(Hán bộ từ
quyển 130 đến quyển 131)
Lúc bấy giờ
đức Thế Tôn vẫn ở giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới trong Ðại Bửu Phường
Ðình ngồi trên tòa thất bửu sư tử cùng đại chúng vây quanh thuyết pháp.
Trong pháp
hội có một đồng nữ tên là Bửu Nữ từ chỗ ngồi đứng dậy, tay mặt cầm xâu
bạch chơn châu mà xướng lời rằng: "Nếu tôi chơn thiệt có thể ở trong vô
lượng thế giới thọ trì kinh điển Ðại tập nầy và đọc tụng biên chép rộng
diễn nói lưu bố nghĩa ấy, thì nguyện cho xâu chơn châu nầy dính trên đảnh
Phật và chư Bồ tát”.
Xướng lời
xong, Bửu Nữ liền ném xâu chơn châu. Do Phật thần lực và lời thành thiệt
của đồng nữ ấy, xâu chơn châu liền ở tại đảnh đức Phật và cũng ở khắp trên
đầu chư Bồ tát.
Chư Bồ tát
đều riêng tự ở trong xâu chơn châu trên đầu mình thấy lúc vị lai Bửu Nữ
thành Phật thế giới ấy và Bồ đề thọ cùng các chúng sanh được điều phục, cả
đến nguyện lực thuở trước của mình đều thấy rõ ràng.
Chư Bồ tát
thấy rồi đều có lòng cho là rất lạ kỳ đặc biệt mà Bạch đức Phật: "Bạch đức
Thế Tôn! Bửu Nữ nầy sao lại có vô lượng đại công đức như vậy, bao nhiêu
thệ nguyện của tôi trong vô lượng a tăng kỳ kiếp thuở trước, nay trong một
niệm đều thấy rõ ràng cả”.
Ðức Phật phán
dạy: "Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Thiệt như lời các ông đã nói.
Bửu Nữ nầy đã ở nơi chín vạn sáu ức na do tha chư Phật quá khứ gieo trồng
căn lành phát nguyện lành lớn, sanh ra ở chỗ nào đều thường được chơn
thiệt. Vì vậy mà đồng nữ nầy phàm khi tu niệm phát lời không hề hư luống.
Nếu đồng nữ ấy muốn đầy bửu hoa trong cõi Ðại Thiên thế giới nầy mà phát
lời ra thì liền có y như vậy. Nếu đồng nữ ấy nói muốn có diệu hương đầy
khắp cõi Ðại Thiên thế giới nầy thì liền có diệu hương đầy khắp. Nếu đồng
nữ Bửu Nữ ấy muốn thị hiện các loại hình sắc, những là hình sắc Chuyển
Luân Vương, hình sắc Tứ Thiên Vương, hình sắc Thiên Ðế Thích, hình sắc
Phạm Thiên Vương, hoặc hình sắc Sa Môn, hình sắc Bà La Môn, hình sắc Tỳ
kheo, hình sắc Tỳ Kheo Ni, hình sắc Ưu Bà Tắc, hình sắc Ưu Bà Di thì liền
được y như lời phát ra. Hoặc lúc phong tai khởi lên chuyển làm hỏa tai,
lúc hỏa tai khởi chuyển lên làm thủy tai, lúc thủy tai khởi lên chuyển làm
phong tai, lời đồng nữ Bửu Nữ ấy phát ra thì liền chuyển y như vậy. Nếu có
Ma Vương đem các binh chúng cầm dao gậy cung tên mâu sóc qua thuẫn, đồng
nữ ấy muốn tất cả binh khí đều chuyển thành bửu hoa thì liền chuyển y như
lời. Nếu có xứ nào không có nước uống dùng, đồng nữ Bửu Nữ ấy vì các chúng
sanh mà phát nguyện lớn, thì tất cả thành ấp tụ lạc xứ ấy liền có đủ nước
uống dùng cho tất cả nhơn dân y như lời được phát ra. Nếu đồng nữ Bửu Nữ
ấy muốn tất cả hình sắc trong cõi Ðại Thiên thế giới nầy đều chuyển thành
hình sắc Như Lai, thì y như lời phát ra đều thành diệu sắc Phật. Nếu Bửu
Nữ ấy nói muốn toàn thể đại chúng đây đều an trụ giữa hư không thì đại
chúng liền ở hư không. Nếu Bửu Nữ ấy muốn nơi đây từ hư không nghe lời nói
của mười phương chư Phật thì liền được nghe y như lời phát ra.h
Nầy chư thiện
nam tử! Ðồng nữ Bửu Nữ ấy thành tựu vô lượng vô biên đại công đức như
vậy”.
Ðồng nữ Bửu
Nữ liền ở trước Phật nói kệ khen:
Nay tôi thành tựu khối đại bửu
Nên hay ca ngợi đấng Vô Thượng
Xa lìa tất cả các phiền não
Ðầy đủ đại bửu trợ Bồ đề
Như Lai đầy đủ vô thượng bửu
Sáng lớn hay chiếu vô biên cõi
Vô thượng bửu tràng Phật Thế Tôn
Nay tôi dâng bửu để cúng dường
Xa cừ mã não thanh lưu ly
Kim cương chơn châu nhựt nguyệt bửu
Dâng các bửu ấy cúng dường Phật
Vì khiến chúng sanh thành Bồ đề
Ánh sáng thân Phật hơn các bửu
Chúng sanh thích thấy không mỏi nhàm
Ở tại một phương thấy mười phương
Khiến chúng thấy Phật ở trước mình
Hoặc thấy Như Lai đi hay đứng
Hoặc thấy nằm ngồi hoặc thuyết pháp
Hoặc thấy nín lặng không nói năng
Hoặc thấy nhập định tu trí huệ
Phật mỗi lỗ lông phóng ánh sáng
Hay chiếu mười phương các thế giới
Phật quang thanh tịnh tối vô thượng
Như sen thanh tịnh và thu nguyệt.
Nói kệ tán
thán xong, Bửu Nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi ở nơi kinh nầy
muốn hỏi ít nghĩa xin đức Thế Tôn hứa cho”.
