× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 52 LII. Pháp Hội Bửu Nữ - Thứ 52 (1)

(Hán bộ từ quyển 130 đến quyển 131)

 

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn vẫn ở giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới trong Ðại Bửu Phường Ðình ngồi trên tòa thất bửu sư tử cùng đại chúng vây quanh thuyết pháp.

Trong pháp hội có một đồng nữ tên là Bửu Nữ từ chỗ ngồi đứng dậy, tay mặt cầm xâu bạch chơn châu mà xướng lời rằng: "Nếu tôi chơn thiệt có thể ở trong vô lượng thế giới thọ trì kinh điển Ðại tập nầy và đọc tụng biên chép rộng diễn nói lưu bố nghĩa ấy, thì nguyện cho xâu chơn châu nầy dính trên đảnh Phật và chư Bồ tát”.

Xướng lời xong, Bửu Nữ liền ném xâu chơn châu. Do Phật thần lực và lời thành thiệt của đồng nữ ấy, xâu chơn châu liền ở tại đảnh đức Phật và cũng ở khắp trên đầu chư Bồ tát.

Chư Bồ tát đều riêng tự ở trong xâu chơn châu trên đầu mình thấy lúc vị lai Bửu Nữ thành Phật thế giới ấy và Bồ đề thọ cùng các chúng sanh được điều phục, cả đến nguyện lực thuở trước của mình đều thấy rõ ràng.

Chư Bồ tát thấy rồi đều có lòng cho là rất lạ kỳ đặc biệt mà Bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Bửu Nữ nầy sao lại có vô lượng đại công đức như vậy, bao nhiêu thệ nguyện của tôi trong vô lượng a tăng kỳ kiếp thuở trước, nay trong một niệm đều thấy rõ ràng cả”.

Ðức Phật phán dạy: "Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Thiệt như lời các ông đã nói. Bửu Nữ nầy đã ở nơi chín vạn sáu ức na do tha chư Phật quá khứ gieo trồng căn lành phát nguyện lành lớn, sanh ra ở chỗ nào đều thường được chơn thiệt. Vì vậy mà đồng nữ nầy phàm khi tu niệm phát lời không hề hư luống. Nếu đồng nữ ấy muốn đầy bửu hoa trong cõi Ðại Thiên thế giới nầy mà phát lời ra thì liền có y như vậy. Nếu đồng nữ ấy nói muốn có diệu hương đầy khắp cõi Ðại Thiên thế giới nầy thì liền có diệu hương đầy khắp. Nếu đồng nữ Bửu Nữ ấy muốn thị hiện các loại hình sắc, những là hình sắc Chuyển Luân Vương, hình sắc Tứ Thiên Vương, hình sắc Thiên Ðế Thích, hình sắc Phạm Thiên Vương, hoặc hình sắc Sa Môn, hình sắc Bà La Môn, hình sắc Tỳ kheo, hình sắc Tỳ Kheo Ni, hình sắc Ưu Bà Tắc, hình sắc Ưu Bà Di thì liền được y như lời phát ra. Hoặc lúc phong tai khởi lên chuyển làm hỏa tai, lúc hỏa tai khởi chuyển lên làm thủy tai, lúc thủy tai khởi lên chuyển làm phong tai, lời đồng nữ Bửu Nữ ấy phát ra thì liền chuyển y như vậy. Nếu có Ma Vương đem các binh chúng cầm dao gậy cung tên mâu sóc qua thuẫn, đồng nữ ấy muốn tất cả binh khí đều chuyển thành bửu hoa thì liền chuyển y như lời. Nếu có xứ nào không có nước uống dùng, đồng nữ Bửu Nữ ấy vì các chúng sanh mà phát nguyện lớn, thì tất cả thành ấp tụ lạc xứ ấy liền có đủ nước uống dùng cho tất cả nhơn dân y như lời được phát ra. Nếu đồng nữ Bửu Nữ ấy muốn tất cả hình sắc trong cõi Ðại Thiên thế giới nầy đều chuyển thành hình sắc Như Lai, thì y như lời phát ra đều thành diệu sắc Phật. Nếu Bửu Nữ ấy nói muốn toàn thể đại chúng đây đều an trụ giữa hư không thì đại chúng liền ở hư không. Nếu Bửu Nữ ấy muốn nơi đây từ hư không nghe lời nói của mười phương chư Phật thì liền được nghe y như lời phát ra.h

Nầy chư thiện nam tử! Ðồng nữ Bửu Nữ ấy thành tựu vô lượng vô biên đại công đức như vậy”.

Ðồng nữ Bửu Nữ liền ở trước Phật nói kệ khen:

Nay tôi thành tựu khối đại bửu

Nên hay ca ngợi đấng Vô Thượng

Xa lìa tất cả các phiền não

Ðầy đủ đại bửu trợ Bồ đề

Như Lai đầy đủ vô thượng bửu

Sáng lớn hay chiếu vô biên cõi

Vô thượng bửu tràng Phật Thế Tôn

Nay tôi dâng bửu để cúng dường

Xa cừ mã não thanh lưu ly

Kim cương chơn châu nhựt nguyệt bửu

Dâng các bửu ấy cúng dường Phật

Vì khiến chúng sanh thành Bồ đề

Ánh sáng thân Phật hơn các bửu

Chúng sanh thích thấy không mỏi nhàm

Ở tại một phương thấy mười phương

Khiến chúng thấy Phật ở trước mình

Hoặc thấy Như Lai đi hay đứng

Hoặc thấy nằm ngồi hoặc thuyết pháp

Hoặc thấy nín lặng không nói năng

Hoặc thấy nhập định tu trí huệ

Phật mỗi lỗ lông phóng ánh sáng

Hay chiếu mười phương các thế giới

Phật quang thanh tịnh tối vô thượng

Như sen thanh tịnh và thu nguyệt.

Nói kệ tán thán xong, Bửu Nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi ở nơi kinh nầy muốn hỏi ít nghĩa xin đức Thế Tôn hứa cho”.

