồng nữ Bửu Nữ nói kệ đáp rằng:

Các chúng sanh giới và pháp giới

Nếu bình đẳng xem không có khác

Chẳng sanh phân biệt số nhứt nhị

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Quá khứ vị lai và hiện tại

Mười phương thế giới các Thế Tôn

Thảy đều bình đẳng quán pháp giới

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Thấy hữu vi giới đều vô thường

Hữu lậu vô lậu cũng như vậy

Biết tất cả pháp bổn tánh tịnh

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Thấy các sanh tử không số lượng

Chẳng thể đếm kể biết số ấy

Nếu trong một niệm mà biết được

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Tất cả thế gian các pháp giới

Và cùng xuất thế các thánh pháp

Nếu hay bình đẳng rõ chơn thiệt

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Nếu biết rõ được các pháp giới

Và cùng Ba Tuần các ma giới

Thông đạt hai giới vô sai biệt

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Tham dục sân khuể cùng ngu si

Tất cả phiền não của chúng sanh

Biết từ điên đảo nhơn duyên sanh

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Pháp sanh tử cùng với Niết bàn

Vô thượng chánh đạo và Bồ đề

Quan sát pháp ấy vô sai biệt

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Thấy biết ngũ ấm thập bát giới

Và lục nhập đồng tánh Bồ đề

Các pháp như vậy không hai tánh

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Ðịa thủy hỏa phong và sở tạo

Thấy nó dường như hư không giới

Như vậy thì được chơn thiệt ấn

Cũng như mười phương chư Phật ấn

Như nhãn giới Bồ đề cũng vậy

Hai pháp bình đẳng vô sai biệt

Tự mình thọ trì cũng dạy người

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Biết tất cả tâm của chúng sanh

Hay làm nhơn duyên tất cả tâm

Nhơn duyên như vậy không chướng ngại

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Hay khắp quán sát các chúng sanh

Căn của họ thượng trung hoặc hạ

Hay quán sanh tử tận bỉ ngạn

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Bao nhiêu chữ nghĩa câu vô tận

Trong vô lượng kiếp thường diễn thuyết

Không thể phá hoại chướng ngại được

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Biên tế hư không có thể cùng

Gió mạnh thế gian có thể buộc

Những tâm bất thối của Bồ Tát

Tất cả thế gian chẳng chuyển được

Thành tựu vô lượng đà la ni

Ở trong các pháp chẳng thất niệm

Thứ đệ diễn thuyết các pháp nghĩa

Như từ miệng Phật không có khác

Mười phương thế giới Phật Thế Tôn

Vì độ chúng sanh thuyết vô lượng

Ðều hay thọ trì hiểu thâm nghĩa

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Những pháp được nghe vô lượng kiếp