Ðức Phật phán
bảo: "Lành thay, lành thay, nầy Bửu Nữ! Tùy ý ngươi hỏi, nếu có lưới nghi
Phật sẽ trừ diệt cho”.
Bửu Nữ bạch
rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là thiệt ngữ, thế nào là thiệt, thế nào
là pháp ngữ, thế nào là pháp, thế nào là nghĩa ngữ, thế nào là nghĩa, thế
nào là tỳ ni ngữ, thế nào là tỳ ni nghĩa?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Lành thay lành thay! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ngươi mà phân
biệt giải nói.
Nầy Bửu Nữ!
Ðại Bồ Tát có ba thứ thiệt, đó là chẳng phỉnh dối Phật, chẳng phỉnh dối
chính mình và chẳng phỉnh dối chúng sanh.
Thế nào là
chẳng phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh?
Nầy Bửu Nữ!
Nếu có Bồ tát phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề rồi mà ham Thanh văn và Bích Chi
Phật thừa thì gọi là phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu Bồ tát phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề rồi, hoặc tại địa ngục chịu khổ não
lớn, hoặc gặp kẻ ma nghiệp tà kiến ở chung, hoặc sanh xứ ác nhiều ác phiền
não, thân bị đao gươm đâm chém chặt đốt, trong những thời gian thọ khổ đau
như vậy vẫn chẳng rời lìa tâm Bồ đề chẳng thôi chẳng dứt chẳng sợ chẳng ăn
năn khiến tâm Bồ đề còn thêm lớn rộng hơn, vì các chúng sanh mà chịu khổ
não lớn, thấy người bị khổ, tâm Bồ đề càng thêm rộng lớn siêng năng tu tập
tinh tiến, muốn được Bồ đề chẳng bị tà ngữ làm mê lầm, tất cả tà phong
không làm lay động được tâm Bồ đề. Ðây gọi là Bồ tát chẳng phỉnh dối chư
Phật, chính mình và chúng sanh vậy.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu Bồ tát chẳng phỉnh dối chư Phật, chính mình và chúng sanh thì gọi là
thiệt trong chơn thiệt.
Nầy Bửu Nữ!
Chẳng phỉnh dối chư Phật còn có bốn sự, đó là tâm ấy vững chắc, an trụ chỗ
chí xứ, đầy đủ thế lực và siêng tu tinh tiến.
Chẳng phỉnh
dối chính mình cũng có bốn sự, đó là tâm thanh tịnh, chí tâm, chẳng phỉnh
dối và chẳng vạy vò.
Chẳng phỉnh
dối chúng sanh cũng có bốn sự đó là trang nghiêm, tu tâm từ, tu tâm bi và
nhiếp thủ.
Nầy Bửu Nữ!
Ðây gọi là thiệt thứ nhứt của Bồ tát.
Thiệt của Bồ
tát là lúc ban sơ phát nguyện chẳng bỏ rời chúng sanh.
Thiệt của Bồ
tát lại còn là chẳng nhiều lời, lời nói giữ gìn, lời nói chẳng thô ác, lời
nói thường chơn thiệt. Hoặc lúc ở một mình hay ở trong đại chúng hay ở bên
vua chúa, lời phát ra đều thành thiệt, chẳng vì tài vật mà cố ý nói dối,
chẳng vì tự tại mà cố ý vọng ngữ. Dầu có thất bửu đầy cả cõi Ðại Thiên thế
giới còn không vì cớ ấy mà cố ý vọng ngữ huống là vì các việc nhỏ mà cố ý
vọng ngữ.
Nầy Bửu Nữ!
Thiệt ấy có ba mươi hai điều thanh tịnh, đó là lời hổ, lời thẹn, lời công
đức, lời dịu dàng, lời chẳng hư luống, lời không có chê trách, lời chẳng
tham trước, lời chẳng e sợ, lời đóng kín các ác đạo, lời mở rộng các thiện
đạo, lời thánh hành, lời huệ hành, lời nội thanh tịnh, lời ngoại thanh
tịnh, lời thích lãnh thọ, lời thích lắng nghe, lời chẳng nhám rít, lời vi
diệu, lời phân biệt, lời giọng hay, lời thuần thiện, lời chẳng phỉnh gạt,
lời chẳng chấp, lời hoan hỉ, lời tự khuyến dụ, lời khuyến dụ người khác,
lời chẳng lỗi, lời an ổn, lời phước điền, lời như Phật, lời thiệt vây
quanh và lời miệng thanh tịnh.
Nầy Bửu Nữ!
Thiệt của Bồ tát là phàm có nói năng thì khẩu với ý tương xứng. Sao gọi là
khẩu với ý tương xứng?
Tu tập bố thí
nên được Bồ đề chẳng phải do xan tham mà có thể được, đây gọi là khẩu ý
tương xứng, mà lời có thể ban cho tất cả, đây gọi là thiệt.
Tu tập tịnh
giới nên được Bồ đề chẳng phải do hủy giới mà có thể được, đây gọi là khẩu
với ý tương xứng, mà lời nói đúng như tịnh giới nên gọi là thiệt.
Tu tập nhẫn
nhục nên được Bồ đề, chẳng phải do sân hận mà có thể được, đây gọi là ý
với khẩu tương xứng, mà lời nói đầy đủ hạnh tu nhẫn nên gọi là thiệt.
Siêng tu tinh
tiến thì được Bồ đề, chẳng phải do lười biếng mà có thể được, đây gọi là
khẩu ý tương xứng, mà lời nói tu tinh tiến nên gọi là thiệt.
Tu tập thiền
định thì được Bồ đề, chẳng phải tâm tán loạn mà có thể được, đây gọi là
khẩu ý tương xứng, mà nói tu tập định tâm nên gọi là thiệt.
Tu tập trí
huệ chứng được Bồ đề, chẳng phải do ngu si mà được, đây gọi là ý khẩu
tương xứng, mà lời nói tu trí huệ nên gọi là thiệt.
Như sáu độ,
về ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề và bốn tâm vô lượng cũng như vậy.
Nầy Bửu Nữ!