Ðức Phật phán bảo: "Lành thay, lành thay, nầy Bửu Nữ! Tùy ý ngươi hỏi, nếu có lưới nghi Phật sẽ trừ diệt cho”.

Bửu Nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thiệt ngữ, thế nào là thiệt, thế nào là pháp ngữ, thế nào là pháp, thế nào là nghĩa ngữ, thế nào là nghĩa, thế nào là tỳ ni ngữ, thế nào là tỳ ni nghĩa?”.

Ðức Phật phán dạy: "Lành thay lành thay! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ngươi mà phân biệt giải nói.

Nầy Bửu Nữ! Ðại Bồ Tát có ba thứ thiệt, đó là chẳng phỉnh dối Phật, chẳng phỉnh dối chính mình và chẳng phỉnh dối chúng sanh.

Thế nào là chẳng phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh?

Nầy Bửu Nữ! Nếu có Bồ tát phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề rồi mà ham Thanh văn và Bích Chi Phật thừa thì gọi là phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh.

Nầy Bửu Nữ! Nếu Bồ tát phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề rồi, hoặc tại địa ngục chịu khổ não lớn, hoặc gặp kẻ ma nghiệp tà kiến ở chung, hoặc sanh xứ ác nhiều ác phiền não, thân bị đao gươm đâm chém chặt đốt, trong những thời gian thọ khổ đau như vậy vẫn chẳng rời lìa tâm Bồ đề chẳng thôi chẳng dứt chẳng sợ chẳng ăn năn khiến tâm Bồ đề còn thêm lớn rộng hơn, vì các chúng sanh mà chịu khổ não lớn, thấy người bị khổ, tâm Bồ đề càng thêm rộng lớn siêng năng tu tập tinh tiến, muốn được Bồ đề chẳng bị tà ngữ làm mê lầm, tất cả tà phong không làm lay động được tâm Bồ đề. Ðây gọi là Bồ tát chẳng phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh vậy.

Nầy Bửu Nữ! Nếu Bồ tát chẳng phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh thì gọi là thiệt trong chơn thiệt.

Nầy Bửu Nữ! Chẳng phỉnh dối chư Phật còn có bốn sự, đó là tâm ấy vững chắc, an trụ chỗ chí xứ, đầy đủ thế lực và siêng tu tinh tiến.

Chẳng phỉnh dối chính mình cũng có bốn sự, đó là tâm thanh tịnh, chí tâm, chẳng phỉnh dối và chẳng vạy vò.

Chẳng phỉnh dối chúng sanh cũng có bốn sự đó là trang nghiêm, tu tâm từ, tu tâm bi và nhiếp thủ.

Nầy Bửu Nữ! Ðây gọi là thiệt thứ nhứt của Bồ tát.

Thiệt của Bồ tát là lúc ban sơ phát nguyện chẳng bỏ rời chúng sanh.

Thiệt của Bồ tát lại còn là chẳng nhiều lời, lời nói giữ gìn, lời nói chẳng thô ác, lời nói thường chơn thiệt. Hoặc lúc ở một mình hay ở trong đại chúng hay ở bên vua chúa, lời phát ra đều thành thiệt, chẳng vì tài vật mà cố ý nói dối, chẳng vì tự tại mà cố ý vọng ngữ. Dầu có thất bửu đầy cả cõi Ðại Thiên thế giới còn không vì cớ ấy mà cố ý vọng ngữ huống là vì các việc nhỏ mà cố ý vọng ngữ.

Nầy Bửu Nữ! Thiệt ấy có ba mươi hai điều thanh tịnh, đó là lời hổ, lời thẹn, lời công đức, lời dịu dàng, lời chẳng hư luống, lời không có chê trách, lời chẳng tham trước, lời chẳng e sợ, lời đóng kín các ác đạo, lời mở rộng các thiện đạo, lời thánh hành, lời huệ hành, lời nội thanh tịnh, lời ngoại thanh tịnh, lời thích lãnh thọ, lời thích lắng nghe, lời chẳng nhám rít, lời vi diệu, lời phân biệt, lời giọng hay, lời thuần thiện, lời chẳng phỉnh gạt, lời chẳng chấp, lời hoan hỉ, lời tự khuyến dụ, lời khuyến dụ người khác, lời chẳng lỗi, lời an ổn, lời phước điền, lời như Phật, lời thiệt vây quanh và lời miệng thanh tịnh.

Nầy Bửu Nữ! Thiệt của Bồ tát là phàm có nói năng thì khẩu với ý tương xứng. Sao gọi là khẩu với ý tương xứng?

Tu tập bố thí nên được Bồ đề chẳng phải do xan tham mà có thể được, đây gọi là khẩu ý tương xứng, mà lời có thể ban cho tất cả, đây gọi là thiệt.

Tu tập tịnh giới nên được Bồ đề chẳng phải do hủy giới mà có thể được, đây gọi là khẩu với ý tương xứng, mà lời nói đúng như tịnh giới nên gọi là thiệt.

Tu tập nhẫn nhục nên được Bồ đề, chẳng phải do sân hận mà có thể được, đây gọi là ý với khẩu tương xứng, mà lời nói đầy đủ hạnh tu nhẫn nên gọi là thiệt.

Siêng tu tinh tiến thì được Bồ đề, chẳng phải do lười biếng mà có thể được, đây gọi là khẩu ý tương xứng, mà lời nói tu tinh tiến nên gọi là thiệt.

Tu tập thiền định thì được Bồ đề, chẳng phải tâm tán loạn mà có thể được, đây gọi là khẩu ý tương xứng, mà nói tu tập định tâm nên gọi là thiệt.

Tu tập trí huệ chứng được Bồ đề, chẳng phải do ngu si mà được, đây gọi là ý khẩu tương xứng, mà lời nói tu trí huệ nên gọi là thiệt.