Như hiện tại nghe mà diễn thuyết

Vô lượng đời học đà la ni

Chúng được vô tận ấn như vậy

Thành tựu đầy đủ tổng trì ấy

Cũng đủ vô thượng chơn trí huệ

Nếu được Bồ Tát bất thối ấn

Thì hay tuyên nói pháp như vậy

Nếu quán tất cả pháp rỗng không

Cũng chẳng thân cận chẳng viễn ly

Nếu thành tựu được bất thối tâm

Thì biết người nầy có không ấn

Tất cả các pháp như hư không

Tánh nó bổn lai không sanh diệt

Nếu biết rõ được pháp giới ấy

Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn

Các pháp đều từ nhơn duyên có

Rời các nhơn duyên không pháp giới

Nếu biết rõ được nhơn duyên sanh

Phải biết là có bất thối ấn

Bao nhiêu oai nghi những sắc thanh

Trong một niệm đều hay thị hiện

Vì muốn giáo hóa các chúng sanh

Ðây là Bồ Tát bất thối ấn

Tâm bố thí rộng như hư không

Trong vô lượng kiếp chẳng cùng tận

Thành tựu vô lượng các công đức

Ðây là Bồ Tát bất thối ấn

Tu tập tịnh giới vì Phật giới

Chứng được Phật giới như hư không

Thành tựu như vậy vô thượng giới

Ðây là Bồ Tát bất thối ấn

Tất cả chúng sanh có cấm giới

Và hữu học giới vô học giới

Dầu có như vậy vô lượng giới

Chẳng bằng bất thối một phần nhỏ

Nếu được tối thượng vô sanh nhẫn

Thành tựu vô lượng cũng vô biên

Nếu được như vậy vô sanh nhẫn

Như quá khứ Phật đã chứng được

Vì chúng sanh phát thiện trang nghiêm

Trong vô lượng đời chẳng thôi nghỉ

Siêng thường tu tập hạnh tinh tiến

Ðây là Bồ Tát bất thối ấn

Thường thích tu tập các thiền định

Cũng vì chúng sanh tuyên nói pháp

Dầu lại thị hiện các oai nghi

Mà nội tâm ấy không rời định

Ðầy đủ vô thượng chánh tri kiến

Xa lìa phiền não các tập khí

Nếu có thành tựu bất thối tâm

Thì hay gần kề cảnh giới Phật

Ðầy đủ ba thứ đại thần thông

Cũng đủ Như Lai thiện phương tiện

Nếu có thành tựu bất thối tâm

Người ấy sắp được chánh giác ấn

Tất cả chúng sanh chẳng biết được

Tâm hành cảnh giới của người ấy

Tu vô lượng hạnh vì chúng sanh

Ðây là Bồ Tát bất thối ấn

Kỳ thiệt chưa được vô thượng đạo

Mà hay thị hiện thân Như Lai

Giáng sanh thành Phật chuyển pháp luân

Cũng lại thị hiện đại Niết bàn

Chưa bỏ Bồ Tát bất thối ấn

Cũng hay chứng được ấn như vậy

Cũng như hư không không có biên

Phật ấn đã được cũng như vậy”.

Lúc Bửu Nữ đồng nữ nói kệ ấy, Ðại Thiên thế giới chấn động sáu cách, trong pháp hội có năm ngàn Bồ Tát được bất thối ấn.

Ðức Thế Tôn khen rằng: "Lành thay, lành thay! Bửu Nữ nói Bồ Tát bất thối ấn rất hay”.

Tôn giả Tu Bồ Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Bửu Nữ quyết định đã được bất thối chuyển ấn, nếu chưa chứng được thì làm sao có thể tuyên nói như vậy được”.

Ðức Phật phán dạy: "Ðúng như vậy, nầy Tu Bồ Ðề như lời ngươi nói, Bửu Nữ ấy từ lâu đã được bất thối ấn, trí nhẫn thành tựu đã cùng tận bờ đáy Ðại thừa thậm thâm”.

Bửu Nữ lại bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao gọi là Ðại thừa?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Bửu Nữ! Gọi là Ðại thừa ấy, vì thừa ấy rộng lớn, vì với tất cả các chúng sanh không có quái ngại, vì là căn bổn của thiện căn Nhứt thiết trí, vì không có các phiền não kiết sử vô minh, vì quang minh ấy không chỗ nơi nào mà không chiếu khắp, vì vòng khắp các bên của nó đều có nhãn mục, vì bổn tánh nó thường thanh tịnh không hề có ô nhiễm, vì dứt sạch các phiền não tất cả tập khí, vì có đủ các điều như vậy nên gọi là Ðại thừa. Lại vì hộ trì cấm giới nên gọi là thanh tịnh, vì tu tập chánh định nên gọi là an trụ, vì tu tập trí huệ nên gọi là vô lậu, vì tu giải thoát nên gọi là không trói buộc, vì chỉ bày tất cả các pháp bình đẳng vô nhị nên gọi là giải thoát, vì trí nhiếp thập lực nên gọi là vô năng động, vì đủ bốn vô sở úy nên gọi là không kinh sợ, vì nhiếp lấy mười tám pháp bất cộng nên gọi là vô ngại, vì tu tập đại từ nên gọi là bình đẳng, vì phá hoại tất cả ma chúng nên gọi là tối thắng, vì dẹp phiền não ma nên gọi là tịch tĩnh, vì phá hoại ngũ ấm ma nên gọi là bất khả sổ, vì phá hoại tử ma nên gọi là thường trụ, vì đầy đủ Ðàn Ba la mật nên gọi là phú túc, vì đầy đủ Thi la Ba la mật nên gọi là vô nhiệt, vì đầy đủ Sằn đề Ba la mật nên gọi là vô oán, vì đầy đủ Tinh tiến Ba la mật nên gọi là vô động, vì đầy đủ Thiền Ba la mật nên gọi là vô lậu vô chuyển, vì đầy đủ Bát Nhã Ba la mật nên gọi là thắng tất cả thế gian và xuất thế gian, vì đầy đủ Phương tiện Ba la mật nên gọi là nhiếp lấy tất cả các thừa, vì đoạn dứt tất cả các hữu nên gọi là vô hữu, vì có nhơn nơi bát chánh đạo nên gọi là đặt đủ cánh định huệ, vì đi qua lại vô ngại điều phục các căn nên gọi là đại thần thông, vì tu tứ niệm xứ và tứ chánh cần nên thấy được tất cả chư Phật thế giới và xa lìa ác pháp gần kề thiện pháp, vì tu thất giác phần nên xa lìa tất cả phiền não kiết sử, vô vi, vô lậu, vô thắng, vô thượng, vô kiến đảnh, vô năng tri, vô chướng ngại, nên cũng không có kiến văn không có chỗ nhập xuất, là đại chúng đại đường, là nhứt vị, là bất tác, không có số lượng bình đẳng không có hai, được danh hiệu lớn, mười phương vô ngại, được tất cả nhơn thiên cung kính, thành tựu vô lượng vô biên công đức, dứt hẳn tất cả xan lẫn phá giới tổn hại giải đãi loạn tâm vô minh, hay làm cho tất cả chúng sanh được đa văn được an lạc, dứt tất cả khổ khiến làm thiện nghiệp, được Phật trí, vô ngại trí, vô thượng trí, bình đẳng trí, Nhứt thiết trí. Ðây gọi là Ðại thừa vậy”.

Lúc đức Phật nói pháp ấy rồi có một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ðã phát tâm rồi lại đồng nói rằng: "Nếu có chúng sanh có thể phát tâm Ðại thừa như vậy thì được vô lượng thiện pháp lợi ích”.

Bửu Nữ đồng nữ lại bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Do có chướng ngại gì mà làm cho chúng sanh chẳng mau được Ðại thừa?”.

Ðức Phật phán dạy: "Có ba mươi hai sự có thể làm nhơn duyên chướng ngại : một là thích Thanh Văn thừa, hai là thích Duyên Giác thừa, ba là thích thân Thiên Ðế Thích, bốn là thích thân Phạm Thiên, năm là thích được vui thế gian mà thọ cấm giới, sáu là thích tu một điều thiện, bảy là thường có lòng ganh ghét, tám là có nhiều của cải mà tham lẫn, chín là chẳng thích khuyên bảo người tu pháp lành, mười là có tâm kiêu mạn, mười một là chẳng cầu tâm Bồ đề, mười hai là sợ tâm Bồ đề, mười ba là ở trong một pháp sanh lòng tham trước, mười bốn là tư duy chẳng lành, mười lăm là chẳng có thể gần kề Sư trưởng Hòa thuợng thiện tri thức, mười sáu là phỉ báng các bộ phái khác, mười bảy là chẳng thể thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, mười tám là chẳng thể hộ trì pháp vô thượng, mười chín là được chút ít pháp vị lẫn tiếc chẳng nói dạy người, hai mươi là hiểu được chút ít pháp nghĩa sanh đại mạn, hai mươi mốt là xa lìa tứ nhiếp pháp, hai mươi hai là chẳng thể cung kính bạn đồng thầy đồng học, hai mươi ba là chẳng thích nhớ niệm sáu pháp Ba la mật, hai mươi bốn là xa lìa tam tụ, hai mươi lăm là chẳng phát đại nguyện, hai mươi sáu là ít thiện căn, hai mươi bảy là điên đảo hiểu nghĩa, hai mươi tám là chẳng tán thán Tam bửu, hai mươi chín là phỉ báng các sự Bồ đề Ðại thừa, ba mươi là tự chẳng hiểu nghĩa mà chê người nói pháp, ba mươi mốt là chẳng hiểu biết rõ những sự ma, ba mươi hai là thích sanh tử. Ðây là ba mươi hai sự chướng ngại Ðại thừa chẳng cho chúng sanh mau được Ðại thừa.

Nầy Bửu Nữ! Những sự chướng ngại như vậy có đến vô lượng, nay Phật vì ngươi mà nói lược thôi.

Nầy Bửu Nữ! Ðại thừa có vô lượng công đức nên sự chướng ngại cũng có vô lượng. Cũng như Niết bàn công đức vô lượng, sự chướng ngại Niết bàn cũng là vô lượng. Lỗi sanh tử có vô lượng vô biên chính đó là sự chướng ngại Ðại thừa vậy.

Nầy Bửu Nữ! Nếu người có thể xa lìa vô lượng ác pháp ấy nên biết người ấy liền được Ðại thừa.

Nầy Bửu Nữ! Nếu Bồ Tát có thể được tâm thanh tịnh nên biết người ấy liền được Ðại thừa".

Bửu Nữ đồng nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh thế nào mau được thành tựu vô thượng Ðại thừa?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Bửu Nữ! Có ba mươi hai sự chúng sanh tu tập thì có thể mau được Ðại thừa vô thượng.

Một là chúng sanh chẳng thỉnh mà tự qua hiến giúp, hai là thấy người được phước đức không sanh lòng ganh ghét, ba là chí tâm tu tập vô lượng thiện căn, bốn là kinh doanh sự nghiệp cho người chẳng sanh sầu não, năm là tâm không trược loạn thân khẩu ý thanh tịnh, sáu là chẳng vì lợi dưỡng mà cải đổi oai nghi, bảy là an trụ đúng như thuyết, tám là với các chúng sanh tâm luôn thanh tịnh, chín là trọn chẳng buông bỏ tâm Bồ đề, mười là thanh tịnh trang nghiêm Ðàn Ba la mật, mười một là thanh tịnh Thi Ba la mật vì thương xót kẻ hủy cấm giải vậy, mười hai là thanh tịnh Nhẫn Ba la mật vì chẳng tiếc thân mạng vậy, mười ba là thanh tịnh Tinh tiến Ba la mật vì được thập lực tứ vô sở úy vậy, mười bốn là thanh tịnh Thiền Ba la mật vì xa lìa phiền não vậy, mười lăm là thanh tịnh Bát Nhã Ba la mật vì trừ tập khí phiền não vậy, mười sáu là tu dũng kiện định vì phá các ma nghiệp vậy, mười bảy là chí tâm độ thoát các chúng sanh, mười tám là tu tứ nhiếp pháp, mười chín là tâm thường bình đẳng, hai mươi là chẳng bỏ tất cả chúng sanh, hai mươi mốt là biết ơn báo ơn, hai mươi hai là hộ trì chánh pháp, hai mươi ba là tu tập pháp trợ đạo chẳng thôi nghỉ, hai mươi bốn là với các pháp lành tâm không nhàm đủ, hai mươi lăm là phá kiêu mạn, hai mươi sáu là cúng dường Tam bảo, hai mươi bảy là nơi tất cả pháp không sanh lòng phỉ báng, hai mươi tám là giỏi hiểu mười hai thâm nhơn duyên, hai mươi chín là có đủ thất thánh tài, ba mươi là nơi tất cả pháp được tự tại, ba mươi mốt là tu sáu thần thông, ba mươi hai là tu tập định tuệ. Ðây gọi là ba mươi hai sự mà chúng sanh tu tập thì mau được Bồ đề vậy”.

Lúc đức Phật nói pháp nầy có bảy vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, một vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn. Chư Thiên dùng hương hoa kỹ nhạc cúng dường đức Phật tôn trọng tán thán mà nói lời rằng: "Nếu có ai được nghe các kinh như vậy thì nên biết người ấy quyết định được Vô thượng Bồ đề”.

Lúc ấy, Phạm Thiên, Ðạo Lợi Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên đồng bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay đức Như Lai diễn nói vô hạn lượng nghĩa như vậy, nghĩa liễu nghĩa như vậy, nghĩa phá phiền não như vậy có thể dẹp các nghiệp ma phá các tà kiến có thể hộ trì tất cả chánh pháp vô thượng. Chúng tôi cũng có thể thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết. Nếu đệ tử Phật mà có ai hay thọ trì đọc tụng thơ tả vì người diễn nói rộng thì chúng tôi sẽ vệ hộ người ấy. Nếu có ác quỷ muốn làm hại người ấy chúng tôi sẽ ngăn trở không cho làm hại được”.

Ðức Phật khen chư Thiên rằng: "Lành thay lành thay, nầy chư thiện nam tử! Lúc ấy nếu các người có thể hộ trì đệ tử của Phật thì tức là hộ trì Phật chánh pháp, hộ trì như vậy thì chánh pháp được còn lâu”.

Ðức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng: "Nầy A Nan! Ông nên thọ trì ủng hộ diễn thuyết kinh điển như vậy. Nếu có Bồ Tát trong vô lượng kiếp thích tu tập huệ thí, lại có Bồ Tát thọ trì kinh nầy đọc tụng thơ tả rộng nói cho người tu đại từ bi gồm đem nghĩa kinh nầy khuyên người tu học thì người nầy được phước nhiều hơn người kia và có thể mau được Ðại thừa”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Chơn thiệt pháp nghĩa tỳ ni phương tiện thành tựu phát tâm vô lượng bửu tụ vô lượng đà la ni thập lực tứ vô sở úy bất cộng pháp tụ Bồ Tát Ma ha tát bất thối chuyển ấn quảng thuyết Ðại thừa, cũng gọi là Bửu Nữ sở vấn. Ông nên phụng trì như vậy”.

Tôn giả A Nan tất cả đại chúng Nhơn Thiên nghe đức Phật nói kinh nầy rồi đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

 

Pháp Hội Bửu Nử - Thứ Năm Mươi Hai

Hết

 

--- o0o ---


Xem dưới dạng văn bản thuần túy