Luận về chơn thiệt ấy, đó là thánh hành. Thánh hành ấy đó là khổ hành, vô
thường hành, là biết khổ, lìa tập, chứng diệt và tu tập đạo đế.
Biết thân ngũ
ấm không có xuất sanh, đây gọi là biết khổ đế. Nhơn của ngũ ấm đó là tham
ái thì rốt ráo xa lìa, chẳng tham chẳng trước, chẳng khen chẳng cầu, chẳng
khứ chẳng lai, đây gọi là lìa tập đế.
Dứt diệt tất
cả tướng, nhưng lúc diệt không có một pháp bị diệt, pháp bất bình đẳng thì
làm pháp bình đẳng, đây gọi là chứng diệt đế.
Quán xa ma
tha tỳ bà xá na tướng ấy bình đẳng, không có giác không có quán không có
bình đẳng không hệ phược không lấy được, không có làm không có biến đổi,
đây gọi là tu đạo đế.
Chơn thiệt
biết rõ bốn đế như vậy lại còn có thể phân biệt nói rộng nghĩa tứ đế ấy,
đây gọi là thiệt của đại Bồ tát”.
Lức đức Phật
nói pháp chơn thiệt ấy trong pháp hội có mười ngàn Bồ tát được chơn thiệt
nhẫn.
Ðức Thế Tôn
phán tiếp: "Lại nữa, nầy Bửu Nữ! Về pháp ngữ ấy, đó là lúc diễn thuyết thì
y theo chánh pháp để nói, quán nơi pháp, niệm nơi pháp, phụng hành nơi
pháp, hành pháp chí xứ, cầu pháp, muốn pháp, thích pháp, tu pháp, tràng
pháp, gậy pháp, trang nghiêm pháp khí, pháp đăng, pháp minh, pháp niệm,
pháp ý, pháp hữu, pháp sở, pháp trang nghiêm anh lạc, pháp sàng, pháp
nghi, pháp hộ, pháp tài, pháp vô cùng tận, pháp quảng đại vô biên, pháp
sự, pháp thân, pháp khẩu, pháp ý. Ðại Bồ Tát thành tựu đầy đủ những pháp
như vậy, đây gọi là pháp ngữ.
Pháp ngữ ấy
đó là chơn thiệt ngữ, giữ gìn pháp ngữ, dạy người cúng dường các bực cha
mẹ sư trưởng kỳ cựu có đức, tán thán Bồ đề và trợ đạo Bồ đề khiến người
chẳng bỏ tâm Bồ đề. Chí tâm nhiếp niệm chẳng quên Bồ đề, chẳng rời trang
nghiêm tu tập pháp Bồ đề, thường gần Hiền Thánh các bực thiện tri thức. Tu
tập tín tâm chuyên niệm nghe chánh pháp, mộ cầu chánh pháp siêng tu tinh
tiến, chẳng tham trước pháp, biết ơn báo ơn, thích tịch tĩnh, chẳng để dứt
Thánh chủng. Giáo hóa hạnh đầu đà, siêng thật hành thập thiện, tán thán
công đức bố thí và tất cả pháp lành. Nguyện hướng đến Bồ đề, chí tâm thọ
trì giới luật thanh tịnh, tu tập nhẫn nhục, trừ bỏ giải đãi, tu tập thiền
định và trí huệ, tu tập phương tiện cùng từ bi hỷ xả, tu tập tứ chơn đế xu
hướng chơn đế, tu tứ vô ngại trí được đại thần thông, tùy thuận pháp thí,
tu tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ đề
phần và bát chánh đạo phần. Tu hai pháp định và huệ được trí giải thoát,
giải nói đúng như pháp về Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa.
Tán thán tất cả những phước đức. Thường quán thập nhị nhơn duyên thậm
thâm, rành rẽ không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn, vô nguyện
giải thoát môn, vô sở úy, nói ngũ ấm như ảo như hóa, nói thập bát giới như
tướng hư không, nói tánh các nhập đồng với tánh không. Thường nói thất
thánh tài, lục niệm, lục kính giải nói đầy đủ lục Ba la mật, nói lục
thường hành, tu lục thần thông, đầy đủ ngũ nhãn, nói đệ nhứt nghĩa đế lưu
bố thế gian thành tựu nghiệp ngữ ngôn, tất cả chúng sanh tâm họ bình đẳng,
tán thán Phật ngữ.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu có Bồ tát thành tựu đầy đủ pháp ngữ như vậy thì miệng trọn chẳng nói
ngã ngữ, chúng sanh ngữ, thọ mạng ngữ, sĩ phu ngữ, đoạn ngữ, thường ngữ,
hữu kiến ngữ, vô kiến ngữ, lưỡng biên ngữ, trung ngữ, tụ ngữ, diệt ngữ,
tịnh ngữ, thiên ngữ, bất giác tri ngữ. Thường nói lời chẳng điên đảo, lời
chẳng tăng lòng nghi, lời chẳng nghịch chánh pháp, lời quán pháp giới, lời
phá kiêu mạn. Bồ tát thuyết pháp an trụ đúng pháp nói đúng chánh pháp, là
thiệt ngữ, pháp ngữ, bất đoạn ngữ, bất chiết ngữ. Bồ tát thuyết pháp tất
cả thế gian không ai có thể cùng tranh luận, người thấy đều e sợ. Bực pháp
ngữ Bồ tát có thể diễn thuyết không vô tướng vô nguyện, chẳng trụ trước
tam giới và với các hữu chẳng còn thọ sanh theo nghiệp, bổn tánh thanh
tịnh an trụ tịch tĩnh chẳng cầu xin nơi người. Ðây gọi là pháp ngữ.
Nầy Bửu Nữ!