Như sáu độ, về ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề và bốn tâm vô lượng cũng như vậy.

Nầy Bửu Nữ! Luận về chơn thiệt ấy, đó là thánh hành. Thánh hành ấy đó là khổ hành, vô thường hành, là biết khổ, lìa tập, chứng diệt và tu tập đạo đế.

Biết thân ngũ ấm không có xuất sanh, đây gọi là biết khổ đế. Nhơn của ngũ ấm đó là tham ái thì rốt ráo xa lìa, chẳng tham chẳng trước, chẳng khen chẳng cầu, chẳng khứ chẳng lai, đây gọi là lìa tập đế.

Dứt diệt tất cả tướng, nhưng lúc diệt không có một pháp bị diệt, pháp bất bình đẳng thì làm pháp bình đẳng, đây gọi là chứng diệt đế.

Quán xa ma tha tỳ bà xá na tướng ấy bình đẳng, không có giác không có quán không có bình đẳng không hệ phược không lấy được, không có làm không có biến đổi, đây gọi là tu đạo đế.

Chơn thiệt biết rõ bốn đế như vậy lại còn có thể phân biệt nói rộng nghĩa tứ đế ấy, đây gọi là thiệt của đại Bồ tát”.

Lức đức Phật nói pháp chơn thiệt ấy trong pháp hội có mười ngàn Bồ tát được chơn thiệt nhẫn.

Ðức Thế Tôn phán tiếp: "Lại nữa, nầy Bửu Nữ! Về pháp ngữ ấy, đó là lúc diễn thuyết thì y theo chánh pháp để nói, quán nơi pháp, niệm nơi pháp, phụng hành nơi pháp, hành pháp chí xứ, cầu pháp, muốn pháp, thích pháp, tu pháp, tràng pháp, gậy pháp, trang nghiêm pháp khí, pháp đăng, pháp minh, pháp niệm, pháp ý, pháp hữu, pháp sở, pháp trang nghiêm anh lạc, pháp sàng, pháp nghi, pháp hộ, pháp tài, pháp vô cùng tận, pháp quảng đại vô biên, pháp sự, pháp thân, pháp khẩu, pháp ý. Ðại Bồ Tát thành tựu đầy đủ những pháp như vậy, đây gọi là pháp ngữ.

Pháp ngữ ấy đó là chơn thiệt ngữ, giữ gìn pháp ngữ, dạy người cúng dường các bực cha mẹ sư trưởng kỳ cựu có đức, tán thán Bồ đề và trợ đạo Bồ đề khiến người chẳng bỏ tâm Bồ đề. Chí tâm nhiếp niệm chẳng quên Bồ đề, chẳng rời trang nghiêm tu tập pháp Bồ đề, thường gần Hiền Thánh các bực thiện tri thức. Tu tập tín tâm chuyên niệm nghe chánh pháp, mộ cầu chánh pháp siêng tu tinh tiến, chẳng tham trước pháp, biết ơn báo ơn, thích tịch tĩnh, chẳng để dứt Thánh chủng. Giáo hóa hạnh đầu đà, siêng thật hành thập thiện, tán thán công đức bố thí và tất cả pháp lành. Nguyện hướng đến Bồ đề, chí tâm thọ trì giới luật thanh tịnh, tu tập nhẫn nhục, trừ bỏ giải đãi, tu tập thiền định và trí huệ, tu tập phương tiện cùng từ bi hỷ xả, tu tập tứ chơn đế xu hướng chơn đế, tu tứ vô ngại trí được đại thần thông, tùy thuận pháp thí, tu tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề phần và bát chánh đạo phần. Tu hai pháp định và huệ được trí giải thoát, giải nói đúng như pháp về Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Tán thán tất cả những phước đức. Thường quán thập nhị nhơn duyên thậm thâm, rành rẽ không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện giải thoát môn, vô sở úy, nói ngũ ấm như ảo như hóa, nói thập bát giới như tướng hư không, nói tánh các nhập đồng với tánh không. Thường nói thất thánh tài, lục niệm, lục kính giải nói đầy đủ lục Ba la mật, nói lục thường hành, tu lục thần thông, đầy đủ ngũ nhãn, nói đệ nhứt nghĩa đế lưu bố thế gian thành tựu nghiệp ngữ ngôn, tất cả chúng sanh tâm họ bình đẳng, tán thán Phật ngữ.

Nầy Bửu Nữ! Nếu có Bồ tát thành tựu đầy đủ pháp ngữ như vậy thì miệng trọn chẳng nói ngã ngữ, chúng sanh ngữ, thọ mạng ngữ, sĩ phu ngữ, đoạn ngữ, thường ngữ, hữu kiến ngữ, vô kiến ngữ, lưỡng biên ngữ, trung ngữ, tụ ngữ, diệt ngữ, tịnh ngữ, thiên ngữ, bất giác tri ngữ. Thường nói lời chẳng điên đảo, lời chẳng tăng lòng nghi, lời chẳng nghịch chánh pháp, lời quán pháp giới, lời phá kiêu mạn. Bồ tát thuyết pháp an trụ đúng pháp nói đúng chánh pháp, là thiệt ngữ, pháp ngữ, bất đoạn ngữ, bất chiết ngữ. Bồ tát thuyết pháp tất cả thế gian không ai có thể cùng tranh luận, người thấy đều e sợ. Bực pháp ngữ Bồ tát có thể diễn thuyết không vô tướng vô nguyện, chẳng trụ trước tam giới và với các hữu chẳng còn thọ sanh theo nghiệp, bổn tánh thanh tịnh an trụ tịch tĩnh chẳng cầu xin nơi người. Ðây gọi là pháp ngữ.

