Lúc nói kệ
trên đây, có bốn vạn trời người và vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng
Bồ Ðề. Thánh Vương Tịnh Ðức Báo còn trong vạn ức năm cúng dường đức Phật
Phân Biệt Kiến. Sau thời gian cúng dường đức Phật ấy rồi, Thánh Vương nhàm
thế tục mà xuất gia. Ðã xuất gia rồi tư duy bốn câu đó là thiệt cú, pháp
cú, nghĩa cú và điều cú. Trong một ức năm thường tư duy nghĩa của bốn câu
ấy.
Nầy Xá Lợi
Phất! Ông có biết Thánh Vương Tịnh Ðức Báo thuở ấy là ai chăng, chính là
thân đồng nữ Bửu Nữ nầy vậy”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Do nghiệp duyên gì mà thọ thân
đồng nữ nầy ?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả chư Bồ tát chẳng do nơi nữ nghiệp mà thọ
thân nữ, chỉ là dùng sức thần thông mà thị hiện thân người nữ thôi, đó là
vì điều phục các chúng sanh vậy.
Nầy Xá Lợi
Phất! Nay ông cho rằng Bồ tát Bửu Nữ thiệt là thân nữ ư? Chớ có quan niệm
như vậy. Tại sao, vì thọ thân nữ ấy là do sức trí huệ và sức thần thông.
Nầy Xá Lợi
Phất! Bửu Nữ ấy từ lâu trong vô lượng kiếp đã lìa thân nam thân nữ. Thân
ấy chẳng phải quá khứ cũng chẳng phải vị lai hiện tại. Thân ấy tức là
phương tiện thân. Thân phương tiện ấy giáo hóa chín vạn hai ngàn người nữ
ở thế giới nầy phát tâm Vô thượng Bồ Ðề, vì vậy mà thị hiện thân phương
tiện ấy”.
Bửu Nữ nói
với Tôn giả Xá Lợi Phất: "Nay Ðại Ðức có thể dùng thân nữ nhơn để thuyết
chánh pháp chăng?”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nói: "Tôi ở nơi nam thân còn sanh lòng nhàm lìa hối hận huống là
thân nữ”.
Bửu Nữ nói:
"Ðại Ðức Xá Lợi Phất! Nay Ðại Ðức ở nơi nam thân sanh lòng nhàm hối ư?”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nói: "Ðúng như vậy đúng như vậy!”.
Bửu Nữ nói:
"Thưa Ðại Ðức Xá Lợi Phất! Vì cớ ấy nên chư Bồ tát hơn hàng Thanh văn và
Bích Chi Phật. Tại sao, vì chỗ mà hàng Thanh văn các Ngài nhàm hối ấy
chính là chỗ ưa thích của chư Bồ tát chẳng có nhàm hối. Hàng Thanh văn
chẳng cầu các cõi mà nơi ấy chư Bồ tát thọ lạc. Hàng Thanh văn ở nơi các
công đức sanh lòng tri túc còn người Bồ tát thì không có nhàm đủ. Hàng
Thanh văn nhàm lìa phiền não còn người Bồ tát thì ở trong phiền não mà
không e sợ”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi Bửu Nữ: "Do sức lực gì mà hàng Bồ tát lòng không nhàm lìa e
sợ?”.
Bửu Nữ đáp:
"Thưa Ðại Ðức! Ðại Bồ Tát có tám sức lực, do đây nên ở trong đó không có
nhàm lìa e sợ.
Một là từ
lực, vì tâm vô ngại vậy.
Hai là bi
lực, vì điều phục vậy.
Ba là thiệt
lực, vì chẳng dối chư Phật chính mình và các chúng sanh vậy.
Bốn là huệ
lực, vì lìa phiền não vậy.
Năm là phương
tiện lực, vì tâm chẳng hối vậy.
Sáu là công
đức lực, vì vô sở úy vậy.
Bảy là trí
lực, vì phá vô minh vậy.
Tám là tinh
tiến lực, vì phá phóng dật vậy.
Thưa Ðại Ðức!
Ðại Bồ Tát có đủ tám lực nầy nên tâm Bồ tát chẳng nhàm sợ”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi: "Nầy đồng nữ! Nay nhơn giả có đủ tám lực nầy chăng? ”.
Bửu Nữ đáp:
"Thưa Ðại Ðức! Nói là có đủ ấy tức là điên đảo. Ðiên đảo ấy tức là hai
tướng. Hai tướng ấy tức là hữu vi. Hữu vi ấy tức là vô sở hữu. Vô sở hữu
ấy tức là bình đẳng.
Thưa Ðại Ðức!
Nếu là bình đẳng thì thế nào là hữu lực vô lực, thế nào có thể nói số nhứt
nhị.
Thưa Ðại Ðức!
Tất cả pháp đều như hư không. Hư không ấy chẳng thể nói là nội là ngoại là
trung gian, chẳng thể nói là sáng là tối. Như hư không tất cả pháp cũng
đều như vậy. Nếu tất cả pháp đồng như hư không thì thế nào có thể nói là
có lực vô lực là số nhứt nhị.
Thưa Ðại Ðức!
Ðại Bồ Tát cũng có lực cũng không lực. Thế nào là có lực và thế nào là
không có lực?
Thưa Ðại Ðức!
Ðại Bồ Tát không phiền não lực mà có trí huệ lực, không xan lẫn lực mà có
huệ thí lực, không phá giới lực mà có trì giới lực, không sân hận lực mà
có nhẫn nhục lực, không giải đãi lực mà có tinh tiến lực, không loạn ý lực
mà có thiền định lực, không vô minh lực mà có trí huệ lực. Vì vậy mà Bồ
tát lìa ác pháp tu tập thiện pháp, do đây Bồ tát không ác pháp lực mà có
thiện pháp lực”.
Ðức Thế Tôn
khen rằng: "Lành thay, lành thay! Nếu có thiện nam thiện nử nói được như
vậy tức là thiệt thuyết”.
Lúc đồng nữ
Bửu Nữ nói pháp ấy, trong pháp hội có năm trăm Bồ tát thành tựu vô sanh
nhẫn.
Bửu Nữ lại
bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như trong khế kinh nói, đức Như Lai có
thập thần lực, là tức thập lực là Thế Tôn hay ly thập lực mà có Thế Tôn?
Nếu tức thập
lực là Thế Tôn, thì có số lượng là nhị pháp, nếu là nhị pháp tức là vô
thường. Còn nếu ly thập lực mà có Thế Tôn thì sao đức Phật nói tất cả các
pháp bình đẳng.
Bạch đức Thế
Tôn! Nếu trong một lực mà có đủ thập lực thì sao đức Phật chẳng nói bá
lực. Nếu chẳng nói bá thì nên biết rằng một lực chẳng phải thập chẳng phải
bá”.
Ðức Thế Tôn
khen rằng: "Lành thay, lành thay! Như Lai Thế Tôn chẳng phải nhứt chẳng
phải nhị. Nếu chẳng phải nhứt nhị thì sao lại nói thập nói bá.
Ðại Bồ Tát xa
lìa nhứt nhị chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như Lai Thế
Tôn chẳng phải tức thập lực chẳng phải ly thập lực, có thể nói được mười
sự ấy nên gọi đức Như Lai có đủ thập lực. Như Lai nói thập lực ấy, mà
trong một lực có đủ vô lượng lực. Vì lưu bố thế gian mà nói thập lực”.
Bửu Nữ bạch
rằng: "Lành thay đức Thế Tôn! Xin nói rộng thập lực ấy”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Bửu Nữ! Nên chí tâm lắng nghe kỹ, Phật sẽ phân biệt giải thuyết.
Nầy Bửu Nữ!
Lúc Bồ tát tu hành đạo Bồ đề mà còn cầu Thanh văn thừa còn tạo ác nghiệp
thì không bao giờ có. Do tâm vững chắc ấy lúc được Bồ đề thành tựu lực ban
đầu. Thành tựu lực ấy rồi đức Như Lai ở trong đại chúng làm sư tử hống
chuyển chánh pháp luân mà tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn
đều chẳng thể chuyển được.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc ấy Bồ tát tu hành đạo Bồ đề biết rõ các nghiệp tức là một
nghiệp, do sức nầy nên biết rõ tất cả các nghiệp quá khứ vị lai và hiện
tại nghiệp nhơn duyên xứ cùng nghiệp nhơn duyên phi xứ. Ðây là lúc Bồ tát
được Bồ đề thành tựu nghiệp thứ hai.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát biết rõ căn của các chúng sanh rồi
vì họ mà thuyết pháp, do đó là được Bồ đề thành tựu lực thứ ba.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát quán rõ chúng sanh giới rồi vì chúng
sanh mà thuyết pháp, do đó lúc được Bồ đề thành tựu lực thứ tư.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát quán chúng sanh căn thượng trung hạ,
quán rồi liền hiểu mà vì họ thuyết pháp. Do hiểu biết ấy mà lúc được Bồ đề
thành tựu lực thứ năm.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát quán chí xứ đạo, những là hữu vi
đạo, vô vi đạo, Thanh Văn đạo, Duyên Giác đạo, Bồ Tát đạo.Do quán đạo chí
xứ nên lúc Bồ Tát được Bồ đề thành tựu lực thứ sáu.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát cung kính tôn trọng tu tập các thiền
định vì điều phục chúng sanh mà thuyết pháp yếu. Do tu tập thiền định như
vậy nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu lực thứ bảy.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát đối với các thiện căn quá khứ vị lai
và hiện tại chẳng hề phỉ báng nên thành tựu niệm tâm chẳng phóng dật, vì
chẳng phóng dật, nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu lực thứ tám.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc Bồ tát tu hành đạo Bồ đề thấy người chưa học chẳng sanh lòng
khinh khi, còn với chỗ mình đã học chẳng có lòng kiêu mạn, có thể ban cho
chúng sanh trí huệ quang minh. Do ban cho quang minh, nên lúc Bồ tát được
Bồ đề thành tựu lực thứ chín.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát dạy chúng sanh xa lìa các pháp hữu
lậu chẳng cho nó tăng trưởng, dạy chúng sanh tán thán giải thoát tu tập
đạo vô lậu, và Bồ tát cũng vì chúng sanh mà nói đạo vô lậu. Do tu tập đạo
vô lậu như vậy nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu lực thứ mười.
Nầy Bửu Nữ!
Bồ tát tu tập mười lực như vậy do đó có thể, lúc thành Bồ đề đủ có Như Lai
thập lực vậy”.
Bửu Nữ lại
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát tu hành những pháp gì mà được tứ
vô sở úy và mười tám pháp bất cộng?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Bửu Nữ! Lúc tu tập đạo Bồ đề, Bồ tát ở nơi diệu pháp đã được
chẳng hề tham lẫn, chẳng nghĩ rằng nếu ta dạy người có thể người sẽ hơn
ta. Bồ tát đối với tất cả chúng sanh tâm thường bình đẳng, Bồ tát có thể
xả bỏ của trong của ngoài mà thí cho tất cả. Bồ tát quán sát pháp giới
không có các loại tướng dạng. Do nhơn duyên ấy nên lúc Bồ tát được Bồ đề
thành tựu vô sở úy thứ nhất.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, với tất cả pháp chướng ngại đạo Bồ tát đều
biết rõ, vì đã biết rõ nên chẳng làm chẳng theo những pháp chướng đạo ấy,
và cũng chẳng ca ngợi cùng đem dạy người. Bồ tát biết rõ là pháp chướng
đạo rồi liền xa lìa nó. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ tát được Bồ đề
thành tựu vô sở úy thứ hai.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát thường tu đạo thanh tịnh thường nói
pháp thanh tịnh, tu trị trang nghiêm vì được pháp thanh tịnh vậy. Trang
nghiêm như vậy cũng tự tu trị mà cũng đem dạy bảo chúng sanh. Do nhơn
duyên ấy nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu vô sở úy thứ ba.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát trọn chẳng có lòng kiêu mạn, trọn
chẳng nói là ta biết ta thấy, che giấu các công đức mà hiển bày các tội
lỗi. Do nhơn duyên nầy nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu vô sở úy thứ
tư.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, đối với chúng sanh thất đạo Bồ tát chỉ dạy
họ chánh đạo. Bồ tát trừ bỏ những gai độc những ngói đá trên các đường sá.
Ðường nước hiểm tuyệt, Bồ tát làm cầu đò ban thí. Chỗ tối tăm, Bồ tát sắp
đặt đèn sáng. Thấy người phạm tội Bồ tát có thể khiến họ điều phục, có thể
trừ các nghi hối của chúng sanh. Với người chẳng phải tội phạm, chẳng
cưỡng ép phải nói phạm tội. Bồ tát trừ lòng nghi chánh pháp của chúng
sanh, ban cho họ ánh sáng chánh pháp, khuyên thỉnh thuyết pháp. Thấy người
thuyết pháp, Bồ tát liền khen thiện tai và cung kính tôn trọng không có
lòng khinh khi mà muốn được hiểu biết. Với tất cả chúng sanh mà lời nói
thanh âm chẳng tốt, Bồ tát không có lòng khi dễ. Do nhơn duyên như vậy,
nên lúc Bồ tát được Bồ đề thành tựu pháp bất cộng thứ nhứt.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát thường thiệt ngữ, pháp ngữ, nghĩa
ngữ, thời ngữ, điều phục ngữ, thường nói lời chẳng sai, lời xa lìa các ác,
lời thánh nhơn. Nếu được nghe chánh pháp rồi Bồ tát chuyển nói lại người
khác vì để lợi mình mà cũng lợi cho người. Lúc nói chẳng hề khinh khi
chẳng sanh sự cãi cọ. Tự mình tin Phật Pháp Tăng cũng khiến chúng sanh tin
Phật Pháp Tăng. Bồ tát quán các pháp giới chẳng thể tuyên nói. Do nhơn
duyên như vậy nên lúc Bồ tát được Bồ đề, biết rõ tất cả ngữ ngôn, được vô
lượng môn tổng trì phương tiện. Vì vậy mà nơi thân có đủ tất cả tướng hảo,
tất cả lỗ lông trên thân đều phát xuất âm thanh vi diệu Như Lai. Ðây gọi
là pháp bất cộng thứ hai.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát thường tu lục niệm và cũng dạy cho
chúng sanh tu lục niệm. Do nhơn duyên nầy mà lúc Bồ Tát được Bồ đề chẳng
thất niệm tâm mà cũng được pháp chứng tổng trì phương tiện. Giả sử có vô
lượng chúng sanh trong vô lượng kiếp tư duy thâm nghĩa đồng thời đến hỏi
Phật, đức Như Lai chẳng cần sức tư duy mà có thể trong một thời gian đều
theo chỗ hỏi mà đáp tất cả. Ðây gọi là pháp bất cộng thứ ba.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát thường thủ hộ tâm chúng sanh, chẳng
làm nhơn loạn tâm, nhơn các khổ não cho chúng sanh, lúc thấy các chúng
sanh làm những thiện pháp thì chẳng trở ngại chẳng làm rối loạn, biết rõ
các pháp đều như tướng huyễn ảo, nơi các chúng sanh tâm Bồ tát luôn bình
đẳng, biết các pháp giới đồng nhứt vị. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ
tát được Bồ đề tâm thường định được vô biên văn tổng trì phương tiện, được
tổng trì nầy rồi thì tâm thường tại định mà làm Phật sự. Ðây gọi là pháp
bất cộng thứ tư.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát tưởng chẳng điên đảo, tâm chẳng điên
đảo, vì chẳng điên đảo nên ở trong vô ngã chẳng có tưởng là ngã, cũng
chẳng có tưởng là nhơn, là chúng sanh, là thọ mạng, là sĩ phu, là nam, là
nữ, là kiêu mạn, là phiền não, là thường, là đoạn, là hữu, là vô, là
thiện, là ác, là cấu, là tịnh, là hũu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất
thế gian, là sanh tử, là Niết bàn. Vì có điên đảo tưởng nên tất cả chúng
sanh có những tưởng như vậy. Nếu không có điên đảo thì không có những
tưởng ấy mà hành nơi trung đạo. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ tát được
Bồ đề thành tựu nhứt tưởng không có nhị tưởng. Vì tu chánh định như vậy
nên được vô tận khí tổng trì phương tiện, do sức tổng trì ấy mà tâm thường
tu tập vô tưởng tam muội, thương mến chúng sanh tu tập đại bi thuyết pháp
chẳng thôi nghỉ. Ðây gọi là pháp bất cộng thứ năm.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát tu tập xả tâm, bỏ những khổ lạc
chẳng khổ chẳng lạc, chẳng mừng chẳng sầu, chẳng ái chẳng sân, vì vậy mà
với các cảnh lợi suy hủy dự tâm không có hai, thường quán vô thường khổ vô
ngã v.v… cũng giáo hóa chúng sanh tu tập pháp xả ấy. Do nhơn duyên nầy nên
lúc Bồ tát được Bồ đề gọi là đại xả. Ðược đại xả nầy rồi liền được đại hải
ấn tổng trì phương tiện. Do sức tổng trì nầy nên dầu được các hàng Thiên,
Nhơn, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Càn Thát Bà, Ma Hầu La Già, Thích
Thiên, Phạm Thiên cung kính cúng dường chẳng lấy đó làm mừng, dầu có hàng
tà kiến ác nhơn khinh mạn mắng nhục chẳng lấy đó làm buồn, tâm thường bình
đẳng như địa thủy hỏa phong chẳng thượng chẳng hạ chẳng động chẳng trược
tu đại từ bi. Ðây gọi là pháp bất cộng thứ sáu.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát chí tâm cầu pháp Bồ đề thậm thâm các
thứ thiện căn vô thượng mà chẳng cầu Thanh Văn thừa, tu tập đại bi, các
tâm như vậy không hề thối chuyển. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ tát
được Bồ đề thành Như Lai dục bất tăng bất giảm chứng được kim cương tràng
tổng trì phương tiện được tự tại tri. Thế nào nói là tri? Ðó là biết nói
sự gì, biết lúc nào nói, biết chỗ nào nói, biết vì hàng chúng sanh nào mà
nói. Ðây gọi là pháp bất cộng thứ bảy.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát thường siêng tu tinh tiến, với các
pháp lành tâm chẳng biết chán đủ, cung kính cúng dường các bực Hòa Thượng
thiện hữu tri thức và cũng thường gần kề thích được nghe chánh pháp rồi
theo chỗ được nghe mà thọ trì. Bồ Tát tinh tiến như vậy vì điều phục chúng
sanh, vì muốn cúng dường vô lượng chư Phật, vì muốn vô lượng vô biên chúng
sanh được vô thượng đạo, cũng làm cho họ được tinh tiến như vậy nhập vào
pháp môn. Do nhơn duyên như vậy mà được văn Phật pháp tổng trì phương
tiện. Vì vậy mà lúc Bồ Tát được Bồ đề thành tựu Như Lai tinh tiến không
giảm, do vì tinh tiến mà đầy đủ thần thông. Ðây là pháp bất cộng thứ tám.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát có đủ niệm tâm tu tập tứ niệm xứ
quán nội thân ngoại thân là vô thường khổ vô ngã, với thọ với tâm và với
pháp cũng tu tập quán niệm như vậy. Bồ Tát tu tập không tam muội, vô tướng
tam muội, vô nguyện tam muội, vì Như Lai thân mà quán thân niệm xứ chẳng
chứng giải thoát. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được Bồ đề thành
tựu Như Lai niệm tâm không giảm, được tri tâm thông biết rõ nơi các chúng
sanh những căn, những giới, những giải, những nghiệp, những phiền não,
những hành, những tập khí, những tâm xứ, những thiện căn, những ác căn,
những quả báo sanh diệt các hữu các cõi, cũng biết rõ chư Phật thế giới,
đại chúng các thừa, các hạnh Bồ Tát được thọ ký, cũng biết rõ cha mẹ, thân
tộc, Sư trưởng, Hòa thượng, tất cả như vậy đều biết rõ cả mà chẳng mất
niệm tâm. Ðây là pháp bất cộng thứ chín.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát thường tu trí huệ, những là lợi
huệ, tật huệ, vô biên huệ, thậm thâm huệ, giải huệ, tịnh huệ, bất động
huệ, vô ngại huệ, vô thắng huệ, huệ biết rõ Thanh Văn thừa, Duyên Giác
thừa, huệ vô thượng, huệ bất tri túc. Bồ Tát tu tập đầy đủ những huệ như
vậy cầu huệ cầu pháp thọ trì pháp diễn thuyết pháp ưa thích chánh pháp. Vì
thích chánh pháp nên với các vật trong thân ngoài thân Bồ Tát không hề
tham trước, đối với Sư trưởng, Hòa thượng Bồ Tát hay chịu được các sự khổ
nhọc, đem các vật cần dùng dâng hiến, vì nghĩa một chữ một câu mà có thể
đem trân bửu mười phương thế giới để dâng cúng Pháp sư. Vì nhơn duyên cầu
một bài kệ, Bồ Tát có thể xả thân mạng. Dầu trong vô lượng hằng hà sa kiếp
tu hành bố thí chẳng bằng một lần nghe pháp Bồ đề lòng rất vui mừng. Bồ
Tát ở nơi chánh pháp thích nghe thích nói. Bồ Tát nầy thường được chư Phật
chư Thiên hộ niệm. Do sức hộ niệm nên trong thế gian có bao nhiêu kinh
điển sách luận đều có thể thông đạt cả. Do nhơn duyên như vậy nên lúc Bồ
Tát được Bồ đề thành tựu Như Lai trí huệ vô tăng vô giảm. Các trí ấy gọi
là vô ngại trí. Trí nầy biết rõ tất cả chúng sanh tâm, biết rõ những thiện
bất thiện và vô ký, biết rõ hữu lậu vô lậu thế gian xuất thế gian, biết rõ
pháp cấu uế pháp thanh tịnh sanh tử Niết bàn, biết rõ tất cả pháp môn, tất
cả Bồ đề sự, tất cả Bồ đề đạo, biết rõ tất cả thế giới, tất cả kiếp, tất
cả vi trần, tất cả những sự quá khứ vị lai hiện tại như vậy, đều biết rõ
thông đạt vô ngại thuyết pháp vô tận. Do nhơn duyên như vậy nên đức Như
Lai có thể trong một pháp diễn nói vô lượng pháp. Ðây là pháp bất cộng thứ
mười.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát chẳng thích ở nhà cầu thọ ngũ dục mà
thường thích ở nơi rảnh rang vắng lặng tu pháp xuất gia, thích tu nghĩa
thậm thâm và ba môn giải thoát. Do sức tu ấy mà được pháp môn vô ngại, vô
ngại trí quá cảnh giải ma trang nghiêm đầy đủ xa lìa phiền não và các ác
kiến, diễn nói nghĩa thậm thâm phá lòng nghi của chúng sanh, trừ bỏ tất cả
ác giác quán phá Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Vì các chúng sanh tham
trước mà diễn thuyết chánh pháp cho họ lìa tham, vì chúng sanh nhiều sân
hận mà diễn thuyết từ tâm cho họ lìa sân hận, vì kẻ ngu si diễn nói thập
nhị nhân duyên cho họ lìa vô minh. Vì kẻ xan tham mà nói Bố thí Ba la mật,
vì kẻ phá giới mà nói Giới Ba la mật, vì kẻ giận thù mà nói Nhẫn Ba la
mật, vì kẻ giải đãi mà nói Tinh tiến Ba la mật, vì kẻ loạn tâm mà nói
Thiền Ba la mật. vì kẻ vô trí mà nói Bát Nhã Ba la mật, vì phàm phu mà nói
Tứ chơn đế, vì người điên đảo kiến mà nói vô thường, vô tịnh, vô lạc, vô
ngã, vì người bị kiết phược mà nói ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề. Bồ Tát có
đủ những pháp như vậy, do nhơn duyên ấy mà lúc được Bồ đề thành tựu Như
Lai giải thoát vô tăng vô giảm. Giải thoát như vậy không gì lay động được,
rốt ráo thanh tịnh rốt ráo giải thoát, có thể biết rõ thấy rõ Thanh Văn
thừa, Bích Chi Phật thừa, và Vô thượng Phật thừa, cũng được thanh tịnh
tổng trì phương tiện. Do sức tổng trì nầy mà có thể diễn nói giải thoát
được đại tự tại. Ðây là pháp bất cộng thứ mười một.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát cung kính trí huệ được thế lực trí
huệ được quang minh trí, được trí biết rõ quyến thuộc, biết rõ tâm vô
tham, tâm vô sân, tâm vô si, tâm vô ái, tâm vô cấu, tâm vô tranh, tâm vô
thực, tâm vô thượng, tâm vô ngại, tâm vô ký, tâm thiện, tâm bất thiện, tâm
ác, tâm tịnh, tâm bất tịnh, cũng được trí biết rõ tâm đại tâm tiểu, tâm
hẹp tâm rộng, tâm biết khắp tâm chẳng biết khắp, tâm tham tâm xả, tâm trì
giới tâm phá giới, tâm nhẫn, tâm chẳng nhẫn, tâm giải đãi tâm tinh tiến,
tâm định tâm loạn, tâm si tâm huệ, tâm phàm tâm thánh, tâm chánh định tụ,
tâm tà định tụ, tâm bất định tụ, tâm Thanh Văn, tâm Duyên Giác, tâm Bồ
Tát, tâm khổ đế, tâm tập đế, tâm diệt đế, tâm đạo đế. Dầu biết rõ như vậy
mà không thủ chứng, vì điều phục chúng sanh mà thường thuyết pháp, đó là
tứ đế, thập nhị nhơn duyên xa lìa đoạn kiến ngã kiến, nói nhơn duyên quả
từ duyên mà sanh chẳng phải do nơi ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu. Biết rõ
vô minh làm nhơn duyên cho hành, hành làm nhơn duyên cho thức, thức làm
nhơn duyên cho danh sắc, danh sắc làm nhơn duyên cho lục nhập, lục nhập
làm nhơn duyên cho xúc, xúc làm nhơn duyên cho thọ, thọ làm nhơn duyên cho
ái, ái làm nhơn duyên cho thủ, thủ làm nhơn duyên cho hữu, hữu làm nhơn
duyên cho sanh, sanh làm nhơn duyên cho lão tử ưu bi khổ não. Vì vô minh
diệt nên hành diệt, vì hành diệt nên thức diệt, vì thức diệt nên danh sắc
diệt, vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt, vì lục nhập diệt nên xúc diệt,
vì xúc diệt nên thọ diệt, vì thọ diệt nên ái diệt, vì ái diệt nên thủ
diệt, vì thủ diệt nên hữu diệt, vì hữu diệt nên sanh diệt, vì sanh diệt
nên khối lão tử ưu bi khổ não diệt. Quán biết rõ như vậy rồi lại suy nghĩ
rằng các pháp như vậy thiệt chẳng phải ngã làm ra cũng chẳng phải chúng
sanh thọ mạng hay sĩ phu làm ra, nó chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Nếu
đã không có ai làm ra thì pháp ấy gọi là rỗng không. Nếu nó đã rỗng không
thì tức là không có ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu, không có thường không
có đoạn, nếu là không có thường và đoạn thì tức là không có sanh không có
diệt, nếu là không có sanh diệt thì không bị nhiếp thuộc tam thế, nếu
chẳng nhiếp thuộc tam thế thì gọi là không có, nếu là không có thì chẳng
tính đếm, nếu không có tính đếm thì tức là đệ nhứt nghĩa, đệ nhứt nghĩa ấy
tức là Như Lai ngữ, Như Lai ngữ ấy thì không có đấu tranh, không đấu tranh
ấy gọi là pháp Sa môn, pháp Sa môn ấy tức là hư không. Nếu có thể biết rõ
các pháp như vậy thì gọi là biết rõ như thiệt. Nếu quán sát tư duy những
ác nhơn duyên thì sanh khởi vô minh nhẫn đến sanh khởi khối khổ não lớn.
Nếu ác tư duy diệt thì vô minh diệt nhẫn đến khối đại khổ não diệt. Quán
như vậy rồi chẳng sanh thường kiến chẳng sanh đoạn kiến, biết tất cả pháp
theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, biết tất cả pháp không có ngã chúng
sanh thọ mạng sĩ phu, chẳng thấy có kia đây và trung gian, tại sao, vì nếu
không bên nầy bên kia thì đâu có chính giữa, Bồ Tát thuyết pháp như vậy.
Do nhơn duyên nầy nên lúc Bồ Tát được Bồ đề thành tựu Như Lai giải thoát
trí không tăng không giảm, cũng được vô biên tổng trì phương tiện. Do sức
tổng trì nầy y nơi pháp giới quán hư không giới mà diễn nói thị xứ phi xứ
nhẫn đến lậu tận, lực, vô sở úy, đại từ đại bi, tuyên nói tạng pháp thậm
thâm bí mật, cũng đem pháp nầy giáo hóa các chúng sanh, không cùng chung
với hàng nhị thừa, thân khẩu ý nghiệp có đủ thần thông. Ðây là pháp bất
cộng thứ mười hai.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, tất cả thân nghiệp của Bồ Tát đều tùy trí
huệ hành, chẳng khi chúng sanh mà làm phòng ngại, không xan không tham
không có lòng làm tổn hại, phạm hạnh thanh tịnh siêng tu tinh tiến, tập
họp pháp trợ đạo chẳng tiếc thân mạng, vì các chúng sanh mà phát khởi đại
từ bi. Do nhơn duyên như vậy nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai tất cả thân
nghiệp tùy trí huệ hành, được nhứt thiết quang tổng trì phương tiện, do
sức tổng trì nầy mà có thể làm các loại thân phương tiện, đó là thân Trời,
thân Rồng, thân Dạ Xoa, thân Càn Thát Bà, thân A Tu La, thân Ca Lâu La,
thân Khẩn Na La, thân Ma Hầu La Già, thân Phạm Vương, thân Thiên Ðế Thích,
thân Tứ Thiên Vương, thân Sát Ðế Lợi, thân Bà La Môn, thân Tỳ Xá, thân Thủ
Ðà, thân Tỳ Kheo, thân Tỳ Kheo Ni, thân Ưu Bà Tắc, thân Ưu Bà Di, thị hiện
các loại thân như vậy rồi vì các loài chúng sanh mà tùy ý thuyết pháp,
thuyết pháp giáo hóa rồi liền ẩn mất làm cho các chúng sanh chẳng biết
được ở đâu, hoặc thân ẩn mất rồi mà pháp được diễn nói vẫn còn, tất cả
chúng sanh sáu căn chiêm ngưỡng không biết chán đủ, vì không còn thấy được
thân nên thường nhớ tưởng. Ðây là pháp bất cộng thứ mười ba.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát khẩu nghiệp tất cả đều tùy trí huệ
hành, chẳng khi chúng sanh, chẳng vọng ngôn lưỡng thiệt ác khẩu vô nghĩa
ngữ, thường nói lời an ổn, lời chánh pháp, lời giới luật, lời dịu mát, lời
Phật, lời có ý nghĩa, lời thích nghe, lời vui nghe. Do nhơn duyên như vậy
nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai tất cả khẩu nghiệp tùy trí huệ hành,
được tam phần tổng trì phương tiện, do sức tổng trì nầy mà hiểu rõ ngữ
ngôn của tất cả chúng sanh, diễn nói những nghiệp của tất cả chúng sanh,
lời đức Phật phán ra đều là chơn thiệt ngữ, là thập nhị nhơn duyên, lời
giải thoát, lời chẳng tham, lời tịch tĩnh, lời nhơn duyên. Ðây là pháp bất
cộng thứ mười bốn.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát ý nghiệp tất cả đều tùy trí huệ
hành, chẳng khi chúng sanh, chẳng ganh chẳng hại, chẳng khởi tà kiến mà tu
tập chánh kiến, khởi đại từ bi với các chúng sanh tâm Bồ Tát thường bình
đẳng, trọn chẳng quên mất tâm Bồ đề, đầy đủ trí huệ, trừ bỏ kiêu mạn. Do
nhơn duyên như vậy nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai tất cả ý nghiệp tùy
trí huệ hành, được vô cấu tổng trì phương tiện. Do sức tổng trì ấy mà Như
Lai an trụ trong nhứt tâm có thể biết rõ tất cả tâm của các chúng sanh,
quán tâm chúng sanh đều bình đẳng như tướng huyễn hóa bổn tánh thanh tịnh,
quán thân chúng sanh đều bình đẳng như trăng trong nước, thấy thân của các
chúng sanh ở trong thân mình và thân mình cũng ở trong thân các chúng sanh
dường như bóng tượng hiện trong gương, có thể làm cho thân các chúng sanh
đều làm thân Phật, cũng làm cho thân mình làm thân chúng sanh, tất cả
không gì làm chuyển động được. Ðây là pháp bất cộng thứ mười lăm.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ Tát tin quá khứ chư Phật trí huệ thân
khẩu ý nghiệp thuần thiện không hề nghi hoặc. Lúc được nghe Phật sự chẳng
thể nghĩ bàn thì chẳng kinh chẳng sợ. Bồ Tát cũng tin quá khứ chư Phật thế
giới các chúng sanh đã được điều phục, tin thân Phật đi qua lại mười
phương tất cả thế giới vô ngại, chư Phật hay hiểu rõ ngôn ngữ của tất cả
chúng sanh tùy theo mỗi loài mà thuyết pháp cho họ, với tất cả tam thế trí
huệ Phật vô ngại, biết rõ quá khứ tất cả thế giới tất cả các thừa, thần
thông biết rõ tất cả nghiệp quả chúng sanh, trí biết rõ tâm tất cả chúng
sanh, đối với tất cả sự như vậy tâm Bồ Tát vững tin không nghi, Bồ Tát
cũng giáo hóa chúng sanh khiến được lòng tin đồng như lòng tin của mình.
Do nhơn duyên như vậy nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai trí huệ vô ngại
biết rõ quá khứ thế, nhơn vì từ trước tu tập dũng kiện tam muội nên nay
được kiện hành tổng trì phương tiện. Do sức tổng trì nầy mà có thể biết rõ
quá khứ chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ quá khứ chư
Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ quá khứ Bồ Tát, Thanh Văn,
Bích Chi Phật tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, cũng biết rõ bao
nhiêu kiếp quá khứ hoặc có Phật xuất thế hoặc không Phật xuất thế và danh
hiệu của chư Phật, quá khứ các thế giới hoặc tịnh hoặc uế, hoặc rộng, hoặc
hẹp, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thuận, hoặc ngược cho đến biết rõ vi trần
v.v…, tất cả đều biết rõ ràng như xem trái cây trong bàn tay. Ðây là pháp
bất cộng thứ mười sáu.
Còn nữa, nầy
Bữu Nử! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát tin vị lai thế chư Phật trí huệ thân
khẩu ý nghiệp thuần thiện không có nghi hoặc. Lúc nghe Phật sự bất khả tư
nghị không kinh không sợ. Bồ Tát tin vị lai Phật thế giới chúng sanh đều
sẽ điều phục, tin vị lai chư Phật qua lại vô ngại mười phương thế giới,
hay hiểu rõ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh tùy theo mỗi loài mà thuyết
pháp, với tất cả tam thế trí huệ vô ngại, biết rõ vị lai tất cả pháp giới
tất cả các thừa, biết rõ tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, trí biết
rõ tâm chúng sanh. Với tất cả sự như vậy, Bồ Tát vững tin không hề nghi,
cũng giáo hóa tất cả chúng sanh khiến họ có đồng tín tâm như mình. Do nhơn
duyên như vậy nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai trí huệ biết rõ vị lai thế
vô ngại. Nhơn vì thuở trước tu tập biết tâm tam muội nên nay được sư tử
hống tổng trì phương tiện. Do sức phương tiện nầy có thể biết rõ vị lai
thế chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ vị lai Bồ Tát,
Thanh Văn, Bích Chi Phật, tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, cũng
biết rõ vị lai bao nhiêu kiếp có Phật xuất thế không Phật xuất thế và danh
hiệu của chư Phật vị lai ấy. Biết rõ vị lai các thế giới hoặc tịnh hoặc
uế, hoặc rộng hoặc hẹp, hoặc thô hoặc tế, hoặc thuận hoặc ngược, cho đến
vi trần v.v… tất cả đều biết rõ như xem trái cây trong bàn tay. Ðây là
pháp bất cộng thứ mười bảy.
Còn nữa, nầy
Bữu Nử! Lúc tu hành đạo Bồ đề, Bồ tát tin hiện tại thế chư Phật trí huệ
thân ngữ ý nghiệp thuần thiện không hề nghi hoặc, lúc nghe Phật sự bất khả
tư nghị không kinh không sợ, tin hiện tại mười phương chư Phật thế giới
chúng sanh đều được điều phục, tin chư Như Lai đi qua lại mười phương thế
giới vô ngại, hiểu rõ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh tùy theo mỗi loài mà
thuyết pháp giáo hóa, với tất cả tam thế trí huệ thông đạt vô ngại, biết
rõ hiện tại tất cả pháp giới tất cả các thừa biết rõ các chúng sanh nghiệp
quả thần thông, trí biết rõ tâm chúng sanh. Với tất cả sự như vậy tin chắc
không nghi, cũng giáo hóa chúng sanh đồng tin như mình. Do nhơn duyên như
vậy nên lúc được Bồ đề gọi là Như Lai biết rõ hiện tại thế trí huệ vô
ngại. Do thuở trước tu tập tịnh tam muội nên được kim cương tổng trì
phương tiện. Do sức tổng trì nầy biết rõ hiện tại mười phương chư Phật Thế
Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết hiện tại tất cả Bồ Tát, Thanh Văn,
Duyên Giác và tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, cũng biết hiện tại
tất cả kiếp có Phật xuất thế hay không Phật xuất thế và danh hiệu, thế
giới tịnh hay uế, rộng hay hẹp, thô hay tế, thuận hoặc ngược, cho đến vi
trần v.v… đều biết rõ tất cả như xem trái cây trong bàn tay. Ðây là pháp
bất cộng thứ mười tám của đức Phật Thế Tôn.
Nầy Bửu Nữ!
Như Lai còn có pháp bất cộng nữa, đó là vô kiến đảnh, tại sao, vì là vô
biên thân vậy. Không có ai hơn được nên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
tất cả sự đầy đủ vậy. Ai thấy đều trừ khổ não nên gọi là pháp bất cộng,
tại sao, vì thân Phật như được thọ vậy. Ở trong đại chúng vô úy khiếp nên
gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì Phật cứu cánh đủ bốn vô sở úy vậy. Biết
rõ tâm chúng sanh nên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tùy ý thuyết pháp
vậy. Ðồ chúng tịch tĩnh gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì thuận theo lời
Phật dạy vậy. Phật phát ngôn thanh tịnh gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
chẳng bao giờ nói lời vô nghĩa vậy. Phật tuyên nói người nghe đều hoan hỉ
gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì rời lìa ý tưởng oan thân vậy. Tiếng Phật
thuyết pháp vừa đủ chúng nghe gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì nếu thừa
dư thì vô ích vậy. Mỗi mỗi chúng sanh đều riêng thấy đức Phật ở ngay trước
mình lúc nhìn ngắm mắt chưa bao giờ nháy gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
thân Phật bất khả tư nghị vậy. Người nghe Phật thuyết pháp chắc chắn sanh
mầm lành gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì Phật đã thành tựu vô lượng công
đức vậy. Ai thấy Phật đều không nhàm gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
giác ngộ tất cả pháp vậy. Cất mình đoái lại nhìn như tượng vương ngó gọi
là pháp bất cộng, tại sao, vì oai nghi thanh tịnh vậy. Ðại sư tử hống gọi
là pháp bất cộng, tại sao, vì đầy đủ các lực vậy. Oai nghi thuần thiện gọi
là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả thân nghiệp tùy trí hành vậy. Khẩu
nghiệp thuần thiện gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả khẩu nghiệp
tùy trí hành vậy. Tất cả nhãn nhục gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất
cả ý nghiệp tùy trí hành vậy. Thanh âm của Phật tất cả chúng sanh đều
thích nghe gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì ngữ ngôn vi diệu vậy. Thọ
hưởng thượng cúng dường gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì là vô thượng
phước điền vậy. Vô tận công đức gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì chẳng
cầu quả báo vậy. Không có gì có thể phá hoại được gọi là pháp bất cộng,
tại sao, vì mỗi lóng đốt trong toàn thân đều có sức lực na la diên vậy.
Nói sự chẳng luống hư gọi lại pháp bất cộng, tại sao, vì biết rõ tất cả
căn tánh vậy. Làm bực Thầy của tất cả gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
thông đạt tất cả pháp vậy. Thọ mạng vô tận gọi là pháp bất cộng, tại sao,
vì được pháp thân vậy. Có ai gần kề đều được đại lợi ích gọi là pháp bất
cộng, tại sao, vì đã thành tựu tất cả pháp lành vậy. Tất cả trí huệ của
Phật có không gì làm loạn trược được gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì
biết rõ tam thế trí tánh thanh tịnh vậy. Ai làm thân Phật chảy máu thì mắc
tội ngũ nghịch gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì đã thành tựu tất cả thiện
căn vậy. Tất cả tập khí phiền não hết sạch gọi là pháp bất cộng, tại sao,
vì biết rõ nhơn của tất cả phiền não vậy. Biết rõ tất cả hành gọi là pháp
bất cộng, tại sao, vì giác ngộ tất cả pháp vậy.
Nầy Bửu Nữ!
Ðây gọi là những pháp bất cộng của Như Lai”.
Bửu Nữ lại
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðức Phật có ba mươi hai tướng, đây là do
nghiệp nhơn gì mà thành tựu?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Như Lai thành tựu vô lượng công đức nên có ba mươi hai tướng. Ðức
Phật sẽ ở trong vô lượng sự ấy mà nói lược.
Ðức Như Lai,
lúc tu hành đạo Bồ đề, do chí tâm hộ trì tịnh giới nên được tướng lòng bàn
chưn bằng phẳng, do làm các thứ nghiệp huệ trí nên được tướng thiên bức
luân, do chẳng khi dối tất cả chúng sanh nên được tướng bắp chưn gót mắt
cá tròn đầy, do thủ hộ chánh pháp nên được tướng ngón thon dài, do chẳng
phá chúng của người nên được tướng màn lưới mỏng, do dâng thí y phục đẹp
quí nên được tướng chưn tay dịu mềm, do dâng thí món ăn uống sạch ngon nên
được tướng bảy chỗ trên thân đầy, do mừng nghe Phật pháp nên được tướng vế
lộc vương, do che giấu lỗi của người khác nên được tướng mã vương âm tàng,
do tu pháp lành nên được tướng phần thân trên như sư tử vương, do thường
đem pháp lành giáo hóa chúng sanh nên được tướng chỗ xương lõm đều đầy
bằng, do cứu hộ kẻ tai nạn kinh sợ nên được tướng cánh bắp tay cùi chỏ đều
suông tròn, do thấy sự việc của người thì giúp đỡ nên được tướng tay chạm
đầu gối, do thường tu mười nghiệp lành nên được tướng thân thanh tịnh, do
bố thí thuốc tốt cho người bịnh nên được tướng món ăn món uống vào đến cổ
họng đều biến thành thượng vị, do thường phát nguyện tu hành thiện pháp
nên được tướng má như sư tử vương, do với tất cả chúng sanh tâm luôn bình
đẳng nên được tướng đủ bốn mươi cái răng, do hòa hiệp tranh tụng nên được
tướng răng khít kín, do dâng thí các thứ trân bửu nên được tướng răng đều
bằng, do thân khẩu ý thanh tịnh nên được tướng răng nanh trắng bóng, do
giữ gìn bốn lỗi nơi lời nói nên được tướng lưỡi rộng dài, do thành tựu vô
lượng công đức nên được tướng vị ngon nhứt trong thượng vị, do thường nói
lời dịu dàng nên được tướng phạm âm, do tu tập từ tâm nên được tướng tròng
mắt biếc, do chí tâm cầu Vô thượng Bồ đề nên được tướng lông nheo như ngưu
vương, do tán thán những công đức của người khác nên được tướng bạch hào,
do cung kính các bực cha mẹ Sư trưởng Hòa thượng nên được tướng nhục kế,
do thích nói pháp thậm thâm nên được tướng thân nhu nhuyến, do dâng thí
những thứ trải giường ghế nên được tướng kim quang, do xa lìa hội họp nói
chuyện thế gian nên được tướng mỗi mỗi lỗ lông đều có một lông mọc, do
thích nhận lời dạy của các bực Sư trưởng thiện hữu nên lông trên thân đều
hướng lên trên, do chẳng đem việc xấu ác vu cho người nên được tướng tóc
màu vàng ròng, do thường khuyên chúng sanh tu tam muội nên được tướng thân
viên mãn như thân cây ni câu đà, do đời đời làm tượng hình Phật nên được
tướng sức lực na la diên.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|