Luận về pháp ấy, pháp thì chẳng thể được, không có văn tự ngôn thuyết cũng
không có từ ngữ, không sắc không thấy cũng không có chỗ hướng đến, không
lời dạy cũng không người được dạy, không có tâm ý thức, không có trần cấu,
không sáng không tối, chẳng hệ thuộc mình cũng chẳng hệ thuộc người, không
có cao hạ, chẳng xen tạp tất cả cảnh giới nhơn duyên, thanh tịnh tịch
tĩnh, không có dẫn đầu, khó biết khó hay, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tư
duy, người có trí huệ thanh tịnh mới có thể biết được pháp. Pháp ấy không
có thọ không có người thọ dứt hẳn các thọ, siêu quá tam thế, bất diệt
không có tướng diệt, bất sanh không có tướng sanh, không có dư đầy thiếu
kém, không có tăng giảm, vô sanh vô diệt, không có sẽ có đã có, chẳng phải
tu, chẳng phải thấy, chẳng phải ma thấy, chẳng phải chơn thiệt thấy, chẳng
phải tướng, chẳng phải chẳng tướng, chẳng phải nhứt tướng mà cũng nhứt
tướng, chẳng phải ốc trạch xa lìa ốc trạch, chẳng phải gần xa rời lìa,
chẳng phải phược giải, chẳng phải hữu lậu vô lậu cũng chẳng phải tương tợ,
chẳng phải khổ lạc, chẳng phải đầy đủ chẳng đầy đủ, chẳng phải danh sắc,
chẳng phải dính mắc chẳng phải thoát rời, chẳng phải phá chẳng phải hoàn,
dầu chẳng phải kim cương tướng chẳng hư hoại, mà chơn thiệt như kim cương,
chẳng phải cận viễn, không có sắc không có nhơn cũng chẳng phải ngoan hư,
chẳng phải thử bỉ nội ngoại tự tha, chẳng phải kiến văn, chẳng phải nhớ
quên, chẳng phải thức chẳng phải tri, chẳng phải cảnh giới của thức, chẳng
phải cảnh giới của tri. Ðây gọi là pháp. Nếu hay nói rộng các pháp như vậy
thì gọi là thuyết pháp.
Lại nữa, nầy
Bửu Nữ! Pháp ngữ Bồ tát chẳng cùng với thế gian tranh cạnh, chẳng khinh
chẳng mạn. Ðối với người chưa học, không có lòng khinh cười chẳng sanh tâm
cao ngạo, chẳng tự khen chê người, chẳng vì tài lợi ăn uống mà vì người
thuyết pháp, chẳng trở ngại việc lành của người làm cho họ sanh lòng nghi
hoặc, thấy người phạm tội trọn không rao nói, với pháp của kẻ khác chẳng
sanh lòng khinh tiện, không trở ngại pháp được tu hành của người, phàm
pháp được diễn thuyết trọn không rời lìa không vô tướng vô nguyện, chẳng
phân biệt tất cả pháp giới, bất động pháp giới, bất động thiệt tánh. Chẳng
y chỉ nơi ngữ nơi thức nơi nhơn nơi bất liễu nghĩa. Dầu chẳng y chỉ mà
cũng chẳng chê bai. Với chúng mình chúng người chẳng sanh phân biệt cũng
chẳng chê bai thập nhị nhơn duyên. Chẳng phải ở thế gian trụ mà thanh tịnh
nơi thế gian, chẳng phải pháp mà thanh tịnh nơi pháp, không tham, không
xan, không hủy giới, chẳng bỏ kẻ phá giới, không sân hận, không giải đãi,
chẳng mất đạo tâm, không quên Bồ đề, vì muốn trang nghiêm trí huệ vô
thượng mà chẳng nghĩ, chẳng thôi, chẳng thối chuyển. Nơi pháp của người
không sanh lòng đố kỵ. Chẳng vì chấp trước nơi chẳng phải mười hai bộ kinh
mà phỉ báng khế kinh v.v… mười hai bộ. Ở nơi chánh pháp trọn chẳng thấy
phi pháp. Chẳng nhơn nơi khinh mạn mà tăng trưởng khinh mạn. Chẳng bác
nhơn quả và nghiệp quả báo. Ở trong chánh pháp tâm không có thối chuyển.
Biết ơn nhớ ơn chẳng quên báo đáp. Trọn chẳng ôm ấp lòng sân hận, chẳng
chấp ngã kiến, chẳng ganh người được lợi. Ở trong oán thân không có hai ý
tưởng. Bị người chê hại trọn chẳng báo trả. Chẳng làm lưỡng thiệt cho kia
đây đấu loạn. Chẳng có lòng siểm khúc hiển dị để mê hoặc người. Chẳng vì
người khác mừng mà thọ giới Bồ tát, giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni, giới
Thức Xoa Ma Na, giới Sa Di, giới Sa Di Ni, giới Ưu Bà Tắc, giới Ưu Bà Di.
Thường ở chỗ rảnh rang tịch tĩnh mà tư duy chánh niệm. Tâm siêng học đọc
mười hai bộ kinh. Chẳng vì hơn người mà thủ hộ các loại giới luật như vậy.
Chẳng vì được cúng dường mà hiện tướng tri túc. Chẳng vì để hiển bày người
khác chẳng tri túc mà tự tu tri túc. Chẳng nói Bồ đề Vô thượng của chư
Phật là việc làm của người khác. Chẳng tạo ác nghiệp tà ác sanh sống.
Chẳng bỏ thất thánh tài. Chẳng tham ăn uống. Chẳng để dứt mất thánh chủng.
Chẳng chê bai người, chẳng tự khen người. Ở trong Phật pháp chẳng có ý
nghĩa là có số có lượng. Thường tán thán Ðại thừa không có lòng nhàm đủ.
Ðây gọi là pháp ngữ".