Nầy Bửu Nữ! Luận về pháp ấy, pháp thì chẳng thể được, không có văn tự ngôn thuyết cũng không có từ ngữ, không sắc không thấy cũng không có chỗ hướng đến, không lời dạy cũng không người được dạy, không có tâm ý thức, không có trần cấu, không sáng không tối, chẳng hệ thuộc mình cũng chẳng hệ thuộc người, không có cao hạ, chẳng xen tạp tất cả cảnh giới nhơn duyên, thanh tịnh tịch tĩnh, không có dẫn đầu, khó biết khó hay, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tư duy, người có trí huệ thanh tịnh mới có thể biết được pháp. Pháp ấy không có thọ không có người thọ dứt hẳn các thọ, siêu quá tam thế, bất diệt không có tướng diệt, bất sanh không có tướng sanh, không có dư đầy thiếu kém, không có tăng giảm, vô sanh vô diệt, không có sẽ có đã có, chẳng phải tu, chẳng phải thấy, chẳng phải ma thấy, chẳng phải chơn thiệt thấy, chẳng phải tướng, chẳng phải chẳng tướng, chẳng phải nhứt tướng mà cũng nhứt tướng, chẳng phải ốc trạch xa lìa ốc trạch, chẳng phải gần xa rời lìa, chẳng phải phược giải, chẳng phải hữu lậu vô lậu cũng chẳng phải tương tợ, chẳng phải khổ lạc, chẳng phải đầy đủ chẳng đầy đủ, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dính mắc chẳng phải thoát rời, chẳng phải phá chẳng phải hoàn, dầu chẳng phải kim cương tướng chẳng hư hoại, mà chơn thiệt như kim cương, chẳng phải cận viễn, không có sắc không có nhơn cũng chẳng phải ngoan hư, chẳng phải thử bỉ nội ngoại tự tha, chẳng phải kiến văn, chẳng phải nhớ quên, chẳng phải thức chẳng phải tri, chẳng phải cảnh giới của thức, chẳng phải cảnh giới của tri. Ðây gọi là pháp. Nếu hay nói rộng các pháp như vậy thì gọi là thuyết pháp.

Lại nữa, nầy Bửu Nữ! Pháp ngữ Bồ tát chẳng cùng với thế gian tranh cạnh, chẳng khinh chẳng mạn. Ðối với người chưa học, không có lòng khinh cười chẳng sanh tâm cao ngạo, chẳng tự khen chê người, chẳng vì tài lợi ăn uống mà vì người thuyết pháp, chẳng trở ngại việc lành của người làm cho họ sanh lòng nghi hoặc, thấy người phạm tội trọn không rao nói, với pháp của kẻ khác chẳng sanh lòng khinh tiện, không trở ngại pháp được tu hành của người, phàm pháp được diễn thuyết trọn không rời lìa không vô tướng vô nguyện, chẳng phân biệt tất cả pháp giới, bất động pháp giới, bất động thiệt tánh. Chẳng y chỉ nơi ngữ nơi thức nơi nhơn nơi bất liễu nghĩa. Dầu chẳng y chỉ mà cũng chẳng chê bai. Với chúng mình chúng người chẳng sanh phân biệt cũng chẳng chê bai thập nhị nhơn duyên. Chẳng phải ở thế gian trụ mà thanh tịnh nơi thế gian, chẳng phải pháp mà thanh tịnh nơi pháp, không tham, không xan, không hủy giới, chẳng bỏ kẻ phá giới, không sân hận, không giải đãi, chẳng mất đạo tâm, không quên Bồ đề, vì muốn trang nghiêm trí huệ vô thượng mà chẳng nghĩ, chẳng thôi, chẳng thối chuyển. Nơi pháp của người không sanh lòng đố kỵ. Chẳng vì chấp trước nơi chẳng phải mười hai bộ kinh mà phỉ báng khế kinh v.v… mười hai bộ. Ở nơi chánh pháp trọn chẳng thấy phi pháp. Chẳng nhơn nơi khinh mạn mà tăng trưởng khinh mạn. Chẳng bác nhơn quả và nghiệp quả báo. Ở trong chánh pháp tâm không có thối chuyển. Biết ơn nhớ ơn chẳng quên báo đáp. Trọn chẳng ôm ấp lòng sân hận, chẳng chấp ngã kiến, chẳng ganh người được lợi. Ở trong oán thân không có hai ý tưởng. Bị người chê hại trọn chẳng báo trả. Chẳng làm lưỡng thiệt cho kia đây đấu loạn. Chẳng có lòng siểm khúc hiển dị để mê hoặc người. Chẳng vì người khác mừng mà thọ giới Bồ tát, giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni, giới Thức Xoa Ma Na, giới Sa Di, giới Sa Di Ni, giới Ưu Bà Tắc, giới Ưu Bà Di. Thường ở chỗ rảnh rang tịch tĩnh mà tư duy chánh niệm. Tâm siêng học đọc mười hai bộ kinh. Chẳng vì hơn người mà thủ hộ các loại giới luật như vậy. Chẳng vì được cúng dường mà hiện tướng tri túc. Chẳng vì để hiển bày người khác chẳng tri túc mà tự tu tri túc. Chẳng nói Bồ đề Vô thượng của chư Phật là việc làm của người khác. Chẳng tạo ác nghiệp tà ác sanh sống. Chẳng bỏ thất thánh tài. Chẳng tham ăn uống. Chẳng để dứt mất thánh chủng. Chẳng chê bai người, chẳng tự khen người. Ở trong Phật pháp chẳng có ý nghĩa là có số có lượng. Thường tán thán Ðại thừa không có lòng nhàm đủ. Ðây gọi là pháp ngữ".