Ðức Thế Tôn
lại bảo đồng nữ Bửu Nữ: "Luận về Bồ tát nghĩa ấy, thế nào gọi là nghĩa? Ðó
là tín tâm lúc tu tập trang nghiêm không có hư cuống, vì muốn trang nghiêm
tất cả thiện căn mà chí tâm chuyên niệm tu hành các pháp lành, phá lưới
nghi của tất cả chúng sanh, chẳng cầu quả báo, ban cho chúng sanh sự an ổn
khoái lạc, hộ trì cấm giới, chẳng mất tâm nhẫn nhục, siêng tu tinh tiến
tăng trưởng pháp lành, tu định tịch tĩnh nhiếp các tán loạn, đủ trí vô
thượng phá tối vô minh. Tu tập từ tâm bình đẳng các chúng sanh, tu tập bi
tâm tùy theo chỗ làm của chúng sanh đích thân đến xây dựng, tu tập hỉ tâm
ban cho chúng sanh pháp hỉ, tu tập xả tâm chẳng thấy khổ vui. Xả bỏ tài
pháp rồi không hề hối tiếc, lời nói dịu dàng phá tâm ác người, làm lợi ích
cho người đủ pháp thậm thâm, tu hành đồng sự để khuyên người phát tâm Ðại
thừa, đây là dùng bốn nhiếp pháp để điều phục chúng sanh. Thấy tất cả hành
pháp đều vô thường khổ không vô ngã dứt sạch các phiền não. Y chỉ nơi
nghĩa chẳng y chỉ nơi ngữ, y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh
liễu nghĩa xa bỏ bất liễu nghĩa, y chỉ nơi pháp chẳng y chỉ nơi người. Nói
nghĩa vô ngại không có cùng tận mà ở pháp giới không có phân biệt, nói từ
vô ngại chứng được giải thoát, nói lạc thuyết vô ngại đúng như pháp mà
nói. Trang nghiêm bố thí chẳng biết nhàm đủ, trang nghiêm tịnh giới thành
tựu nguyện lành, trang nghiêm đa văn đúng như pháp mà làm, trang nghiêm
công đức đầy đủ tướng hảo, trang nghiêm trí huệ biết rõ căn tánh thượng
trung hạ và các tướng sai biệt của các chúng sanh, trang nghiêm chánh định
vì tâm thanh tịnh, trang nghiêm nơi trí được ba thứ huệ. Tu Tứ niệm xứ vì
tâm chẳng tán loạn, tu Tứ chánh cần vì được thiên căn, tu Tứ như ý vì qua
lại mười phương, tu tập Ngũ căn biện nói phân biệt các tự cú, tu tập Ngũ
lực đã phá các phiền não, tu Thất giác chi vì biết các pháp, tu tập Bát
chánh đạo chẳng bị ác tà lay động, tu tập thần thông vì chẳng thối thất.
Ðại Bồ Tát
hiểu nghĩa như vậy thì gọi là nghĩa. Nếu đại Bồ Tát hay diễn nói các nghĩa
ấy, thì gọi là thuyết nghĩa.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Luận về nghĩa ấy, đó là tu tập không tam muội phá các pháp có, tu
tập vô tướng tam muội phá các pháp tướng, tu tập vô nguyện tam muội chẳng
cầu tam giới. Nếu có thể diễn nói ba pháp môn rỗng không không có như vậy
thì gọi là thuyết nghĩa.
Tất cả hành
chẳng thể tu hành được, Bồ tát diễn nói pháp chẳng thể tu hành được nầy
thì gọi là thuyết nghĩa.
Dứt tất cả
sanh khởi, đây gọi là nghĩa, Bồ tát diễn nói các pháp vô sanh nầy thì gọi
là thuyết nghĩa.
Các hữu không
có xuất, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.
Tứ chơn đế,
đây gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.
Không có ngã
không có ngã sở, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết
nghĩa.
Tự cú chẳng
nói được, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.
Nghĩa chơn
thiệt, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là thuyết nghĩa.
Tất cả pháp
Bồ đề chẳng thể đếm kể, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là
thuyết nghĩa.
Người đa văn
an trụ đúng như pháp, đây gọi là nghĩa, diễn thuyết như vậy thì gọi là
thuyết nghĩa.
Tất cả các
thừa, Ðại thừa là hơn hết, đây gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là
thuyết nghĩa.
Còn nữa, nầy
Bửu Nữ! Vô phân biệt, đây gọi là nghĩa, không có chúng sanh không có thọ
mạng, nhứt vị bất động, bất tận nhứt sự, bất sanh bất xuất, bất lai bất
khứ, bất diệt bất nhị, chẳng thể xem thấy, không có tạo tác, vô vi vô tác,
tâm chẳng siểm khúc, tam thế bình đẳng, ba phần không sai biệt, chẳng được
chẳng mất, chẳng nóng chẳng lạnh, chẳng tịnh chẳng uế, chẳng đi chẳng
đứng, chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng phải đạo dạy đạo, chẳng phải thường chẳng
phải đoạn, cũng chẳng phải trung đạo, chẳng tham chẳng sân, chẳng nhìn nơi
pháp và phi pháp, chẳng phải tất cả văn tự âm thanh từ ngữ, không có tâm ý
thức, nơi tham sân si chẳng sanh phân biệt, tất cả các pháp tác tướng có
tướng đều là không, vô tướng và vô nguyện ba môn nầy tức rỗng không, chơn
thiệt nhập pháp giới, đẳng cùng bất đẳng đều bình đẳng, nhơn nơi trí huệ
mà được giải thoát.
Nếu Bồ tát có
đủ các nghĩa như vậy thì gọi là nghĩa, diễn nói như vậy thì gọi là thuyết
nghĩa.
Lại nầy Bửu
Nữ! Thế nào là Bồ tát diễn nói tỳ ni?
Nầy Bửu Nữ!
Ðức Phật nói tỳ ni phàm có hai thứ, đó là phạm tỳ ni và phiền não tỳ ni.
Thế nào là
phạm và thế nào là tỳ ni?
Phạm rồi liền
biết mà chẳng tư duy tốt, nhơn vì vô minh điên đảo hư vọng khi cuống phiền
não chấp ngã chấp chúng sanh, tâm có lưới nghi chẳng được giải thoát, điệu
cử nghi hối kiêu mạn phóng dật quả văn, nhơn các phiền não kiết sử như vậy
đây gọi là phạm.
Nếu phá được
tâm nghi được giải thoát do được giải thoát rồi thấy chỗ có phạm tức là
chẳng phải chỗ cũng chẳng phải chẳng chỗ, chẳng phải thân khẩu ý, chẳng
lấy chẳng bỏ, chẳng thể xem thấy, chẳng phải thân làm cũng phải khẩu ý
làm, nếu là ba nghiệp làm tức là pháp diệt, nếu đã là pháp diệt thì ai làm
ai phạm, như phạm tất cả các pháp cũng như vậy, các pháp vô căn vô trụ vô
xứ. Nếu có thể phá hoại lưới nghi như vậy thì gọi là thanh tịnh là chẳng
nhiệt não, theo lời dạy của Thầy mà làm thì gọi là có lòng tin gọi là định
gọi là tỳ ni.