Ðức Thế Tôn lại bảo đồng nữ Bửu Nữ: "Luận về Bồ tát nghĩa ấy, thế nào gọi là nghĩa? Ðó là tín tâm lúc tu tập trang nghiêm không có hư cuống, vì muốn trang nghiêm tất cả thiện căn mà chí tâm chuyên niệm tu hành các pháp lành, phá lưới nghi của tất cả chúng sanh, chẳng cầu quả báo, ban cho chúng sanh sự an ổn khoái lạc, hộ trì cấm giới, chẳng mất tâm nhẫn nhục, siêng tu tinh tiến tăng trưởng pháp lành, tu định tịch tĩnh nhiếp các tán loạn, đủ trí vô thượng phá tối vô minh. Tu tập từ tâm bình đẳng các chúng sanh, tu tập bi tâm tùy theo chỗ làm của chúng sanh đích thân đến xây dựng, tu tập hỉ tâm ban cho chúng sanh pháp hỉ, tu tập xả tâm chẳng thấy khổ vui. Xả bỏ tài pháp rồi không hề hối tiếc, lời nói dịu dàng phá tâm ác người, làm lợi ích cho người đủ pháp thậm thâm, tu hành đồng sự để khuyên người phát tâm Ðại thừa, đây là dùng bốn nhiếp pháp để điều phục chúng sanh. Thấy tất cả hành pháp đều vô thường khổ không vô ngã dứt sạch các phiền não. Y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi ngữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa xa bỏ bất liễu nghĩa, y chỉ nơi pháp chẳng y chỉ nơi người. Nói nghĩa vô ngại không có cùng tận mà ở pháp giới không có phân biệt, nói từ vô ngại chứng được giải thoát, nói lạc thuyết vô ngại đúng như pháp mà nói. Trang nghiêm bố thí chẳng biết nhàm đủ, trang nghiêm tịnh giới thành tựu nguyện lành, trang nghiêm đa văn đúng như pháp mà làm, trang nghiêm công đức đầy đủ tướng hảo, trang nghiêm trí huệ biết rõ căn tánh thượng trung hạ và các tướng sai biệt của các chúng sanh, trang nghiêm chánh định vì tâm thanh tịnh, trang nghiêm nơi trí được ba thứ huệ. Tu Tứ niệm xứ vì tâm chẳng tán loạn, tu Tứ chánh cần vì được thiên căn, tu Tứ như ý vì qua lại mười phương, tu tập Ngũ căn biện nói phân biệt các tự cú, tu tập Ngũ lực đã phá các phiền não, tu Thất giác chi vì biết các pháp, tu tập Bát chánh đạo chẳng bị ác tà lay động, tu tập thần thông vì chẳng thối thất.

Ðại Bồ Tát hiểu nghĩa như vậy thì gọi là nghĩa. Nếu đại Bồ Tát hay diễn nói các nghĩa ấy, thì gọi là thuyết nghĩa.

Còn nữa, nầy Bửu Nữ! Luận về nghĩa ấy, đó là tu tập không tam muội phá các pháp có, tu tập vô tướng tam muội phá các pháp tướng, tu tập vô nguyện tam muội chẳng cầu tam giới. Nếu có thể diễn nói ba pháp môn rỗng không không có như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Tất cả hành chẳng thể tu hành được, Bồ tát diễn nói pháp chẳng thể tu hành được nầy thì gọi là thuyết nghĩa.

Dứt tất cả sanh khởi, đây gọi là nghĩa, Bồ tát diễn nói các pháp vô sanh nầy thì gọi là thuyết nghĩa.

Các hữu không có xuất, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Tứ chơn đế, đây gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Không có ngã không có ngã sở, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Tự cú chẳng nói được, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Nghĩa chơn thiệt, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Tất cả pháp Bồ đề chẳng thể đếm kể, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Người đa văn an trụ đúng như pháp, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Tất cả các thừa, Ðại thừa là hơn hết, đây gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Còn nữa, nầy Bửu Nữ! Vô phân biệt, đây gọi là nghĩa, không có chúng sanh không có thọ mạng, nhứt vị bất động, bất tận nhứt sự, bất sanh bất xuất, bất lai bất khứ, bất diệt bất nhị, chẳng thể xem thấy, không có tạo tác, vô vi vô tác, tâm chẳng siểm khúc, tam thế bình đẳng, ba phần không sai biệt, chẳng được chẳng mất, chẳng nóng chẳng lạnh, chẳng tịnh chẳng uế, chẳng đi chẳng đứng, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng phải đạo dạy đạo, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, cũng chẳng phải trung đạo, chẳng tham chẳng sân, chẳng nhìn nơi pháp và phi pháp, chẳng phải tất cả văn tự âm thanh từ ngữ, không có tâm ý thức, nơi tham sân si chẳng sanh phân biệt, tất cả các pháp tác tướng có tướng đều là không, vô tướng và vô nguyện ba môn nầy tức rỗng không, chơn thiệt nhập pháp giới, đẳng cùng bất đẳng đều bình đẳng, nhơn nơi trí huệ mà được giải thoát.

Nếu Bồ tát có đủ các nghĩa như vậy thì gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.

Lại nầy Bửu Nữ! Thế nào là Bồ tát diễn nói tỳ ni?

Nầy Bửu Nữ! Ðức Phật nói tỳ ni phàm có hai thứ, đó là phạm tỳ ni và phiền não tỳ ni.

Thế nào là phạm và thế nào là tỳ ni?

Phạm rồi liền biết mà chẳng tư duy tốt, nhơn vì vô minh điên đảo hư vọng khi cuống phiền não chấp ngã chấp chúng sanh, tâm có lưới nghi chẳng được giải thoát, điệu cử nghi hối kiêu mạn phóng dật quả văn, nhơn các phiền não kiết sử như vậy đây gọi là phạm.

Nếu phá được tâm nghi được giải thoát do được giải thoát rồi thấy chỗ có phạm tức là chẳng phải chỗ cũng chẳng phải chẳng chỗ, chẳng phải thân khẩu ý, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng thể xem thấy, chẳng phải thân làm cũng phải khẩu ý làm, nếu là ba nghiệp làm tức là pháp diệt, nếu đã là pháp diệt thì ai làm ai phạm, như phạm tất cả các pháp cũng như vậy, các pháp vô căn vô trụ vô xứ. Nếu có thể phá hoại lưới nghi như vậy thì gọi là thanh tịnh là chẳng nhiệt não, theo lời dạy của Thầy mà làm thì gọi là có lòng tin gọi là định gọi là tỳ ni.

Thế nào là phiền não và thế nào là tỳ ni?

Mười hai hữu chi là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh và lão tử gọi là phiền não, tánh của nó có thể điều phục được các phiền não thì gọi là tỳ ni. Tại sao, vì không vô tướng vô nguyện có thể điều phục các pháp, nếu pháp đã là rỗng không không có tánh tướng chẳng thể nguyện cầu thì làm thế nào mà có được tham sân si v.v… Vì vô tác hay điều phục tất cả pháp, nếu tất cả pháp đã là vô tác thì làm sao có được các phiền não. Vì tất cả pháp thì nhơn duyên sanh, nếu đã từ nhơn duyên sanh thì làm sao thấy được, thấy mười hai hữu chi như vậy thì cũng biết phiền não và tướng phiền não. Nếu là không trí hay quán Bồ đề thì dùng không nầy mà không nơi phiền não. Nếu hay quán sát bình đẳng như vậy thì gọi là tỳ ni.

Nếu hay diễn thuyết các nghĩa như vậy thì gọi là Bồ tát hay thuyết tỳ ni.

Nếu tỳ ni nầy hay biết được ngã thì tức là biết rõ phiền não tỳ ni.

Thế nào là biết ngã tỳ ni? Ðó là quán vô ngã, quán ngã tánh, biết rõ ngã, sạch hết ngã, thiệt biết ngã, phân biệt ngã không, ngã tu, biết ngã bất động bất thuyết bất trước bất sanh bất diệt.

Nếu có thể biết được ngã như vậy thì tức là biết rõ phiền não tỳ ni.

Nếu thiệt không có ngã mà có ý tưởng là ngã, thì nơi không có phiền não cũng có ý tưởng phiền não. Nếu ngã bổn lai không có thì phiền não cũng vậy.

Nếu có quán trí thì có thể quán sát biết rõ như vậy, đây gọi là biết rõ ngã phiền não tỳ ni.

Về phiền não ấy, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, nếu có thể chẳng làm chẳng nhớ chẳng cầu thì gọi là biết rõ phiền não tỳ ni.

Tỳ ni ấy cũng chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, như tâm chẳng phải sắc chẳng phải nội ngoại trung gian, phiền não cũng vậy chẳng phải sắc chẳng phải nội ngoại trung gian, tại sao, vì không có giác tri vậy, vì không có tranh cạnh vậy, vì không có thanh tịnh vậy, vì không có tạo tác vậy.

Nếu có thể biết rõ các phiền não chẳng sanh chẳng diệt như vậy thì gọi là biết rõ phiền não tỳ ni.

Nếu Bồ tát được những biết rõ phiền não tỳ ni như vậy và cũng vì các chúng sanh mà diễn nói thì gọi là diễn thuyết tỳ ni”.

Lúc đức Phật nói pháp trên, trong pháp hội có mười ngàn Bồ tát được vô sanh nhẫn.

Bấy giờ Bửu Nữ lòng rất vui mừng bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðức Như Lai nói pháp nghĩa chơn thiệt và tỳ ni chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Bồ tát có thể diễn thuyết như vậy thì tức là có thể thiệt biết thiệt thấy”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi đồng nữ Bửu Nữ: "Nay đồng nữ đã có đủ các pháp như vậy mà có thể diễn thuyết chăng ?”.

Bửu Nữ nói: "Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Thiệt ấy gọi là vô tham, vô tham tức là nghĩa, nghĩa như vậy tức là bất khả thuyết, bất khả thuyết ấy tức là tỳ ni.

Thưa Ðại Ðức! Nếu đã như vậy thì thế nào có thể nói được!

Lại nữa, thưa Ðại Ðức Xá Lợi Phất! Thiệt ấy tức là diệt, diệt ấy tức là pháp, pháp ấy tức là tịnh, tịnh ấy tức là nghĩa, nghĩa ấy tức là tỳ ni. Các pháp như vậy không có văn tự, nếu đã không có văn tự thì thế nào nói được.

Thưa Ðại Ðức! Thiệt ấy tức là như, như ấy tức là pháp, pháp tức là vô nhị, vô nhị tức là nghĩa, luận về vô nhị cũng chẳng thể điều, nếu chẳng thể điều sao gọi là điều, các pháp như vậy đều vô sở hữu, nếu là vô sở hữu thì thế nào nói được”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Nay đồng nữ thành tựu Bửu nào mà do đó đặt tên là Bửu Nữ ?”.

Ðồng nữ Bửu Nữ đáp: "Thưa Ðại Ðức! Có ba mươi hai Bồ tát bửu tâm, trong tâm như vậy đều không có tâm Thanh văn không có tâm Duyên Giác.

Những gì là ba mươi hai Bồ tát bửu tâm?

Một là phát tâm vì độ tất cả chúng sanh

Hai là phát tâm vì khiến Phật chủng chẳng dứt

Ba là phát tâm vì thọ trì Phật pháp chẳng diệt tận

Bốn là phát tâm vì thủ hộ Tăng.

Năm là phát tâm vì ban cho các chúng sanh vui thánh pháp.

Sáu là phát tâm vì các chúng sanh mà tu tập đại từ làm cho chúng sanh rời lìa các khổ phiền não.

Bảy là phát tâm tu tập đại bi xả bỏ vật trong vật ngoài.

Tám là phát tâm hộ trì cấm giới vì điều kẻ phá giới.

Chín là phát tâm tu tập nhẫn nhục vì phá hoại chẳng nhẫn kiêu mạn ác tâm điên tâm túy tâm cuồng tâm phóng dật tự tứ tâm.

Mười là phát tâm tinh tiến vì phá những giải đãi tâm e sợ ngần ngại và để điều phục các chúng sanh giải đãi.