Thế nào là
phiền não và thế nào là tỳ ni?
Mười hai hữu
chi là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh và lão tử gọi là phiền não, tánh của nó có thể điều phục được các
phiền não thì gọi là tỳ ni. Tại sao, vì không vô tướng vô nguyện có thể
điều phục các pháp, nếu pháp đã là rỗng không không có tánh tướng chẳng
thể nguyện cầu thì làm thế nào mà có được tham sân si v.v… Vì vô tác hay
điều phục tất cả pháp, nếu tất cả pháp đã là vô tác thì làm sao có được
các phiền não. Vì tất cả pháp thì nhơn duyên sanh, nếu đã từ nhơn duyên
sanh thì làm sao thấy được, thấy mười hai hữu chi như vậy thì cũng biết
phiền não và tướng phiền não. Nếu là không trí hay quán Bồ đề thì dùng
không nầy mà không nơi phiền não. Nếu hay quán sát bình đẳng như vậy thì
gọi là tỳ ni.
Nếu hay diễn
thuyết các nghĩa như vậy thì gọi là Bồ tát hay thuyết tỳ ni.
Nếu tỳ ni nầy
hay biết được ngã thì tức là biết rõ phiền não tỳ ni.
Thế nào là
biết ngã tỳ ni? Ðó là quán vô ngã, quán ngã tánh, biết rõ ngã, sạch hết
ngã, thiệt biết ngã, phân biệt ngã không, ngã tu, biết ngã bất động bất
thuyết bất trước bất sanh bất diệt.
Nếu có thể
biết được ngã như vậy thì tức là biết rõ phiền não tỳ ni.
Nếu thiệt
không có ngã mà có ý tưởng là ngã, thì nơi không có phiền não cũng có ý
tưởng phiền não. Nếu ngã bổn lai không có thì phiền não cũng vậy.
Nếu có quán
trí thì có thể quán sát biết rõ như vậy, đây gọi là biết rõ ngã phiền não
tỳ ni.
Về phiền não
ấy, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, nếu có thể chẳng làm chẳng nhớ
chẳng cầu thì gọi là biết rõ phiền não tỳ ni.
Tỳ ni ấy cũng
chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, như tâm chẳng phải sắc chẳng phải nội
ngoại trung gian, phiền não cũng vậy chẳng phải sắc chẳng phải nội ngoại
trung gian, tại sao, vì không có giác tri vậy, vì không có tranh cạnh vậy,
vì không có thanh tịnh vậy, vì không có tạo tác vậy.
Nếu có thể
biết rõ các phiền não chẳng sanh chẳng diệt như vậy thì gọi là biết rõ
phiền não tỳ ni.
Nếu Bồ tát
được những biết rõ phiền não tỳ ni như vậy và cũng vì các chúng sanh mà
diễn nói thì gọi là diễn thuyết tỳ ni”.
Lúc đức Phật
nói pháp trên, trong pháp hội có mười ngàn Bồ tát được vô sanh nhẫn.
Bấy giờ Bửu
Nữ lòng rất vui mừng bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðức Như Lai nói pháp
nghĩa chơn thiệt và tỳ ni chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Bồ tát có thể diễn
thuyết như vậy thì tức là có thể thiệt biết thiệt thấy”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi đồng nữ Bửu Nữ: "Nay đồng nữ đã có đủ các pháp như vậy mà có
thể diễn thuyết chăng ?”.
Bửu Nữ nói:
"Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Thiệt ấy gọi là vô tham, vô tham tức là nghĩa,
nghĩa như vậy tức là bất khả thuyết, bất khả thuyết ấy tức là tỳ ni.
Thưa Ðại Ðức!
Nếu đã như vậy thì thế nào có thể nói được!
Lại nữa, thưa
Ðại Ðức Xá Lợi Phất! Thiệt ấy tức là diệt, diệt ấy tức là pháp, pháp ấy
tức là tịnh, tịnh ấy tức là nghĩa, nghĩa ấy tức là tỳ ni. Các pháp như vậy
không có văn tự, nếu đã không có văn tự thì thế nào nói được.
Thưa Ðại Ðức!
Thiệt ấy tức là như, như ấy tức là pháp, pháp tức là vô nhị, vô nhị tức là
nghĩa, luận về vô nhị cũng chẳng thể điều, nếu chẳng thể điều sao gọi là
điều, các pháp như vậy đều vô sở hữu, nếu là vô sở hữu thì thế nào nói
được”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi: "Nay đồng nữ thành tựu Bửu nào mà do đó đặt tên là Bửu Nữ
?”.
Ðồng nữ Bửu
Nữ đáp: "Thưa Ðại Ðức! Có ba mươi hai Bồ tát bửu tâm, trong tâm như vậy
đều không có tâm Thanh văn không có tâm Duyên Giác.
Những gì là
ba mươi hai Bồ tát bửu tâm?
Một là phát
tâm vì độ tất cả chúng sanh
Hai là phát
tâm vì khiến Phật chủng chẳng dứt
Ba là phát
tâm vì thọ trì Phật pháp chẳng diệt tận
Bốn là phát
tâm vì thủ hộ Tăng.
Năm là phát
tâm vì ban cho các chúng sanh vui thánh pháp.
Sáu là phát
tâm vì các chúng sanh mà tu tập đại từ làm cho chúng sanh rời lìa các khổ
phiền não.
Bảy là phát
tâm tu tập đại bi xả bỏ vật trong vật ngoài.
Tám là phát
tâm hộ trì cấm giới vì điều kẻ phá giới.
Chín là phát
tâm tu tập nhẫn nhục vì phá hoại chẳng nhẫn kiêu mạn ác tâm điên tâm túy
tâm cuồng tâm phóng dật tự tứ tâm.
Mười là phát
tâm tinh tiến vì phá những giải đãi tâm e sợ ngần ngại và để điều phục các
chúng sanh giải đãi.
Mười một là
phát tâm tu tập chánh định vì phá loạn tâm cuồng tâm vọng niệm khiến cho
chúng sanh được tứ thiền bát giải thoát điều phục các chúng sanh cõi Dục.
Mười hai là
phát tâm tu trí vì phá tất cả si tối thành tựu chơn thiệt tri kiến nhập
vào pháp giới.
Mười ba là
phát tâm vì biết tất cả chúng sanh bình đẳng vô nhị đều đồng nhứt vị.
Mười bốn là
phát tâm vì được vô tham vô sân các cảnh lợi suy hủy dự tâm không dao động
an trụ pháp lành khổ vui chẳng động, vì được những sự như vậy để hộ trì
chúng sanh.
Mười lăm là
phát tâm vì được không bố úy muốn liễu thậm thâm thập nhị nhơn duyên xa
lìa tất cả kiến chấp.
Mười sáu là
phát tâm vì muốn trang nghiêm trí huệ và các công đức không có nhàm đủ.
Mười bảy là
phát tâm vì muốn chẳng rời thấy Phật để thường được nghe pháp.
Mười tám là
phát tâm vì muốn đúng như chỗ được nghe mà thuyết pháp.
Mười chín là
phát tâm vì được khối pháp rộng lớn tâm không tham lẫn.
Hai mươi là
phát tâm vì muốn tán thán tịnh giới như chỗ nghe mà an trụ để giáo hóa
khuyên nhắc người phá hủy tịnh giới.
Hai mươi mốt
là phát tâm vì phá bảy thứ kiêu mạn của chúng sanh.
Hai mươi hai
là phát tâm vì biết căn thượng trung hạ của các chúng sanh.
Hai mươi ba
là phát tâm vì phá các ma ác nghiệp.
Hai mươi bốn
là phát tâm vì ban cho chúng sanh sự an lạc.
Hai mươi lăm
là phát tâm vì phá bao nhiêu sự khổ của các chúng sanh lòng chẳng sanh hối
tiếc.
Hai mươi sáu
là phát tâm vì muốn thành tựu tất cả Phật pháp.
Hai mươi bảy
là phát tâm vì biết các pháp hữu vi tất cả vô thường khổ vô ngã biết rồi
không rời lòng chẳng nhàm hối.
Hai mươi tám
là phát tâm vì thích tu tập tất cả pháp trợ Bồ đề.
Hai mươi chín
là phát tâm vì thấy không vô tướng vô nguyện vì chúng sanh mà không thủ
chứng.
Ba mươi là
phát tâm dầu sợ các hữu mà cũng thủ hộ các hữu.
Ba mươi mốt
là phát tâm vì dầu thấy tội lỗi sanh tử mà chẳng nhàm hối.
Ba mươi hai
là phát tâm vì mặc dầu gần Bồ đề, thọ vô thượng lạc mà vì chúng sanh bỏ
diệu lạc ấy để thọ khổ bần cùng.
Thưa Ðại Ðức!
Ba mươi hai bửu phát tâm ấy đều không có tâm Thanh văn, Bích Chi Phật, vì
vậy mà Bồ tát có tên là Bửu Tụ”.
Ðức Thế Tôn
tán thán Bửu Nữ: "Thiện tai, thiện tai! Nay ngươi chơn thiệt nói đại Bồ
tát phát Bồ đề tâm, mà Bồ đề tâm có vô lượng vô biên công đức chẳng thể
nói bằng ba mươi hai sự. Tại sao, vì chẳng phải Thanh văn bửu có thể được
Phật bửu, chẳng phải Duyên Giác bửu có thể được Pháp bửu, do Bồ tát bửu có
thể được Phật bửu, được Phật bửu rồi thì được Thanh văn bửu, được Bích Chi
Phật bửu. Vì vậy mà Bồ tát có tên là Bửu Tụ”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nói của Bửu Nữ chẳng thể nghĩ
bàn. Tôi xem xét lời nói ấy thì đồng nữ nầy tợ như được tứ vô ngại trí”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Nay ông mới cho là đồng nữ ấy chưa được tứ vô ngại
trí sao. Từ lâu đồng nữ ấy đã được đầy đủ bốn trí vô ngại.
Nầy Xá Lợi
Phất! Chỗ thuyết pháp của Bửu Nữ, tự chẳng thể tận, văn cú nghĩa vị đều
chẳng thể tận”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nói với Bửu Nữ: "Nầy nhơn giả! Nay xin nói rộng về tứ vô ngại
trí”.
Bửu Nữ nói:
"Thưa Ðại Ðức! Tứ vô ngại trí ở nơi tất cả pháp đều thành trí cả.
Thưa Ðại Ðức!
Bồ đề tâm gọi là vô ngại cú, tại sao, vì Bồ đề tâm nhiếp tất cả nghĩa, đây
gọi là nghĩa vô ngại trí. Tất cả các pháp giới nhập vào Bồ đề tâm đây gọi
là pháp vô ngại trí. Thiệt không có văn tự mà diễn thuyết văn tự đây gọi
là từ vô ngại trí. Pháp chẳng thể nói mà diễn nói không đoạn tuyệt đây gọi
là lạc thuyết vô ngại trí. Nghĩa chẳng thể nói đây gọi là nghĩa vô ngại.
Tất cả các pháp đều là tướng như huyễn ảo gọi là pháp vô ngại. Nghiệp hành
vô ngôn thuyết gọi là từ vô ngại. Với lục nhập không có chướng ngại là lạc
thuyết vô ngại. Liễu đạt nơi nghĩa gọi là nghĩa vô ngại. Thích nơi tịch
tĩnh gọi là pháp vô ngại. Tự chẳng hiệp với pháp và pháp chẳng hiệp với
nghĩa là từ vô ngại. Thuyết tức là thanh gọi là lạc thuyết vô ngại. Như
Lai chánh giác tức là nghĩa Bồ đề gọi là nghĩa vô ngại. Nghĩa Bồ đề ấy hay
sanh các pháp là pháp vô ngại. Pháp có thể làm câu là từ vô ngại. Thuyết
rồi được nghĩa gọi là lạc thuyết vô ngại. Pháp nghĩa ấy gọi là nghĩa vô
ngại. Giải thoát ấy gọi là pháp vô ngại. Diễn thuyết pháp tướng chẳng phải
có pháp tánh gọi là từ vô ngại. Phân biệt pháp giới và chẳng phải pháp
giới gọi là lạc thuyết vô ngại. Tăng tức là vô vi gọi là nghĩa vô ngại.
Chư Tăng nhứt vị gọi là pháp vô ngại. Vì hòa hiệp Tăng gọi là từ vô ngại.
Thuyết công đức của chư Tăng gọi là thuyết vô ngại.
Thưa Ðại Ðức!
Bốn vô ngại ấy khắp cả tất cả pháp”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Ðồng nữ nầy từ khi phát tâm đến
nay được bao lâu rồi? Ở bên đức Phật nào mà gieo trồng thiện căn?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Về thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật
xuất thế hiệu là Phân Biệt Kiến Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
thế giới ấy tên là Ðại Tịnh như cung Trời Ðâu Suất Ðà, cùng với chúng Bồ
tát Tăng bảy vạn sáu ngàn tất cả đều thanh tịnh phạm hạnh được môn đà la
ni bất thối chuyển. Lúc ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Tịnh Ðức Báo
cai trị tự tại một ngàn thế giới, hậu cung có tám vạn bốn ngàn thể nữ, có
đủ một ngàn vương tử, sức lực đồng với lực sĩ Liên Hoa. Lúc ấy trong ba
vạn sáu ngàn năm, Thánh vương cúng dường Phật và Bồ tát Tăng các thứ phòng
xá, ngọa cụ, y phục, uống ăn, thuốc men”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chẳng rõ đức Phật Phân Biệt Kiến ấy
thọ mạng bao nhiêu tuổi ?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Xá Lợi Phất! Ðức Phật Phân Biệt Kiến ấy thọ đủ mười trung kiếp.
Lúc ấy Chuyển
Luân Thánh Vương cùng với hậu cung quyến thuộc thể nữ và nhơn dân chín vạn
hai ngàn ức na do tha người mang theo vô lượng vô biên các thứ cúng dường
đến chỗ đức Phật Phân Biệt Kiến đem tám ngàn ức trân bửu thượng diệu rải
lên đức Phật, đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi quỳ dài chắp tay cung kính
bạch rằng:
Bạch đức Thế
Tôn! Nay chỗ chúng tôi sắp đặt các thứ cúng dường như vậy, chẳng biết còn
có sự cúng dường nào hơn đây chăng?
Ðức Phật Phân
Biệt Kiến nói: Nầy Ðại Vương Tịnh Ðức Báo! Còn có sự cúng dường khác công
đức hơn sự cúng dường nầy trăm ngàn vạn lần.
Thánh Vương
bạch đức Phật Phân Biệt Kiến: Bạch đức Thế Tôn! Ðó là sự cúng dường gì,
xin đức Thế Tôn nói cho, chúng tôi rất muốn được nghe.
Ðức Phân Biệt
Kiến Như Lai nói kệ rằng:
Như hằng hà sa số thế giới
Trong ấy đầy báu đem cúng thí
Dầu được vô lượng phước như vậy
Chẳng bằng vì thương mà phát tâm
Chư Phật số như hằng hà sa
Dâng diệu hoa hương để cúng dường
Phước đức nầy so còn chẳng bằng
Phát tâm Bồ đề bảy bất thối
Phát Bồ đề tâm tức cúng dường
Giới nhẫn tinh tiến thiền trí huệ
Nếu vì lòng thương mà phát tâm
Phước ấy vô lượng chẳng cùng tận
Sắc đẹp lực tài dòng họ lớn
Người nầy mới phát được Bồ đề
Chúa ngàn thế giới đến Phạm Thiên
Ðược đại tự tại mới phát được
Nếu thích mừng phát Bồ đề tâm
Như vậy mới dứt được ác đạo
Hay vì nhơn thiên mở chánh đạo
Hay bít ác đạo và bát nạn
Các căn đầy đủ chẳng mù điếc
Ðều do chí tâm phát Bồ đề
Hay thấy mười phương các Thế Tôn
Hay phát trên trời vị cam lộ
Nếu chí tâm phát đại Bồ đề
Người nầy phá được nghi kiêu mạn
Vô lượng trí huệ được tự tại
Hay vì chúng sanh thuyết pháp giới
Chúng sanh thấy đó như cha mẹ
Tưởng như thầy bạn và lương y
Hay trị lành bịnh các phiền não
Dạy bảo khiến đến Bồ đề đạo.
Thánh Vương
Tịnh Ðức Báo nghe đức Phật Phân Biệt Kiến nói phát Bồ đề tâm được công đức
như vậy, lòng Vương rất vui mừng hớn hở vô lượng, cùng các quyến thuộc thể
nữ và nhơn dân đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền ở trước
đức Phật mà nói kệ rằng:
Nay tôi thương xót các chúng sanh
Nên phát Bồ đề tâm như vậy
Nếu muốn có được đại tự tại
Chẳng nên thối chuyển Bồ đề tâm
Sanh tử vô lượng sanh khổ não
Mà không lợi ích cho tự tha
Thà phát tâm nầy mà chịu khổ
Chẳng vì an vui mà chẳng phát
Nếu có ai phát tâm Bồ đề
Liền được phước trời người Thánh vương
Cũng được vui tịch tĩnh vô lậu
Và được vui Vô thượng Bồ Ðề
Huệ nhẫn tam muội tối vô thượng
Ðủ tứ vô lượng và lục độ
Ba thứ tịnh huệ sáu thần thông
Bốn vô ngại trí đại tự tại
Vô thượng thập lực bốn vô úy
Và tam niệm xứ đại từ bi
Thành tựu thập bát bất cộng pháp
Tất cả đều do phát Bồ đề
Hay chấn động mười phương thế giới
Cũng biết tâm chúng sanh mười phương
Hay độ vô lượng các chúng sanh
Ðều do phát tâm Bồ đề nầy.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|