Mười một là phát tâm tu tập chánh định vì phá loạn tâm cuồng tâm vọng niệm khiến cho chúng sanh được tứ thiền bát giải thoát điều phục các chúng sanh cõi Dục.

Mười hai là phát tâm tu trí vì phá tất cả si tối thành tựu chơn thiệt tri kiến nhập vào pháp giới.

Mười ba là phát tâm vì biết tất cả chúng sanh bình đẳng vô nhị đều đồng nhứt vị.

Mười bốn là phát tâm vì được vô tham vô sân các cảnh lợi suy hủy dự tâm không dao động an trụ pháp lành khổ vui chẳng động, vì được những sự như vậy để hộ trì chúng sanh.

Mười lăm là phát tâm vì được không bố úy muốn liễu thậm thâm thập nhị nhơn duyên xa lìa tất cả kiến chấp.

Mười sáu là phát tâm vì muốn trang nghiêm trí huệ và các công đức không có nhàm đủ.

Mười bảy là phát tâm vì muốn chẳng rời thấy Phật để thường được nghe pháp.

Mười tám là phát tâm vì muốn đúng như chỗ được nghe mà thuyết pháp.

Mười chín là phát tâm vì được khối pháp rộng lớn tâm không tham lẫn.

Hai mươi là phát tâm vì muốn tán thán tịnh giới như chỗ nghe mà an trụ để giáo hóa khuyên nhắc người phá hủy tịnh giới.

Hai mươi mốt là phát tâm vì phá bảy thứ kiêu mạn của chúng sanh.

Hai mươi hai là phát tâm vì biết căn thượng trung hạ của các chúng sanh.

Hai mươi ba là phát tâm vì phá các ma ác nghiệp.

Hai mươi bốn là phát tâm vì ban cho chúng sanh sự an lạc.

Hai mươi lăm là phát tâm vì phá bao nhiêu sự khổ của các chúng sanh lòng chẳng sanh hối tiếc.

Hai mươi sáu là phát tâm vì muốn thành tựu tất cả Phật pháp.

Hai mươi bảy là phát tâm vì biết các pháp hữu vi tất cả vô thường khổ vô ngã biết rồi không rời lòng chẳng nhàm hối.

Hai mươi tám là phát tâm vì thích tu tập tất cả pháp trợ Bồ đề.

Hai mươi chín là phát tâm vì thấy không vô tướng vô nguyện vì chúng sanh mà không thủ chứng.

Ba mươi là phát tâm dầu sợ các hữu mà cũng thủ hộ các hữu.

Ba mươi mốt là phát tâm vì dầu thấy tội lỗi sanh tử mà chẳng nhàm hối.

Ba mươi hai là phát tâm vì mặc dầu gần Bồ đề, thọ vô thượng lạc mà vì chúng sanh bỏ diệu lạc ấy để thọ khổ bần cùng.

Thưa Ðại Ðức! Ba mươi hai bửu phát tâm ấy đều không có tâm Thanh văn, Bích Chi Phật, vì vậy mà Bồ tát có tên là Bửu Tụ”.

Ðức Thế Tôn tán thán Bửu Nữ: "Thiện tai, thiện tai! Nay ngươi chơn thiệt nói đại Bồ tát phát Bồ đề tâm, mà Bồ đề tâm có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nói bằng ba mươi hai sự. Tại sao, vì chẳng phải Thanh văn bửu có thể được Phật bửu, chẳng phải Duyên Giác bửu có thể được Pháp bửu, do Bồ tát bửu có thể được Phật bửu, được Phật bửu rồi thì được Thanh văn bửu, được Bích Chi Phật bửu. Vì vậy mà Bồ tát có tên là Bửu Tụ”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nói của Bửu Nữ chẳng thể nghĩ bàn. Tôi xem xét lời nói ấy thì đồng nữ nầy tợ như được tứ vô ngại trí”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Nay ông mới cho là đồng nữ ấy chưa được tứ vô ngại trí sao. Từ lâu đồng nữ ấy đã được đầy đủ bốn trí vô ngại.

Nầy Xá Lợi Phất! Chỗ thuyết pháp của Bửu Nữ, tự chẳng thể tận, văn cú nghĩa vị đều chẳng thể tận”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bửu Nữ: "Nầy nhơn giả! Nay xin nói rộng về tứ vô ngại trí”.

Bửu Nữ nói: "Thưa Ðại Ðức! Tứ vô ngại trí ở nơi tất cả pháp đều thành trí cả.

Thưa Ðại Ðức! Bồ đề tâm gọi là vô ngại cú, tại sao, vì Bồ đề tâm nhiếp tất cả nghĩa, đây gọi là nghĩa vô ngại trí. Tất cả các pháp giới nhập vào Bồ đề tâm đây gọi là pháp vô ngại trí. Thiệt không có văn tự mà diễn thuyết văn tự đây gọi là từ vô ngại trí. Pháp chẳng thể nói mà diễn nói không đoạn tuyệt đây gọi là lạc thuyết vô ngại trí. Nghĩa chẳng thể nói đây gọi là nghĩa vô ngại. Tất cả các pháp đều là tướng như huyễn ảo gọi là pháp vô ngại. Nghiệp hành vô ngôn thuyết gọi là từ vô ngại. Với lục nhập không có chướng ngại là lạc thuyết vô ngại. Liễu đạt nơi nghĩa gọi là nghĩa vô ngại. Thích nơi tịch tĩnh gọi là pháp vô ngại. Tự chẳng hiệp với pháp và pháp chẳng hiệp với nghĩa là từ vô ngại. Thuyết tức là thanh gọi là lạc thuyết vô ngại. Như Lai chánh giác tức là nghĩa Bồ đề gọi là nghĩa vô ngại. Nghĩa Bồ đề ấy hay sanh các pháp là pháp vô ngại. Pháp có thể làm câu là từ vô ngại. Thuyết rồi được nghĩa gọi là lạc thuyết vô ngại. Pháp nghĩa ấy gọi là nghĩa vô ngại. Giải thoát ấy gọi là pháp vô ngại. Diễn thuyết pháp tướng chẳng phải có pháp tánh gọi là từ vô ngại. Phân biệt pháp giới và chẳng phải pháp giới gọi là lạc thuyết vô ngại. Tăng tức là vô vi gọi là nghĩa vô ngại. Chư Tăng nhứt vị gọi là pháp vô ngại. Vì hòa hiệp Tăng gọi là từ vô ngại. Thuyết công đức của chư Tăng gọi là thuyết vô ngại.

Thưa Ðại Ðức! Bốn vô ngại ấy khắp cả tất cả pháp”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Ðồng nữ nầy từ khi phát tâm đến nay được bao lâu rồi? Ở bên đức Phật nào mà gieo trồng thiện căn?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Về thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Phân Biệt Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thế giới ấy tên là Ðại Tịnh như cung Trời Ðâu Suất Ðà, cùng với chúng Bồ tát Tăng bảy vạn sáu ngàn tất cả đều thanh tịnh phạm hạnh được môn đà la ni bất thối chuyển. Lúc ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Tịnh Ðức Báo cai trị tự tại một ngàn thế giới, hậu cung có tám vạn bốn ngàn thể nữ, có đủ một ngàn vương tử, sức lực đồng với lực sĩ Liên Hoa. Lúc ấy trong ba vạn sáu ngàn năm, Thánh vương cúng dường Phật và Bồ tát Tăng các thứ phòng xá, ngọa cụ, y phục, uống ăn, thuốc men”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chẳng rõ đức Phật Phân Biệt Kiến ấy thọ mạng bao nhiêu tuổi ?”.

Ðức Phật phán dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Ðức Phật Phân Biệt Kiến ấy thọ đủ mười trung kiếp.

Lúc ấy Chuyển Luân Thánh Vương cùng với hậu cung quyến thuộc thể nữ và nhơn dân chín vạn hai ngàn ức na do tha người mang theo vô lượng vô biên các thứ cúng dường đến chỗ đức Phật Phân Biệt Kiến đem tám ngàn ức trân bửu thượng diệu rải lên đức Phật, đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi quỳ dài chắp tay cung kính bạch rằng:

Bạch đức Thế Tôn! Nay chỗ chúng tôi sắp đặt các thứ cúng dường như vậy, chẳng biết còn có sự cúng dường nào hơn đây chăng?

Ðức Phật Phân Biệt Kiến nói: Nầy Ðại Vương Tịnh Ðức Báo! Còn có sự cúng dường khác công đức hơn sự cúng dường nầy trăm ngàn vạn lần.

Thánh Vương bạch đức Phật Phân Biệt Kiến: Bạch đức Thế Tôn! Ðó là sự cúng dường gì, xin đức Thế Tôn nói cho, chúng tôi rất muốn được nghe.

Ðức Phân Biệt Kiến Như Lai nói kệ rằng:

Như hằng hà sa số thế giới

Trong ấy đầy báu đem cúng thí

Dầu được vô lượng phước như vậy

Chẳng bằng vì thương mà phát tâm

Chư Phật số như hằng hà sa

Dâng diệu hoa hương để cúng dường

Phước đức nầy so còn chẳng bằng

Phát tâm Bồ đề bảy bất thối

Phát Bồ đề tâm tức cúng dường

Giới nhẫn tinh tiến thiền trí huệ

Nếu vì lòng thương mà phát tâm

Phước ấy vô lượng chẳng cùng tận

Sắc đẹp lực tài dòng họ lớn

Người nầy mới phát được Bồ đề

Chúa ngàn thế giới đến Phạm Thiên

Ðược đại tự tại mới phát được

Nếu thích mừng phát Bồ đề tâm

Như vậy mới dứt được ác đạo

Hay vì nhơn thiên mở chánh đạo

Hay bít ác đạo và bát nạn

Các căn đầy đủ chẳng mù điếc

Ðều do chí tâm phát Bồ đề

Hay thấy mười phương các Thế Tôn

Hay phát trên trời vị cam lộ

Nếu chí tâm phát đại Bồ đề

Người nầy phá được nghi kiêu mạn

Vô lượng trí huệ được tự tại

Hay vì chúng sanh thuyết pháp giới       

Chúng sanh thấy đó như cha mẹ

Tưởng như thầy bạn và lương y

Hay trị lành bịnh các phiền não

Dạy bảo khiến đến Bồ đề đạo.

Thánh Vương Tịnh Ðức Báo nghe đức Phật Phân Biệt Kiến nói phát Bồ đề tâm được công đức như vậy, lòng Vương rất vui mừng hớn hở vô lượng, cùng các quyến thuộc thể nữ và nhơn dân đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền ở trước đức Phật mà nói kệ rằng:

Nay tôi thương xót các chúng sanh

Nên phát Bồ đề tâm như vậy

Nếu muốn có được đại tự tại

Chẳng nên thối chuyển Bồ đề tâm

Sanh tử vô lượng sanh khổ não

Mà không lợi ích cho tự tha

Thà phát tâm nầy mà chịu khổ

Chẳng vì an vui mà chẳng phát

Nếu có ai phát tâm Bồ đề

Liền được phước trời người Thánh vương

Cũng được vui tịch tĩnh vô lậu

Và được vui Vô thượng Bồ Ðề

Huệ nhẫn tam muội tối vô thượng

Ðủ tứ vô lượng và lục độ

Ba thứ tịnh huệ sáu thần thông

Bốn vô ngại trí đại tự tại

Vô thượng thập lực bốn vô úy

Và tam niệm xứ đại từ bi

Thành tựu thập bát bất cộng pháp

Tất cả đều do phát Bồ đề

Hay chấn động mười phương thế giới

Cũng biết tâm chúng sanh mười phương

Hay độ vô lượng các chúng sanh

Ðều do phát tâm Bồ đề nầy.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy