Bạch
đức Thế Tôn ! Chư Phật Như Lai bất khả tư nghị, công hạnh Bồ Tát không có
ngằn mé, vì vậy nên nay tôi kính hỏi đấng Như Lai Vô thượng Pháp Vương đại
từ đại bi, để đem lại sự lợi ích cho chúng sanh về pháp thậm thâm.
Thế
nào gọi là Bồ Tát hạnh ? Dùng gì làm anh lạc trang nghiêm mà công hạnh của
Bồ Tát được thanh tịnh ? Làm sao có thể phá được tối ngu si ? Làm sao có
thể dứt hết lòng nghi lầm ? Bồ Tát vì chúng sanh tu tâm từ bi thế nào ? Bồ
Tát ùng hộ chúng sanh thế nào ? Thế nào là Bồ Tát hay tu Bồ Tát nghiệp,
thiện nghiệp và bất thối nghiệp ? Nguyện đức Như Lai xót thương tuyên dạy
cho. Ðại chúng trong pháp hội nầy đều có lợi căn trí huệ có thể hiểu lời
Phật. Có thể biết pháp giới, có thể thấu đạt pháp môn vô ngại sở hành của
Bồ Tát, có thể phá hoại tất cả ma và nghiệp ma, có thể trừ hết lòng nghi,
có thể hiểu cảnh giới thậm thâm của Phật, có thể biết chúng sanh giới và
chúng sanh tâm tánh, có thể thấy vô lượng chư Phật thế giới, có thể hộ trì
Như Lai vô thượng chánh pháp, có thể được đại tự tại nơi tất cả pháp ».
Ðức
Thế Tôn khen Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng: Lành thay lành thay !
Thiện nam tử có thể hỏi đức Như Lai về những nghĩa thậm thâm, có thể hay
thật hành vô lượng Phật hạnh, ông có thể biết hỏi đức Phật như vậy. Nay
ông nên lắng nghe, đức Như Lai sẽ vì ông mà tuyên nói nếu Bồ Tát thành tựu
đầy đủ những công hạnh như vậy thì được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Nầy thiện nam tử ! Bồ Tát có bốn anh lạc trang nghiêm,
đó là giới anh lạc trang nghiêm, tam muội anh lạc trang nghiêm, trí huệ
anh lạc trang nghiêm và đà la ni anh lạc trang nghiêm.
Giới anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là đối với
chúng sanh không có lòng làm tổn hại, nếu Bồ Tát không có tâm ác hại thì
tất cả chúng sanh đều vui mừng thích thấy. Còn có hai thứ, đó là đóng bít
ác đạo và mở rộng cửa lành. Còn có ba thứ, đó là thân thanh tịnh, khẩu
thanh tịnh và ý thanh tịnh. Còn có bốn thứ, đó là sở cầu đều được, sở
nguyện đầy đủ, sở nguyện thành tựu, chỗ muốn thì đều có thể làm được. Còn
có năm thứ, đó là tín, giới, định, niệm và huệ. Còn có sáu thứ, đó là
chẳng phá giới, chẳng lậu giới, chẳng tạp giới, chẳng hối giới, tự tại
giới, và vô lậu giới. Còn có bảy thứ, đó bảy thanh tịnh : bố thí thanh
tịnh, nhẫn nhục thanh tịnh, tinh tiến thanh tịnh, thiền định thanh tịnh,
trí huệ thanh tịnh, phương tiện thanh tịnh và thiện phương tiện thanh
tịnh. Còn có tám thứ, đó là tám cụ túc : vô tác cụ túc, địa cụ túc, bất
vong tâm cụ túc. bất huởn cụ túc, chư căn cụ túc. Phật thế cụ túc, ly nạn
cụ túc và thiện hữu cụ túc . Còn có chín thứ, đó là bất động, bất úy, định
trí, tịch tĩnh, chí tâm, thanh lương, kiết huởn, điều tâm và an trụ điều
phục địa. Còn có mười thứ, đó là thân thanh tịnh vì có đủ ba mươi hai
tướng tốt, khẩu thanh tịnh vì lời nói không hai, ý thanh tịnh vì đã giải
thoát, điền thanh tịnh vì làm cho chúng sanh đầy đủ phước đức, tâm thanh
tịnh vì điều phục chúng sanh, cõi nước thanh tịnh vì giáo hóa chúng sanh,
danh hiệu thanh tịnh vì được công đức Như Lai, huệ thanh tịnh vì có đại
thần thông, phương tiện thanh tịnh vì phá các ma chúng, và giới thanh
tịnh vì có đủ pháp bất cộng. Nầy thiện nam tử, các sự như vậy gọi là giới
anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử ! Tam muội anh lạc trang nghiêm có một
thứ, đó là vì chúng sanh mà tu tập từ tâm. Còn có hai thứ, đó là chất trực
và nhu nhuyến. Còn có ba thứ, đó là chẳng hư dối, chẳng thô bạo và chẳng
tà siểm. Còn có bốn thứ, đó là chẳng tham ái, chẳng sân hận, chẳng bố úy
và chẳng si mê. Còn có năm thứ, đó là xa lìa năm cái chướng tam muội. Còn
có sáu thứ, đó là tu tập lục niệm tam muội. Còn có bảy thứ, đó là tu tập
thất giác chi tam muội. Còn có tám thứ, đó là tu tập bát chánh đạo tam
muội. Còn có chín thứ, đó là Bồ Tát tu tập tâm Bồ dề và tâm đại từ bi ở
nơi tất cả chúng sanh mà tu tập niệm tâm xa lìa tất cả pháp ác dục có giác
có quán tịch tĩnh hỉ lạc được Sơ thiền , xa lìa giác quán nội tâm được hỷ
lạc chí tâm tư duy vô giác vô quán định sanh hỷ lạc được đệ Nhị thiền, lìa
hỷ tu xả đầy đủ niệm tâm không có phóng dật thân thọ an lạc được đệ Tam
thiền, xa lìa khổ lạc diệt trừ tâm ưu hỷ, chẳng phải khổ chẳng phải lạc tu
tập xả niệm tịch tĩnh, niệm dược đệ Tứ thiền, xa lìa sắc tướng tu tập vô
lượng không tưóng, xa lía không tướng tu vô lượng Thức tướng, xa lìa thức
tướng tu Vô sở hữu tướng, xa lìa vô sở hữu tướng tu Phi tưởng phi phi
tưởng tướng và mặc dầu chưa thành tựu trí thiện quyền phương tiện, mà dùng
sức tam muội giáo hóa chúng sanh. Còn có mười thứ, đó là quán pháp không
có sai lầm, thành tựu đầy đủ xa ma tha, tinh tiến không ngừng nghỉ, khéo
biết rõ thời tiết, chí tâm thọ trì pháp lành, tâm tịch tĩnh, quán thân vô
tướng, thường quán pháp giới và tâm được tự tại và chứng được Thánh tánh.
Ðây gọi là tam muội anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử ! Trí huệ anh
lạc trang nghiêm có một thứ, đó là tâm không còn nghi. Còn có hai thứ, đó
là xa lìa tâm nghi và xa lìa tâm sân. Còn có ba thứ, đó là xa lìa vô minh,
phá vỏ vô minh và làm ánh sáng lớn. Còn có bốn thứ, đó là biết khổ, dứt
tập, chứng diệt và tu hành đạo phẩm. Còn có năm thứ, đó là giới tụ thanh
tịnh, định tụ thanh tịnh, huệ tụ thanh tịnh, giải thoát tụ thanh tịnh và
giải thoát tri kiến tụ thanh tịnh. Còn có sáu thứ, đó là thanh tịnh bố thí
Ba la mật có ba : một là nội thanh tịnh quán pháp như huyễn, hai là chúng
sanh thanh tịnh quán pháp như mộng và ba là Bồ đề thanh tịnh chẳng cầu quả
báo. Thanh tịnh giới Ba la mật có ba : một là quán thân như bóng, hai là
quán khẩu nhu vang và ba là quán tâm như huyễn. Thanh tịnh nhẫn Ba la mật
có ba : một là nghe chê chẳng sân, hai là nghe khen chẳng mừng và ba là
lúc bị chặt chém giết hại thường có thể quán pháp giới. Thanh tịnh tinh
tiến Ba la mật có ba : một là chẳng tưởng, hai là vững chắc và ba là chẳng
thấy pháp có tướng. Thanh tịnh thiền Ba la mật có ba : một là chẳng trụ
trước các pháp, hai là tâm chẳng thối chuyển, ba là duyên cảnh thanh tịnh.
Thanh tịnh phương tiện Ba la mật có ba: một là nhiếp lấy chúng sanh để cho
được giải thoát, hai là thanh tịnh đà la ni để thọ trì chánh pháp và ba là
sở nguyên thanh tịnh để tịnh Phật quốc độ. Còn có bảy thứ trí huệ anh lạc
trang nghiêm, đó là tu Tứ niệm xứ chẳng lấy chẳng chấp, tu Tứ chánh cần
chẳng xuất chẳng diệt, tu Tứ thần túc thân tâm thanh tịnh, tu Ngũ căn biết
căn không có căn, tu Ngũ lực hay phá phiền não, tu Bồ đề phần biết pháp
giới chơn thiệt và tu tập Thánh đạo không có khứ lai. Còn có tám thứ, đó
là tu tam muội chánh định để được rốt ráo thanh tịnh, tu tri để phá si ám,
tu trí biết ngũ ấm để biết pháp tu, tu trí biết thập bát giới để hiểu pháp
giới đồng hư không, tu trí biết thập nhị nhập để biết pháp tánh bình đẳng,
tu trí biết Mười hai nhơn duyên để quán vô ngã và không có ngã sở, tu trí
biết tứ Thánh đế để phá bốn điên đảo kiến và tu trí phân biệt biết pháp
giới để biết chơn thiệt vậy. Còn có chín thứ, đó là quán vô thường, quán
vô thường khổ, quán khổ vô ngã, quán ăn bất tịnh, quán thế gian không gì
đáng vui thích, quán trong vòng sanh tử có nhiều lỗi họa, quán giải
thoát, quán lìa tham và quán tận diệt vậy. Còn có mười thứ, đó là quán
các pháp như ảo huyễn, quán các pháp như mộng, quán các pháp như dương
diệm, quán các pháp như âm vang, quán các pháp như thân cây chuối, quán
các pháp như mặt trăng trong nước, quán các pháp như bóng, quán pháp giới
không có tăng giảm, quán các pháp không có đi hay ở và quán các pháp vô vi
không có sanh diệt vậy. Ðây là huệ anh lạc trang nghiêm.
Nầy thiện nam tử !
Ðà la ni anh lạc trang nghiêm có một thứ, đó là chẳng mất niệm tâm. Còn có
hai thứ , đó là trước thì ghi nhận và sau thì rốt ráo có thể giữ vững. Còn
có ba thứ, đó là biết nghĩa, biết chữ và biết nói. Còn có bốn thứ, đó là
nói lời chơn chánh, nói lời rõ ràng, nói lời vô ngại và nói lời không lầm
lỗi. Còn có năm thứ đó là ngũ y chỉ : y chỉ nơi nghĩa chẳng y chỉ nơi chữ,
y chỉ nơi trí chẳng y chỉ nơi thức, y chỉ kinh liễu nghĩa mà chẳng y chỉ
nơi kinh bất liễu nghĩa, y chỉ nơi chánh pháp mà chẳng y chỉ nơi người và
y chỉ xuất thế chẳng y chi thế tục. Còn có sáu thứ, đó là đúng như lời nói
chơn chánh mà làm, lời nói ra đều thành thiệt, phát ngôn được người thích
nghe, lời nói đầy ý xót thương, lời nói sanh pháp lành và lời nói hạp thời
tiết. Còn có bảy thứ, đó là lời nói lợi ích, lời nói trang nghiêm, lời nói
vô ngại, lời nói không trệ, lời nói không có hai, lời nói đã có biết trước
và lời nói rõ ràng rành rẽ. Còn có tám thứ, đó là biết lời nói của các địa
phương, biết lời nói của các quỷ thần, biết lời nói của chư Thiên, biết
lời nói của các loài Rồng, biết lời nói của Thần Càn Thát Bà, biết lời nói
của hàng A Tu La, biết lời nói của hàng Kim sí điểu và biết lời nói của
các loài súc sanh. Còn có chín thứ, đó là lời nói không e sợ, lời nói
không rụt rè, lời nói không vấp váp, biết lời nói giải thoát, biết lời nói
đúng pháp, biết lời nói rộng rãi, biết lời nói theo thứ tự, biết lời nói
thuyết vô thường và lời nói không cùng tận. Còn có mười thứ, đó là lời nói
phá lưới nghi, lời nói khai thị về pháp giới, lời nói khai thị về pháp
môn, lời nói mở mang trí huệ, lời nói phá mê tối, lời nói hiểu mỗi mỗì
chữ, lời nói khen ngợi Phật, lời nói quở trách phiền não, lời nói phân
biệt căn tánh lợi hay độn và lời nói vi diệu khai thị công đức của đức
Phật. Ðây là đà la ni
anh lạc trang nghiêm vậy ».
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại
nghĩa nầy nên nói tụng rằng:
Bốn anh lạc trang nghiêm
Hay trang nghiêm Ðại thừa
Là giới định trí huệ
Và đà la ni vô thượng
Làm cho ba nghiệp tịnh
Mọi người đều mến thích
Dứt hẳn ba ác đạo
Gọi là giới anh lạc
Ðược đầy đủ sở nguyện
Ðược thân người thân trời
Hay tu tập tinh tiến
Gọi là giới anh lạc
Hay tu định vô thượng
Ðược hai thứ giải thoát
Thấy Niết bàn vô thượng
Gọi là giới anh lạc
Giới chẳng phá chẳng lậu
Vô thượng giới chẳng tạp
Hay được đại tự tại
Giới anh lạc trang nghiêm
Giới tịnh hay tịnh thí
Giới tịnh hay tịnh nhẫn
Giới tịnh ngũ độ tịnh
Giới anh lạc trang nghiêm
Tịnh giới tịnh ba cõi
Giới tịnh bất phóng dật
Vô úy tâm chẳng hối
Gọi là giới anh lạc
Giới định được Thánh tánh
Cũng làm thân tâm tịnh
Nhập được vô biên định
Gọi là giới anh lạc
Chẳng kính sợ chẳng động
Chắc được cõi thanh tịnh
Hay dứt dây phiền não
Gọi là giới anh lạc
Hay điều người khó điều
Hay được danh tiếng lớn
Trang nghiêm tâm tự tại
Gọi là giới anh lạc
Hay làm đúng như lời
Hay sạch miệng bốn nghiệp
Xa lìa các phiền não
Giới anh lạc trang nghiêm
Hay thanh tịnh Phật độ
Hay điều phục chúng sanh
Hay tu đại từ bi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Chẳng làm các nghiệp ác
Tu các hạnh Bồ Tát
Ðược thập lực vô úy
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay nghiêm đại Niết bàn
Hay được đại nhơn quả
Từ tâm khắp chúng sanh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay lìa lòng tham dối
Tu tập bốn nhiếp pháp
Dứt ái sân bố si
Gọi anh lạc trang nghiêm
Hay phá năm cái chướng
Tu tập đại niệm tâm
Trợ đạo chẳng phóng dật
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ðầy đủ hai phước trí
Ðúng pháp tu duy nghĩa
Lạc hỷ trụ tịch tĩnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Với pháp không có nghi
Cũng không tâm si loạn
Chơn thìệt hiểu tứ đế
Gọi anh lạc trang nghiêm
Trì giới tâm không chấp
Cũng chẳng lòng kiêu mạn
Chẳng thấy giới người giữ
Gọi anh lạc trang nghiêm
Vô thượng huệ tịnh định
Chẳng biết hai tịnh huệ
Hay rõ biết ba cõi
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ý tịnh chẳng kiêu mạn
Thấy bất tịnh chẳng khinh
Biết pháp bất khả thuyết
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm trí
Trí cũng trang nghiêm huệ
Tự tha Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết pháp như mộng huyễn
Chẳng nói pháp không có
Khéo tùy thuận thế gian
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm giới
Giới hay trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Thấy pháp như thủy nguyệt
Cũng như nắng lúc nóng
Thuyết pháp xem như vang
Như thành Càn Thát Bà
Phi pháp chẳng làm pháp
Gọi là huệ anh lạc
Huệ hay trang nghiêm nhẫn
Nhẫn cũng trang nghiêm huệ
Thân khẩu Bồ đề tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Pháp giới chẳng tăng giảm
Biết rồi điều chúng sanh
Chí tâm quán pháp thân
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm cần
Tinh tiến trang nghiêm huệ
Tâm định chẳng hối động
Gọi anh lạc trang nghiêm
Huệ hay trang nghiêm định
Ðịnh cũng trang nghiêm huệ
Hay thuyết thậm thâm pháp
Ðược vô thắng thần thông
Hay biết các phương tiện
Ðược vô thượng tổng trì
Pháp độ chúng sanh tịnh
Gọi anh lạc trang nghiêm
Biết các căn lợi độn
Phá phiền não các ma
Thân tâm được tự tại
Gọi anh lạc trang nghiêm
Ðạo không có khứ lai
Cũng không người khứ lai
Chẳng quá khứ vị lai
Chẳng hiện tại người tu
Chẳng phân biệt pháp giới
Hay tịnh tất cánh định
Biết các ấm nhập giới
Gọi tên huệ anh lạc
Ấm nhập giới như không
Không ngã không ngã sở
Sanh diệt do mười hai
Gọi là huệ anh lạc
Biết thiệt đệ nhứt nghĩa
Cũng biết ấm nhập giới
Với pháp chẳng tranh luận
Biết tam thế vô ngại
Phân biệt ba khối chúng
Vì họ nói ba thừa
Dùng Tam bửu giáo hóa
Tu ba vô tưóng định
Vô tướng biết nhứt tướng
Chẳng huyễn biết như huyễn
Vô thuyết hay diễn thuyết
Thuyết không nơi bất không
Các pháp phi thường biến
Chẳng hủy hoại pháp giới
Vì nhơn duyên hòa hiệp
Lưu bố trong pháp giới
Ðây gọi là chơn trí
Chẳng phân biệt pháp giới
Biết rõ động bất động
Biết rõ cạn và sâu
Biết rõ thường vô thường
Gọi là đại tịnh trí
Thường chẳng mất tịnh tâm
Biết rõ nơi pháp giới
Biết chữ cũng biết nghĩa
Nơi thế đế không tối
Nghe rồi hay thọ trì
Hiểu rõ tiếng mọi loài
Hay phá các tà đạo
Tu tập trí vô thượng
Y tứ y vô thượng
Là tổng trì anh lạc
Phật nói tràng công đức
Trang nghiêm Bồ đề tâm
Trong chúng vô úy thuyết
Hiểu rõ thiên thần ngữ
Hay phá các lưới nghi
Hay khai các pháp giới
Hay khen ngôi Tam bửu
Khuyên người đồng cúng dường
Kề cận Phật và Tăng
Tu tập trí vô thượng
Phật nói bốn anh lạc
Trang nghiêm Phật Bồ Tát
Nếu người chí tâm tin
Liền
được anh lạc nầy.
Lại nầy thiện nam tử ! Ðại Bồ Tát có tám ánh sáng lớn,
do ánh sáng nầy mà hay phá được các sự tối tăm làm cho công hạnh của Bồ
Tát thanh tịnh.
Những gì là tám ? Ðó là niệm
quang, ý quang, hành quang, pháp quang, trí quang, thiệt quang, thần thông
quang và vô ngại trí quang vậy.
Niệm quang có tám: một là chẳng
mất pháp lành quá khứ, hai là làm pháp lành vị lai, ba là nghe pháp chẳng
quên, bốn là tư duy thiệt nghĩa, năm là chẳng bị sáu trần nhiễm hư, sáu là
nhớ giữ chánh pháp như người giữ của, ngăn pháp ác và vì pháp lành mà giữ
cửa thành thiện pháp, bảy là chẳng bị tà pháp gạt lầm và tám là có thể làm
thêm lớn những pháp thuần thiện vậy.
Ý quang cũng có tám: một là
nghĩa ý chẳng phải ý chữ, hai là trí huệ ý chẳng hình thức ý , ba là chánh
pháp ý chẳng phải ý người, bốn là thiệt ý chẳng phải hư ý, năm là Bồ Tát ý
chẳng phải Thanh Văn ý, chẳng phải Duyên Giác ý, sáu là thượng ý chẳng
phải hạ ý, bảy là Phật ý chẳng phải thối thất ý và tám là lân mẫn ý chẳng
phải hại ý vậy.
Hành quang cũng có tám: một là
pháp hành, hai là nhứt thiết hành, ba là chúng sanh hành, bốn là chúng
sanh tâm hành, năm là thập nhị nhơn duyên hành , sáu là quảng thuyết hành,
bảy là công hạnh hành và tám là nhứt thiết Phật pháp hành vậy.
Pháp quang cũng có tám: một là
thế pháp quang, hai là xuất thế pháp quang, ba là vô lậu pháp quang, bốn
là vô vi pháp quang, năm là giải thoát pháp quang, sáu là tâm giải thoát
pháp quang, bảy là tất cánh giải thoát pháp quang và tám là huệ phá vô
minh pháp quang vậy.
Trí quang cũng có tám: một là
nhập chánh trí quang, hai là Tu Ðà Hoàn trí quang, ba là Tu Ðà Hàm trí
quang, bốn là A Na Hàm trí quang, năm là A La Hán trí quang, sáu là Bích
Chi Phật trí quang, bảy là Bồ Tát trí quang và tám là Chánh Giác trí quang
vậy.
Thiệt quang cũng có tám: một là
chánh định hạnh, hai là được quả Tu Ðà Hoàn, ba là quả Tư Ðà Hàm, bốn là
quả A Na Hàm, năm là quả A La Hán, sáu là quả Bích Chi Phật, bảy là Bồ Tát
và tám là Phật Bồ đề vậy.
Thần thông quang cũng có tám:
một là nhãn quang hay thấy chánh sắc, hai là nhĩ quang hay nghe chánh
thanh, ba là niệm quang hay nhớ quá khứ vô số kiếp chúng sanh, bốn là tánh
quang hay quan sát tâm tánh thanh tịnh của chúng sanh, năm là hư không
quang dùng đại thần thông có thể đến vô lượng thế giới mười phương, sáu là
phương tiện quang vì đủ có trí vô lậu, bảy là công đức trang nghiêm quang
vì lợi ích tất cả chúng sanh và tám là trí huệ trang nghiêm quang vì phá
lòng nghi lầm của tất cả chúng sanh vậy.
Vô ngại trí quang cũng có tám:
một là trí quang, hai là ý quang, ba là huệ quang, bốn là Phật quang, năm
là chánh kiến quang, sáu là làm thanh tịnh tâm chúng sanh quang, bảy là
giải thoát quang và tám là tất cánh quang vậy.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại
nghĩa nầy nên nói kệ rằng:
Tu tập sáng niệm tâm
Chẳng quên nghiệp thiện ác
Thích nghe tán tụng kinh
Tu tập chẳng phóng dật
Hay điều phục các căn
An trụ trong tịch tĩnh
Thêm lớn các pháp lành
Tu tập niệm quang minh
Hay ngăn dừng pháp ác
Như người giữ thành giỏi
Hay thủ hộ pháp thành
Chẳng cho bốn ma vào
Chẳng chạy theo âm thanh
Thường tư duy chơn nghĩa
Gần kề thiện tri thức
Hỉ lạc trụ đúng pháp
Trí huệ vô biên thượng
Dứt hẳn các phiền não
Tà pháp chẳng động đươc
Ðời ác chẳng sanh chê
Thành tâm niệm Bồ đề
Chẳng nói tâm Tiểu thừa
Thường thích nhớ thượng ý
Vì người phá hạ ý
Chẳng sợ ma phiền não
Tu tập tâm từ bi
Chẳng nghĩ hại chúng sanh
Ðược đủ trí quang lớn
Hay phá các lòng nghi
Hiểu rõ nghĩa thậm thâm
Biết phương tiện chơn thiệt
Tu bốn trí vô ngại
Thích quán mười hai duyên
Là nhơn của chúng sanh
Biết vô tác vô thọ
Hay tu pháp quang lớn
Hay biết các Phật pháp
Tu hạnh thế xuất thế
Hay đến mười phương cõi
Biết rõ nghiệp Nhơn Thiên
Tu tập trí vô thượng
Ba thừa về nhứt thừa
Tu tập bát chánh đạo
Vì phá pháp ba đời
Như thiệt biết rõ rành
Pháp hữu lậu vô lậu
Lợi ích hàng Nhơn Thiên
Dạy họ dứt hữu lậu
Biết rõ đúng chơn thiệt
Pháp hữu vi vô vi
Tịch tĩnh quang vô ngại
Chẳng dính tướng hữu vi
Biết kiết nhập xuất duyên
Biết chúng tâm tánh tịnh
Nếu có Ðại thừa định
Liền biết pháp như vậy
Thích trụ tánh vô lậu
Xong bốn quả Sa Môn
Biết Bồ Tát đạo hạnh
Nên tu vô ngại trí
Phá tà tu thiệt quang
Vào chứng vô sở úy
Thích nói nghĩa chơn thiệt
Vì phá pháp sanh tử
Nhãn nhĩ tịnh không chướng
Thấy nghe sắc thanh chánh
Quá khứ nhớ chẳng lầm
Cũng biết rõ tha tâm
Ðến mười phương vô ngại
Biết pháp như hư không
Ðược vô lậu trí huệ
Vì điều phục chúng sanh
Ðủ công đức trí huệ
Vì lợi ích chúng sanh
Ở trong vô lượng đời
Cầu hai trang nghiêm nầy
Thích thọ trì tịnh giới
Thích thủ hộ Phật pháp
Tu tập chơn thiệt quang
Vì trụ đúng chánh pháp
Phật nói vô lượng quang
Ðể cho chúng sanh được
Có ai tin kinh nầy
Liền được quang như vậy.
Lại nầy thiện nam
tử ! Ðại Bồ Tát tu tập đại bi có mười sáu sự.
Những gì là mười
sáu ?
Một là đại Bồ Tát
thấy chúng sanh tham trước ngã kiến, do nơi ngã kiến mà sanh ra các kiến
chấp nên luôn bị sanh tử trói buộc, vì vậy nên đại Bồ Tát tu tập đại bi,
do tâm đại bi mà vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa để phá các kiến chấp
hư vọng như vậy.
Hai là đại Bồ Tát
thấy các chúng sanh điên đảo nơi thường thì thấy là vô thường, nơi vô
thường thì thấy là thường, nơi khổ thấy là vui nơi vui thì thấy là khổ,
nơi tịnh thấy bất tịnh nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi ngã thấy vô ngã nơi
vô ngã thấy ngã, do đây đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi mà vì
các chúng sanh tuyên nói pháp yếu để phá bốn thứ mê chấp điên đảo như
vậy.
Ba là đại Bồ Tát
thấy các chúng sanh có lòng kiêu mạn, thiệt không có vật mà cho là có vật,
thiệt không có sự mà cho là có sự; do đây mà họ sanh ra bảy thứ kiêu mạn,
do kiêu mạn mà sanh lớn các pháp ác. Vì vậy mà đại Bồ Tát tu tập tâm đại
bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá trừ lòng kiêu mạn
của các chúng sanh.
Bốn là đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ngũ cái che
trùm, vì bị che trùm nên lòng họ sanh nghi với chánh pháp nghĩa thậm thâm
họ không hiểu được, vì các chúng sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do
tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá năm cái chướng của các
chúng sanh ấy.
Năm là đại Bồ Tát
thấy các chúng sanh chìm trong biển lục nhập : mắt họ duyên lấy tướng hình
sắc, tai họ duyên lấy tướng âm thanh, mũi họ duyên lấy hơi hương, lưỡi họ
duyên lấy tướng mùi vị, thân họ duyên lấy tướng chạm xúc và ý họ duyên lấy
tướng các pháp, sự duyên lấy tướng như vậy gọi đó là bị chìm, vì các chúng
sanh nầy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để vớt
chúng sanh khỏi bị chìm trong sáu trần tướng.
Sáu là đại Bồ Tát
thấy các chún,g sanh có bảy thứ mạn, đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn,
tăng thượng mạn, hạ mạn và tà mạn.Vì các chúng sanh nầy mà Bồ Tát tu tâm
đại bi, do tâm đại bi, đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu chơn chánh để dứt các
thứ mạn ấy của chúng sanh.
Bảy là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh rời lìa thánh đạo, họ thích làm thế tục đạo và ác đạo, vì vậy
mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu
để dứt trừ thế tục đạo và ác đạo của các chúng sanh.
Tám là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh tạo nghiệp ác đạo, lệ thuộc vô minh ái, bị vợ con trói buộc nên
chẳng được tự tại, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại
Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt sự hệ phược ấy cho chúng sanh xuất ly
ác đạo.
Chín là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh gần gũi bạn xấu ác mà xa lìa bạn lành tốt, lòng họ cam đành tạo
gây nghiệp ác, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ
Tát tuyên nói pháp yếu để dứt nghiệp ác của chúng sanh khiến họ xa bạn ác
và gần bạn lành.
Mười là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh gây tạo nghiệp xan tham nơi vô minh ái không biết nhàm đủ, vì
vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh
pháp để dứt xan tham vô minh và ái của các chúng sanh ấy và ban cho họ trí
huệ.
Mười một là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh nhiều ngã kiến đoạn kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi,
do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu ban bố cho họ trí huệ chơn
chánh mười hai nhơn duyên để dứt ngã kiến và đoạn kiến của các chúng sanh.
Mười hai là đại Bồ Tát thấy
các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm vó nhiều kiến chấp, đó là ngã
kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, nhơn kiến, dị kiến, tà kiến, thủ
kiến, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên
nói chánh pháp để dứt trừ các kiến chấp của các chúng sanh, ban cho họ
chánh kiến trí huệ.
Mười ba là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh ưa thích trong sanh tử, với thân ngũ ấm cho là thân thiết, vì
vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói chánh
pháp để cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử trong ba cõi.
Mười bốn là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh bị ma trói buộc, vì vậy mà đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại
bi đại Bồ Tát vì chúng sanh tuyên nói chánh pháp để dứt phá lưới ma nghiệp
ma của chúng sanh.
Mười lăm là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh ưa thích sự khoái lạc hư đối của thế tục mà chẳng biết được sự
vui chơn thiệt và nhân của vui chơn thiệt, vì vậy mà đại Bồ Tát tuyên nói
chánh pháp chỉ dạy nhơn hạnh của quả vui chơn thiệt cho chúng sanh.
Mười sáu là đại Bồ Tát thấy các
chúng sanh cầu cửa vào Niết bàn mà chẳng biết chỗ, vì vậy mà đại Bồ Tát tu
tâm đại bi, do tâm đại bi đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu mở cửa Niết bàn
cho các chúng sanh.
Nầy
thiện nam tử ! Do mười sáu nhơn duyên như vậy mà đại Bồ Tát vì các chúng
sanh tu tâm đại bi.
Lại nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương !
Các loài chúng sanh có ba mươi hai nghiệp ác bất thiện. Vì thấy như vậy mà
chư đại Bồ Tát tu tập nghiệp thiện để phá trừ các nghiệp ác ấy cho chúng
sanh.
Những gì là ba mươi hai
nghiệp ?
Một là thấy có các chúng sanh
nặng về vô minh ngủ nghỉ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập trí huệ để phá vô
minh thùy miên ấy.
Hai là thấy có các chúng sanh
hiểu biết thấp hạ mong muốn thấp hạ, đại Bồ Tát vì họ mà tu tập hiểu biết
thắng thượng chí nguyện thắng thượng để đem pháp Ðại thừa thắng thượng
giáo hóa họ.
Ba là thấy có các chúng sanh
thích những phi pháp, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để làm cho các chúng
sanh ấy được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Bốn là thấy có các chúng sanh
ưa tà mạng, đại Bồ Tát tu tập chánh mạng để phá trừ tà mạng ấy.
Năm là thấy có các chúng sanh
vào trong rừng tà, đại Bồ Tát tu tập chánh kiến để làm cho các chúng sanh
và ra khỏi rừng tà.
Sáu là thấy có các chúng sanh
ưa phóng dật, đại Bồ Tát tu tập bất phóng dật để làm cho các chúng sanh xa
lìa phóng dật.
Bảy là thấy có các chúng sanh
ưa thô bạo, đại Bồ Tát tu tập công hạnh đúng chánh pháp để làm cho các
chúng sanh xa lìa thô bạo.
Tám là thấy có các chúng sanh
tham lam bỏn xẻn, đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí rộng lớn để làm cho cac
chúng sanh dứt tham lam bỏn xẻn.
Chín là thấy có các chúng sanh
hay hủy phạm cấm giới, đại Bồ Tát tu trì tịnh giới để trừ lòng phá giới
của các chúng sanh.
Mười là thấy có các chúng sanh
lòng thường giận hờn, đại Bồ Tát tu tâm từ bi nhẫn nhục để phá lòng giận
hờn của các chúng sanh.
Mười một là thấy có các chúng
sanh đối với chánh pháp thiện pháp lười biếng thật hành, đại Bồ Tát tu tập
siêng cần tinh tấn để trừ sự lười biếng ấy của các chúng sanh.
Mười hai là có các chúng sanh
tâm tưởng tán loạn, đại Bồ Tát tu tập chánh định để trừ tâm tán loạn của
các chúng sanh.
Mười ba là có các chúng sanh tà
trí che tâm, đại Bồ Tát tu tập chánh trí để trừ tà trí ấy của các chúng
sanh.
Mười bốn là có các chúng sanh
nói nghĩa điên đảo, đại Bồ Tát tư duy chánh nghĩa để trừ sự điên đảo ấy
của các chúng sanh.
Mười lăm là thấy có các chúng
sanh ưa gây tạo sự nghiệp thế tục, đại Bồ Tát tu tập thiện quyền phương
tiện để trừ lòng ưa thích tạo nghiệp thế tục ấy của các chúng sanh.
Mười sáu là thấy có các chúng
sanh bị phiền não trói buộc, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp tự dứt trừ phiền
não và để làm cho các chúng sanh cũng dứt trừ phiền não.
Mười bảy là thấy có các chúng
sanh bị buộc chặt nơi ngã kiến, đại Bồ Tát trước tự trừ ngã kiến rồi sau
trừ ngã kiến của các chúng sanh.
Mười tám là thấy có các chúng
sanh các căn chẳng điều phục, đại Bồ Tát tu tập trước tự điều phục các căn
rồi sau làm cho các chúng sanh điều phục các căn của họ
Mười chín là thấy có các chúng
sanh nói không nghiệp nhơn không quả báo, đại Bồ Tát tuyên nói nghiệp nhơn
quả báo để phá trừ tà kiến bác nhân quả của các chúng sanh.
Hai mươi là thấy có các chúng
sanh chẳng biết ân nghĩa, đại Bồ Tát tuyên nói về ân nghĩa để trừ lòng
chẳng biết ơn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi mốt là thấy có các
chúng sanh chưa được mà tự cho là đã được, đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để
trừ lỗi tăng thượng mạn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi hai là thấy có các
chúng sanh ác khẩu thô bạo, đại Bồ Tát tu tập thiện ngữ dịu dàng để trừ ác
khẩu của các chúng sanh.
Hai mươi ba là thấy có các
chúng sanh tham lam chẳng biết vừa đủ, đại Bồ Tát tu tập biết đủ để trừ
lòng không biết đủ của các chúng sanh.
Hai mươi bốn là thấy có các
chúng sanh chẳng cung kính cha mẹ và sư trưởng, đại Bồ Tát tu tập hiếu
thuận để làm cho chúng sanh biết cúng dường cung kính tôn trọng các bực
cha mẹ sư trưởng.
Hai mươi lăm là thấy có các
chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, đại Bồ Tát tu tập bảy thánh tài để trừ sự
nghèo cùng khốn khổ của các chúng sanh.
Hai mươi sáu là thấy có các
chúng sanh bị bốn loại rắn độc làm bịnh, đại Bồ Tát tu tập thân niệm xứ để
làm cho các chúng sanh xa lìa bốn loại rắn độc ấy.
Hai mươi bảy là thấy có các
chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm, đại Bồ Tát tu tập trí huệ để làm cho
các chúng sanh ấy thắp đèn trí huệ..
Hai mươi tám là thấy có các
chúng sanh thích nhà ngục tam giới, đại Bồ Tát tu tập pháp giải thoát xuất
ly để dạy cho các chúng sanh biết xuất ly tam giới.
Hai mươi chín là thấy có các
chúng sanh thường hành tà đạo, đại Bồ Tát tu tập chánh đạo để làm cho các
chúng sanh trừ bỏ tà đạo.
Ba mươi là thấy có các chúng
sanh tham ái thân mạng, đại Bồ Tát tu tập lòng chẳng tham ái thân mạng
mình để dạy chúng sanh bỏ lòng tham ái thân mạng.
Ba mươi mốt là thấy có các
chúng sanh chẳng biết cung kính cúng dường Tam bửu, đại Bồ Tát tu tập tâm
tịnh tín để làm cho các chúng sanh phát lòng tin ngôi Tam bửu.
Ba mươi hai là thấy có các
chúng sanh thiệt chẳng phải là Phật Thế Tôn mà tự xưng là Phật Thế Tôn,
đại Bồ Tát tu tập sáu chánh niệm để làm cho các chúng sanh ấy biết pháp
chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử !
Trên đây là ba mươi hai nghiệp hữu lậu của chúng sanh, đại Bồ Tát thấy rồi
tự mình tu tập pháp đối trị thành tựu đầy đủ pháp lành rồi phá các ác
nghiệp khuyên các chúng sanh thật hành thiện nghiệp.
Nầy thiện nam tử !
Ðại Bồ Tát có vô lượng công hạnh, tại sao ? Vì chúng sanh có vô lượng môn,
vì đóng bít vô lượng cửa phiền não ấy mà đại Bồ Tát tu tập vô lượng công
hạnh lành.
Nầy thiện nam tử !
Như có chúng Thanh Văn và Bích Chi Phật đông bằng số cát sông Hằng, muốn
đem số đông nầy so sánh với Bồ Tát sơ phát Bồ đề tâm thì chẳng bằng một
phần trăm một phần ngàn, cho đến không thể lấy gì ví dụ được. Tại sao ? Vì
hàng nhị thừa vì giải thoát cho mình mà quán xét dứt trừ các phiền não.
Còn Bồ Tát thì không phải như vậy. Các Bồ Tát luôn vì chúng sanh làm cho
họ được giải thoát mà quán xét đối trừ các phiền não.
Nầy thiện nam tử !
Các công nghiệp được làm của chư Bồ Tát là rất hơn công nghiệp của các
phàm phu và hàng Nhị thừa. Tại sao ? Vì việc làm của phàm phu tánh chất nó
là phiền não là hữu lậu. việc làm của hàng Nhị thừa dầu tánh chất chẳng
phải phiền não là vô lậu nhưng có biên tế, còn việc làm của Bồ Tát vô biên
vộ lượng, vì vậy mà công hạnh của Bồ Tát hơn cả hàng Thanh Văn và Duyên
Giác”.
Bấy giờ Ðà La Ni
Tự Tại Vương Bồ Tát nghe pháp ấy rồi lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng mà
bạch đức Phật rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Rất là lạ lùng rất là đặc biệt,
lời đức Phật dạy chẳng thể nghĩ bàn.
Ðức Như Lai đã nói
Bồ Tát anh lạc trang nghiêm, đức Như Lai đã nói Bồ Tát quang minh, Bồ Tát
đại bi, Bồ Tát thiện nghiệp.
Nguyện cầu đức Như
Lai tuyên nói chư Phật quán xét các chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi thế
nào ? Sao gọi là bi và bi có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do
nhơn duyên gì mà sanh khởi, sao gọi là Phật nghiệp và Phật nghiệp có những
công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhơn duyên gì mà phát khởi lên?
Lành thay đức Thế
Tôn đấng Nhứt Thiết Trí, xin nói rộng về công nghiệp của Như Lai”.
Ðức Phật phàn bảo
: "Lành thay lành thay ! Nầy thiện nam tử nay ông nên lắng nghe suy nhớ
kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử !
Tất cả chư Phật chỗ có đại bi chẳng phát xuất chẳng hiện hành, tại sao, vì
thường chẳng biến đổi, vì trong vô lượng kiếp tu tập mà được đại bi, nên
đại bi ấy chẳng hiện hành, chẳng chuyển khởi, chẳng tu tập chẳng rời bỏ mà
có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử !
Ðại bi của chư Phật vô lượng vô biên, tâm ấy bình đẳng. Dầu dùng công sức
của vô lượng cái lưỡi biện tài trong thời gian nhiều kiếp cũng không thể
tuyên nói hết được.
Nầy thiện nam tử !
Chư Phật Thế Tôn chưa có lúc nào xa lìa đại bi như vậy. Vô thượng Bồ đề và
đại bi ấy, hai pháp như vậy bình đẳng không có sai khác.
Nầy thiện nam tử !
Vô thượng Bồ đề của chư Phật Như Lai vô căn vô trụ. Chư Phật Như Lai biết
căn biết trụ nên Vô thượng Bồ đề không có căn không có trụ. Tất cả chúng
sanh thảy đều không có, không có căn không có trụ. Vì muốn ban cho chúng
sanh Vô thượng Bồ đề vô căn vô trụ mà chư Phật Thế Tôn khởi tâm đại bi.
Nơi đây, vì muốn cho chúng sanh biết vô căn vô trụ mà đức Như Lai tuyên
nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử !
Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh. Thế nào là thanh tịnh, thế nào
là tịch tĩnh ? Thanh tịnh gọi là trong, tịch tĩnh gọi là ngoài. Bên trong
gọi là nhãn rỗng không , rỗng không gọi là không có ngã không có ngã sở,
tại sao, vì tánh là một vậy. Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như
vậy, tại sao, vì tánh là một vậy.
Ðã biết nhãn rỗng
không rồi thì không trụ trước nơi sắc hình , tâm chẳng trụ trước nơi sắc
thì gọi là tịch tĩnh. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng như
vậy.
Vì tất cả chúng
sanh chẳng biết Bồ đề thanh tịnh tịch tĩnh nên đức Phật Như Lai khởi tâm
đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết vậy.
Nầy thiện nam tử !
Tất cả chúng sanh tâm tánh bổn lai thanh tịnh. Vì tánh thanh tịnh nên tất
cả phiền não kiết sử không nhiễm ô được. Như hư không chẳng thể nhiễm ô,
tâm tánh và không tánh đồng nhau không có sai khác.
Chúng sanh vì
chẳng biết tâm tánh thanh tịnh nên bị dục tham phiền não trói buộc, vì vậy
mà đức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ được
biết vậy.
Nầy thiện nam tử
luận về Bồ đề chẳng thủ chẳng xả. Thế nào là chẳng thủ ? Chư Phật Như Lai
chẳng thấy tất cả pháp có thử ngạn bỉ ngạn, tại sao, vì tất cả pháp rời
lìa thử bỉ vậy. Chư Phật Như Lai biết thật như vậy nên gọi là bất thủ.
Thế nào là bất xả ? Tất cả
chúng sanh chẳng biết pháp giới, chư Phật Như Lai tuyên dạy cho họ biết rõ
pháp giới, đây gọi là bất xả vậy. Vì duyên cớ nầy mà chư Phật Như Lai phát
khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh biết rõ hai pháp
bất thủ và bất xả như vậy.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề vô tưởng vô duyên . Thế nào là vô tưởng ? Chẳng thấy có nhãn thức
cho đến ý thức, chẳng thấy có sắc tướng cho đến pháp tướng, đây gọi là vô
tướng. Thế nào là vô
duyên ? Ở trong các pháp như vậy, vì chẳng biết chẳng thấy nên không có
thủ trước, đây gọi là vô duyên. Vô tưởng và vô duyên gọi là thánh hạnh.
Thế nào gọi là Thánh hạnh ? Vì rằng chẳng hiện hành nghiệp hạnh tam giới
vậy.
Nầy thiện nam tử !
Chẳng hiện hành nghiệp hạnh giới như vậy gọi là thánh hạnh, tất cả thánh
nhơn chẳng hiện hành nơi nghiệp hạnh ấy. Chúng sanh chẳng hiện hành thánh
hạnh như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh
pháp cho chúng sanh được biết.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề chẳng phải là tam thế. Quá khứ ý, vị lai thức và hiện tại tham đây
gọi là ba phần thời gian. Vì biết rõ được ba phần như vậy nên ý với thức
và tham không có chỗ an trụ, vì vậy mà chẳng nhớ quá khứ chẳng cầu vị lai
chẳng tham ái hiện tại. Nếu thấy tam thế đều bình đẳng thì gọi là chánh
kiến. Vì muốn tất cả chúng sanh được chánh kiến bình đẳng như vậy nên chư
Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề vô thân vô vi. Thế
nào là vô thân ? Chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới,
đây gọi là vô thân. Thế nào là vô vi ? Bất sanh bất diệt bất tận bất trụ,
không có ba tướng sanh trụ và diệt, đây gọi là vô vi.
Nầy thiện nam tử !
Tất cả pháp tánh là vô tánh, nếu vô tánh thì không có sai biệt gọi là
không có hai. Vì vậy nên Bồ đề không có thân không có vi tác. Tất cả chúng
sanh chẳng biết Bồ đề vô thân vô vi, vì vậy nên chư Phật Như Lai phát khởi
tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ biết rõ như vậy.
Nầy thiện nam tử
! Bồ đề không có phân biệt không có cú nghĩa. Thế nào là không có phân
biệt ? Thế nào là không có cú nghĩa ?
Vô sở trụ gọi là
không có phân biệt, chẳng nhiếp thuộc về chữ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng phải có hai
gọi là không có phân biệt, chẳng nhập vào pháp giới gọi là không có cú
nghĩa.
Không động dao gọi
là không có phân biệt, chẳng biến đổi gọi là không có cú nghĩa.
Vì rỗng không nên
gọi là không có phân biệt, vì chẳng thể nói được nên gọi là không có cú
nghĩa.
Vì không giác
không quán nên gọi là không có phân biệt, vì không có tướng nên gọi là
không có cú nghĩa.
Vì chẳng phát khởi
nên gọi là không có phân biệt, vì không có nguyện cầu nên gọi là không có
cú nghĩa.
Biết chúng sanh
giới đồng với hư không gọi là không có phân biệt, không có chúng sanh giới
gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng sanh gọi là
không có phân biệt, chẳng trụ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng diệt gọi là
không có phân biệt, vô vi gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng hành gọi là
không có phân biệt, bình đẳng gọi là không có cú nghĩa.
Biết bình đẳng gọi
là không có phân biệt, tịch tĩnh gọi là không có cú nghĩa.
Vì chúng sanh
chẳng biết như vậy, nên chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi tuyên nói
chánh pháp cho họ biết rõ các nghĩa ấy.
Nầy thiện nam tử ! chẳng thể dùng thân để được, chẳng
thể dùng tâm để được, tại sao, vì thân tâm như huyễn vậy. Nếu có thể biết
rõ được thân tâm chơn thiệt thì gọi là Bồ đề. Nói gọi là Bồ đề đó là vì
để lưu bố thế tục, nhưng tánh và tướng Bồ đề thiệt không thể nói được.
Nầy thiện nam
tử! Luận về Bồ đề thì chẳng thể nói thân, chẳng thể nói tâm, chẳng thể
nói pháp, chẳng thể nói phi pháp, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không
có, chẳng thể nói thiệt, chẳng thể nói rỗng không, tại sao, vì tánh chẳng
thể nói được vậy.
Bồ đề không có trụ
xứ chẳng thể tuyên nói được dường như hư không. Vì biết thiệt tất cả pháp
chẳng thể tuyên nói được, trong chữ không có pháp, trong pháp không có
chữ, chỉ vì lưu bố theo thế tục mà tuyên nói. Tất cả phàm phu chẳng biết
chơn thiệt, nên chư Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm
cho họ biết chơn thiệt.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề vô thủ vô duyên. Thế nào là vô thủ, thế nào là vô duyên ?
Biết nhãn chơn
thiệt gọi là vô thủ, biết nhãn không có sắc cảnh gọi là vô duyên.
Biết nhĩ chơn
thiệt gọi là vô thủ, biết nhĩ không có thanh cảnh gọi là vô duyên.
Biết tỷ chơn thiệt
gọi là vô thủ, biết tỷ không có hương cảnh gọi là vô duyên.
Biết thiệt chơn
thiệt gọi là vô thủ, biết thiệt không có vị cảnh gọi là vô duyên.
Biết thân chơn
thiệt gọi là vô thủ, biết thân không có xúc cảnh gọi là vô duyên.
Biết ý chơn thiệt
gọi là vô thủ, biết ý không có pháp cảnh gọi là vô duyên.
Như Lai Thế Tôn do
nghĩa như vậy biết Bồ đề vì không có thủ trước nên gọi là không có nhãn,
vì không có nhà cửa nên gọi là vô duyên. Nhãn thức chẳng trụ trong cảnh
sắc kia gọi đó là không nhà cửa, nhẫn đến ý thức cũng như vậy.
Tất cả chúng sanh
tâm không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết tâm không có chỗ
trụ ở. Chỗ trụ ở có bốn thứ, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và hành
uẩn. Nơi bốn thứ nầy tâm không có chỗ trụ ở, đây gọi là tâm không có chỗ
trụ ở. Vì vậy mà gọi rằng tất cả các pháp đều không có chỗ trụ ở. Như Lai
Thế Tôn như thiệt biết đó, mà vì các hàng phàm phu không thể biết được,
nên Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp để cho họ
được biết chơn thiệt vậy.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề gọi là rỗng không, nhưng trong Bồ đề không có tướng rỗng không, đây
gọi là rỗng không. Tất cả pháp rỗng không Bồ đề cũng rỗng không, Như Lai
Thế Tôn chơn thiệt biết được rỗng không như vậy, nên Như Lai gọi là đấng
biết rỗng không. Chư Phật gọi là đấng giác ngộ tất cả các pháp rỗng không
trong rỗng không nhưng chẳng có giác tri, cũng hay biết rõ Vô thượng Bồ
đề. Rỗng không và Bồ đề là nhứt như, rỗng không cùng Bồ đề là một chẳng
phải là hai. Rời rỗng không mà Bồ đề có pháp riêng khác mới được nói là
hai. Vì không có hai nên gọi đó là rỗng không, vì không có danh tự nên gọi
đó là rỗng không. Vì không có tướng mạo nên gọi đó là rỗng không, vì không
có oai nghi nên gọi đó là rỗng không, vì không có tu hành nên gọi đó là
rỗng không, vì không có ngôn thuyết nên gọi đó là rỗng không.
Nầy thiện nam tử !
Trong đệ nhứt nghĩa không có các pháp thế nào nói là rỗng không. Ví như hư
không không có ngôn không có thuyết, vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư
không. Trong không có ngôn thuyết cũng không có ngôn thuyết, đây gọi là
rỗng không.
Tất cả các pháp
cũng như vậy, pháp không có danh tự nói là danh tự, danh tự như vậy cũng
không có chỗ trụ ở. Nếu danh tự không có trụ ở thì các pháp dưới danh tự
ấy cũng không có chỗ trụ ở.
Như Lai Thế Tôn
chơn thiệt biết các pháp như vậy không có sanh không có diệt. Vì chơn
thiệt biết nên được giải thoát.
Bổn lai không có
hệ phược sao lại gọi là được giải thoát ? Vì lẽ ấy nên Như Lai Thế Tôn
không có hệ phược không có giải thoát.
Các pháp như vậy
tất cả hàng phàm phu chẳng có thể biết được, vì thế nên chư Phật Thế Tôn
khởi phát lòng đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử !
Luận về Bồ đề ấy đồng như hư không. Tánh hư không chẳng bằng chẳng thấp,
Bồ đề cũng như vậy. Nếu pháp đã là không có tánh thì chẳng thể nói là có
bằng có thấp. Như Lai Thế Tôn thiệt biết các pháp không có bằng không có
thấp nhẫn đến vi trần không có bằng không có thấp.
Nếu pháp có tánh
chính là như thiệt trí. Bực như thiệt trí biết tất cả pháp trước không nay
có, đã có lại không, lúc sanh lúc diệt không chỗ hệ thuộc, theo duyên mà
sanh, theo duyên mà diệt, do nghĩa nầy mà gọi là đạo. Do dứt đạo nầy nên
gọi là Bồ đề.
Vì các hàng phàm
phù chằng biết đạo chơn thiệt như vậy, nên chư Phật Thế Tôn phát khởi đại
bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử !
Bồ đề gọi là chơn thiệt cú, chơn thiệt cú ấy tức là Bồ đề. Hai cú như vậy
đồng nhau không sai khác. Sắc cũng như vậy, thọ tưởng hành thức, địa thủy
hỏa phong, nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức
giới, tỷ giới hương giới tỷ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới,
thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng đều
như vậy, đây gọi là pháp lưu bố theo thế tục.
Như Lai chơn thiệt biết rõ các ấm nhập giới pháp như
vậy không có điên đảo. Bực chẳng điên đảo biết pháp quá khứ bất sanh bất
diệt, biết pháp vị lai bất sanh bất diệt, biết pháp hiện tại cũng bất sanh
bất diệt, biết như vậy gọi là chẳng điên đảo, gọi là chơn thiệt cú, chơn
thiệt cú ấy, như một pháp thì tất cả pháp cũng như vậy, như tất cả pháp
thì một pháp cũng như vậy. Chơn thìệt cú nầy các hàng phàm phu chẳng biết,
vì vậy nên chư Phật Như Laì phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho
họ được biết.
Nầy thiện nam tử ! Luận về Bồ đề ấy, chẳng phải nội
chẳng phải ngoại. Thế nào là nội, thế nào là ngoại ?
Không bị tạo tác là chẳng phải nội, không bị giác tri
là chẳng ngoại.
Nội ấy có nghĩa là trụ ở, ngoại ấy có nghĩa là tướng
dạng. Thể của Bồ đề chẳng phải trụ ở chẳng phải tướng dạng, nên gọi Bồ đề
chẳng phải nội chẳng phải ngoại.
Lại nữa, chẳng phải nội là chẳng phải ba nghiệp thân
khẩu và ý, chẳng phải ngoại là chẳng phải ba nghiệp duyên.
Chẳng phải nội là vô tướng giải thoát môn, chẳng phải
ngoại là không giải thoát môn.
Các nghĩa như vậy hàng phàm phu chẳng biết. Vì thế chư
Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Nầy thiện nam tử ! Luận về Bồ đề là vô lậu là vô thủ.
Thế nào là vô lậu và thế nào là vô thủ ?
Vô lậu là xa lìa bốn lưu, đó là dục lưu, hữu lưu, vô
minh lưu và kiến lưu. Vô thủ là xa lìa bốn thủ, đó là dục thủ, hữu thủ,
kiến thủ và giới thủ.
Các chúng sanh bị vô minh che trùm luôn đi nơi bốn thủ,
do khát ái nên làm ngã và ngã sở.
Như Lai Thế Tôn biết rõ ngã không căn bổn nên ngã thanh
tịnh, do ngã thanh tịnh nên có thể thanh tịnh chúng sanh. Ngã thanh tịnh
thì chẳng giác tri tất cả các pháp cũng chẳng tư duy tất cả phi pháp,
chẳng sanh khởi vô minh, do chẳng khởi vô minh nhơn duyên nên chẳng khởi
mười hai nhơn duyên hữu, hữu nhơn duyên chẳng khởi thì bất sanh, vì bất
sanh nên nhập vào quyết định tụ. Quyết định tụ ấy gọi là liễu nghĩa. Liễu
nghĩ ấy gọi là đệ nhứt nghĩa. Ðệ nhứt nghĩa ấy gọi là không có chúng sanh.
Nghĩa không có chúng sanh gọi là nghĩa bất khả thuyết. Nghĩa bất khả
thuyết chính là nghĩa mười hai nhơn duyên. Nghĩa mười hai nhơn duyên chính
là nghĩa pháp. Nghĩa pháp ấy chính là Như Lai. Do nghĩa như vậy nên trong
khế kinh nói nếu có ai thấy được mười hai nhơn duyên thì là người thấy
pháp. Thấy pháp là thấy Như Lai. Thấy Như Lai ấy chính là không chỗ thấy.
Chỗ thấy là tà, tà kiến ấy đó là pháp tướng số. Như Lai không có tưởng
cũng không có tưởng số. Do nơi nghĩa nầy nên thấy Như Lai là không có chỗ
thấy. Nếu thấy Như Lai không có tướng, không có tác, không có tri, không
có giác, thì gọi là chơn thiệt thấy Như Lai.
Cũng vậy, đức Như Lai biết rõ tất cả các pháp bình đẳng
như vậy, pháp giới vô lậu vô thủ.
Các hàng phàm phu chẳng thể rõ biết được như vậy, vì
thế Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được
biết.
Nầy thiện nam tử !
Luận về Bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh. Thế
nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh, thế nào là quang minh và thế nào
là vô tranh ?
Chẳng xen tạp
phiền não thì gọi đó là thanh tịnh. Không giải thoát môn thì gọi đó là
tịch tĩnh. Vô tướng giải thoát môn và vô nguyện giải thoát môn thì gọi đó
là quang minh. Vô sanh vô diệt thì gọi đó là vô tranh. Lại nữa, vô sanh ấy
thì gọi đó là thanh tịnh. Vô diệt thì gọi đó là tịch tĩnh.
Vô thủ thì gọi là quang minh.
Bất xuất thì gọi là vô tranh.
Lại nữa, tánh thì gọi là thanh
tịnh. Không có các phiền não thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô
tranh.
Lại nữa, pháp giới gọi là thanh
tịnh. Tánh chơn thiệt gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, tánh hư không gọi là
thanh tịnh. Pháp giới vô phân biệt thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là
vô tranh.
Lại nữa, nội ngoại thanh tịnh
thì gọi đó là thanh tịnh. Nơi các pháp nội và ngoại chẳng thủ lấy chẳng
trụ trước, thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, chơn thiệt biết ngũ ấm
thì gọi đó là thanh tịnh. Chơn thiệt biết thập bát giới thì gọi đó là tịch
tĩnh là quang minh. Xa lìa lục nhập thì gọi đó là vô tranh.
Lại nữa, thấy quá khứ tận thì
gọi là thanh tịnh. Thấy vị lai chẳng sanh thì gọi là tịch tĩnh. Thấy pháp
hiện tại an trụ nơi pháp giới không có động chuyển thì gọi đó là quang
minh là vô tranh.
Thanh tịnh tịch tĩnh quang minh
và vô tranh, bốn pháp như vậy đồng nhập vào một giới một pháp và một câu.
Ba pháp như vậy tức là Niết bàn. Vì xa lìa phiền não nên gọi là thanh
tịnh, vì rốt ráo thanh tịnh nên gọi là tịch tĩnh, vì không tối tăm nên gọi
là quang minh, vì bất khả thuyết nên gọi là vô tranh. Vì thế nên nói đức
Thích Ca Như Lai nín lặng không chỗ nói.
Nầy thiện nam tử !
Luận về Bồ đề ấy tức là hư không. Hư không ấy gọi là pháp. Như pháp, chúng
sanh cũng vậy. Như chúng sanh, phước điền cũng vậy. Như phước điền, Niết
bàn cũng vậy. Do nghĩa nầy nên tất cả pháp đồng với Niết bàn.
Ðức Như Lai có thể
biết rõ pháp giới như vậy nên gọi là Phật.
Tu tập đầy đủ
thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn câu như vậy thì gọi đó là
Phật”.
Vì đức Như Lai có
thể biết rõ được thiện phương tiện nên lúc đầu mới được Vô thượng Bồ đề
liền nín lặng an trụ không có tuyên nói để chờ Ðại Phạm Vương thưa thỉnh.
Lúc ấy, Thi Khí Ðại Phạm Vương cùng sáu vạn tám ngàn vị Phạm Thiên đến chỗ
Phật đầu mặt lạy Phật rồi chắp tay tôn kính bạch rằng : Cầu nguyện đức Như
Lai vì các chúng sanh chuyển chánh pháp luân, lại tiến nói kệ rằng :
Phật pháp ly thanh tịnh, tịch
tĩnh
Ðại quang vô ngại, không có
tranh
Không chữ, không tiếng cũng
không nói
Chơn thiệt biết rõ như pháp
giới
Phật vì chúng sanh vô lượng
kiếp
Khổ hạnh thọ trì giới thế gian
Ðể thức tỉnh chúng sanh mê ngủ
Mãi làm phóng dật mê thiệt
nghĩa
Còn vô lượng chúng trong hội
nầy
Chứa căn lành nơi vô lượng Phật
Hay hiểu nghĩa sâu nghĩa chơn
thiệt
Nguyện Phật chuyển pháp luân vô
thượng
Chúng đây đã phục tất cả ma
Muốn đuợc mở bày cửa cam lộ
Ðức Phật hiệu là chơn Ðạo Sư
Chỉ đường vô thượng cho chúng
sanh
Ðức Phật dầu có đại từ bi
Thương mến chúng sanh như con
một
Nay tôi thỉnh pháp là đúng thời
Phật chuyển chánh pháp luân vô
thượng
Như xưa ba Phật chuyển pháp
luân
Nguyện cầu Như Lai nay cũng vậy
Vô lượng Ðạo Sư không thối
chuyển
Dạy các chúng sanh đạo nhứt
chơn
Như mưa nhuần lớn các cỏ cây
Làm cho chúng sanh hết nóng
khát
Phật ban pháp vũ cho chúng sanh
Vì được vô lượng vô thượng quả
Lúc sơ sanh Phật có phát nguyện
Ta sẽ cứu khổ các chúng sanh
Chúng sanh khát mong vị cam lộ
Nguyện đại từ bi ban mưa pháp.
Bấy giờ đức Thế
Tôn đã thọ thỉnh rồi liền đi qua thành Ba La Nại trong rừng Lộc Dã chỗ ở
của các tiên nhơn mà chuyển chánh pháp luân. Pháp luân ấy, tất cả hàng chư
Thiên, Ma Vương, Phạm Vương và các Sa Môn hoặc các Bà La Môn khác đều
chẳng thể chuyển được. Lúc ấy đức Thế Tôn nói pháp Tứ đế, Tỳ Kheo Kiều
Trần Như được pháp nhãn thanh tịnh. Tiếng pháp ấy vang khắp cả cõi Ðại
Thiên . Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Nghĩa pháp thậm thâm chẳng thể
nói
Ðệ nhứt nghĩa không tiếng không
chữ
Tỳ kheo Trần Như nói các pháp
Chứng được bực tri kiến chơn
thiệt
Chính ta thuở xưa vô lượng đời
Chứng được Bồ đề nay đã được.
Lúc đức Như Lai
chuyển chánh pháp luân như vậy, vô lượng chúng sanh đều được điều phục.
Ðức Như Lai thị hiện đại bi thần thông như vậy các chúng sanh được thấy có
vô số người phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy thiện nam tử !
Mười sáu đại bi của Như Lai như vậy, tất cả đều vì các chúng sanh mà tu
tập. Do nhơn duyên đại bi ấy, đức Như Lai vì mỗi mỗi chúng sanh trải qua
số kiếp như số cát sông Hằng ở trong đại địa ngục thọ những khổ não mà tâm
không thối chuyển , tâm đại bi ấy cũng không bị tổn giảm. Vì nghĩa ấy nên
đại bi của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy thiện nam tử !
Lòng bi của hàng Thanh Văn và Duyên giác như vẽ trên da, đại bi của Bồ Tát
như xẻ thịt, đại bi của Như Lai như chẻ xương thấu tủy. Lòng bi của Thanh
Văn và Duyên Giác tán thán sở tri của Phật, đại bi của Bồ Tát khuyên người
thật hành, đại bi của Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề. Lòng bi của Thanh
Văn và Duyên Giác làm nhơn duyên cho lòng từ, đại bi của Bồ Tát vì điều
phục chúng sanh, đại bi của Như Lai vì cứu cánh độ chúng sanh. Lòng bi của
Thanh Văn và Duyên Giác do sự khổ thô thiển mà sanh, đại bi của Bồ Tát do
lìa rời sự khổ mà sanh, đại bi của Như Lai do dứt trừ tất cả nhơn duyên mà
sanh.
Nầy thiện nam tử !
Ðức Như Lai tu tập đại bi như vậy, nếu vì một người mà ở lại thế gian mà
trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, vạn kiếp đến vô lượng kiếp trọn
chẳng rốt ráo nhập Niết bàn.
Nầy thiện nam tử !
Ðại bi của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Nầy thiện nam tử !
Về quá khứ vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thế gian có đức Phật xuất thế
hiệu là Chiên Ðàn Quật, thế giới ấy tên là Ðại Hương, kiếp ấy gọi là
Thượng Hương. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật trong ba trăm ba mươi hai vạn kiếp
thường đem chánh pháp giáo hóa hàng Thanh Văn. Trên thân Phật Chiên Ðàn
Quật mỗi mỗi lỗ lông phát ra hơi hương khắp đầy cả Ðại Thiên thế giới. Thế
giới Ðại Hương ấy không có danh từ hôi thúi, bao nhiêu cỏ cây đều có mùi
chiên đàn, thân các chúng sanh trong cõi ấy cũng có mùi hương chiên đàn
như vậy, tất cả đều không có thân khẩu ý ác. Ðệ tử của đức Phật Chiên Ðàn
Quật nghe mùi hương nầy thì được tứ thiền. Sau đó kế tiếp có một vạn chư
Phật nối nhau xuất thế đều đồng một hiệu là Chiên Ðàn Quật, do cớ nầy mà
kiếp ấy có tên là Thượng Hương.
Ðức Chiên Ðàn Quật Như Lai làm Phật sự xong muốn nhập
Niết bàn quan sát chúng sanh coi có ai chưa điều phục thì Phật sẽ điều
phục cho. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật dùng tịnh nhãn thấy có một vị ở Trời Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đã ở nơi Phật trước gieo giống thượng thiện căn
quyết định sẽ nhơn pháp Phật mà được độ thoát chớ chẳng phải nhơn pháp
Thanh Văn mà được giải thoát. Vị trời nầy quá tám vạn bốn ngàn kiếp tuổi
thọ sẽ sanh xuống cõi Dục sẽ nghe kinh điển Ðại thừa mà phát tâm Vô thượng
Bồ đề an trụ bực bất thối chuyển. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật do sức đại bi
khởi đại phương tiện bảo các Tỳ Kheo giờ Niết bàn của ta đã đến, nói xong
Phật liền nhập Bất Hối tam muội thị hiện cho chúng sanh biết Phật nhập
Niết bàn, biết Phật nhập Niết bàn rồi đại chúng sắp bày rộng rãi sự cúng
dường, chánh pháp trụ thế đủ sáu mươi tám vạn bốn ngàn năm, trong thời
gian các đệ tử của Phật không có đến một người ở nơi chánh pháp mà sanh
tưởng tà pháp. Do sức đại định, đức Phật Chiên Ðàn Quật ẩn kín thân Phật
qua tám vạn bốn ngàn kiếp chẳng cho đại chúng thấy. Quá kiếp số thọ mạng,
vị trời ấy sanh xuống nhơn gian làm con trai nhà đại trưởng giả. Qua tám
mươi năm, đức Phật Chiên Ðàn Quật từ tam muội dậy đến nhà trưởng giả, mọi
người trong nhà không ai thấy, chỉ có người con trai nầy một mình được
thấy đức Phật và được nghe đức Phật thuyết pháp được chẳng thối chuyển tâm
Vô thượng Bồ đề. Biết vậy, đức Phật Chiên Ðàn Quật liền thọ ký rằng đời
sau quá bảy vạn hai ngàn a tăng kỳ trăm ngàn kiếp ngươi sẽ được thành Vô
thượng Bồ đề hiệu là Bửu Thượng Phật. Lời đức Phật Chiên Ðàn Quật thọ ký
ngoài người con trai trưởng giả nầy không ai được nghe, chỉ có một vạn hai
ngàn chư Thiên nầy nghe rồi đều phát tâm Vô thượng Bồ đề đồng thanh bạch
rằng : Cầu nguyện lúc đức Bửu Thượng Phật ra đời, chúng tôi sẽ ở trong
pháp hội ấy thỉnh thọ chánh pháp và làm đệ tử. Ðức Phật Chiên Ðàn Quật
nghe biết lời bạch của chư Thiên liền thọ ký rằng : Lúc Bửu Thượng Như Lai
thành Phật, một vạn hai ngàn chư Thiên các ngươi sẽ làm thọ pháp đệ tử,
cũng sẽ được Phật Bửu Thượng thọ ký Vô thượng Bồ đề. Việc làm nầy xong đức
Chiên Ðàn Quật mới cứu cánh nhập Niết bàn tất cả chư Thiên thiết lập cúng
dường lớn”.
Ðức Phật phán tiếp : "Nầy thiện nam tử ! Chư Phật Như
Lai có đủ đức đại bi như vậy, chẳng phải là chỗ biết được của hàng Thanh
Văn và Duyên Giác. Thuở ấy, đức Phật Chiên Ðàn Quật dầu ở tại thế đem pháp
Thanh Văn giáo hóa mà cuối cùng vẫn làm cho giống Phật chẳng dứt. Nếu có
chúng sanh nào cúng dường ngôi Tam bảo thì cũng như vậy”.
Lúc đức Phật Thế Tôn nói rộng công đức đại bi, trong
chúng hội có ba hằng hà sa chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Nửa số
chúng hội được thành vô sanh pháp nhẫn, phân nửa trong nửa số còn lại được
có mười sáu đại bi như vậy, phần còn lại được Phật pháp nhẫn.
Tất cả chư Thiên và mọi người nghe pháp vui mừng đồng
thanh khen rằng : "Lành thay, lành thay ! Rất lạ lùng rất đặc biệt, đức
Phật Thế Tôn tuyên nói pháp môn đại bi như vậy”.
Lại nữa, nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát ! Ðức
Phật Như Lai còn có ba mươi hai nghiệp.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai biết rõ thị xứ và phi xứ.
Thế nào là Thị xứ và thế nào là phi xứ?
Nầy thiện nam tử ! Nếu có người tạo tác thân khẩu ý ác
mà được thọ quả an lạc thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có
người tạo tác thân khẩu ý thiện mà thọ quả an lạc thì có như vậy, đây gọi
là thị xứ.
Nếu có ngưòi quen làm việc tham lam bỏn xẻn mà được báo
giàu to thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu có người ban ơn bố
thí mà được báo giàu to thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Nếu là người hủy phạm giới cấm mà được báo thân cõi
trời thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Nếu là người hộ trì giới cấm
thanh tịnh mà được báo thân cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người hay sân hận mà được báo thân xinh đẹp thì không
bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người thường nhẫn nhục mà được báo thân
xinh đẹp thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người lười nhác trong pháp lành lớn mà được đại thần
thông thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người siêng tinh tiến nơi
pháp lành lớn mà được đại thần thông thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người phóng tâm tán loạn mà được bực chánh định thì
không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người nhiếp tâm bất loạn mà được bực
chánh định thì có như vậy, đây gọi là thị xứ .
Người ngu si mà dứt tập khí phiền não thì không bao giờ
có, đây gọi là phi xứ. Người tu hành trí huệ dứt tập khí phiền não thì có
như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người tạo tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ . Người không tội ngũ nghịch mà được vô lậu thì
có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Thân người nữ mà làm Chuyển Luân Thánh Vương thì không
bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Thân nam tử làm Chuyển Luân Thánh Vương thì
có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Như làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm Thiên Ðế Thích,
làm Phạm Vương và làm Phật cũng như vậy.
Nếu là chuyển Luân Thánh Vương mà dùng phi pháp để trị
nước thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Chuyển Luân Thánh Vương dùng
chánh pháp trị nước thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người Châu Uất Ðơn Việt sau khi chết mà đọa vào ba ác
đạo thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Người Uất Ðơn Việt thọ chung
sanh lên cõi trời thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người thường sát hại sanh mạng chúng sanh mà được báo
trường thọ thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Còn do cớ nầy mà thọ
mạng yểu ngắn thì có như vậy, đây gọi là thị xứ.
Người có tà kiến mà chứng thánh đạo thì không bao giờ
có, đây gọi là phi xứ. Người có chánh kiến mà chứng được thánh đạo thì có
như vậy, đây gọi là thị xứ.
Bực Tu Ðà Hoàn mà còn có thọ sanh đời thứ tám thì không
bao giờ có, đây gọi là phi xứ. Bực Tu Ðà Hoàn mà liền nhập Niết bàn cũng
không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A Na Hàm mà thọ sanh trong cõi Dục thì không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực A La Hán mà thọ thân đời sau thì không bao giờ có,
đây gọi là phi xứ.
Người Hiền Thánh mà học hỏi nơi các dị sư thì không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực bất thối nhẫn mà còn thối chuyển Bồ đề thì không
bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bồ Tát đến ngồi dưới cây Bồ đề chưa chứng quả Bồ đề mà
dậy đi thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà có tập khí phiền não thì không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ.
Bực Phật Như Lai mà trí còn có chướng ngại thì không
bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của đức Phật thì không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ.
Nếu có chúng sanh biết được cảnh giới nội tâm của đức
Phật thì không bao giờ có, đây gọi là phi xứ.
Tâm của đức Phật mà chẳng thường định cũng không bao
giờ có, đây gọi là phi xứ.
Chư Phật Thế Tôn mà có nhị ngữ thì không bao giờ có,
đây gọi là phi xứ.
Như Lai Thế Tôn mà còn có lỗi lầm thì không bao giờ có,
đây gọi là phi xứ.
Nầy thiện nam tử ! Ðây gọi là nghiệp thứ nhứt của Phật
Thế Tôn.
Ðức Phật nói kệ rằng :
Ðại địa được nói tướng chuyển
động
Gió mạnh được nói tướng dừng
lặng
Hư không được nói tướng có sắc
Phật chẳng nói xứ là phi xứ
Phật diễn nói xứ và phi xứ
Phần hạ trung thượng đều chơn
thiệt
Chẳng nói xứ phi xứ là một
Hai xứ như vậy riêng không hai
Như Lai cũng nói hạ trung
thượng
Ðều riêng không có ba thứ tướng
Phật biết thị xứ phi xứ rồi
Có thể tuyên nói pháp vô thượng
Như Lai biết rõ lòng chúng sanh
Khéo hay phân biệt tướng vi tế
Sa Môn phạm chí đi trong tối
Chẳng biết nhơn thị xứ phi xứ
Chúng sanh chằng biết xứ phi xứ
Do đó nên chẳng được giải thoát
Như Lai biết rõ xứ phi xứ
Ðó là hiệu Phật đấng Vô Thượng
Nếu là chúng sanh không pháp
khí
Như Lai với họ tu tâm xả
Lập đại phương tiện chờ thời
tiết
Vì cho họ được chơn giải thoát
Như Lai Thế Tôn trí vô thượng
Ðây thì gọi là pháp thứ nhứt
Thanh tịnh nghiệp thứ nhứt như
vậy
Vì làm chúng sanh được điều
phục
Như Lai nói lực thứ nhứt nầy
Rất sâu khó lường không biết
được
Diệu pháp như vậy khó biết được
Vì phá tà kiến thương xót nói
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai khéo biết những
nghiệp được có của các chúng sanh hiện tại và các chúng sanh vị lai, biết
rõ nghiệp, biết rõ báo, biết rõ nhơn, biết rõ xứ. Nếu nghiệp quá khứ là
nhơn bất thiện thì đức Như Lai biết rõ là đời vị lai được quả bất thiện.
Nếu nghiệp vị lai có nhơn duyên thối chuyển thì Như Lai biết rõ là nhơn
thối chuyển. Nếu nghiệp vị lai hay làm tăng trưởng pháp thì đức Như Lai
biết rõ do nhơn duyên nầy hay làm tăng trưởng pháp. Nếu nghiệp hiện tại
hoặc tiến hoặc thối thì đức Như Lai biết rõ do nhơn duyên nầy nên có tiến
có thối. Nếu có nghiệp được làm là nhơn Thanh Văn là nhơn Duyên Giác, là
nhơn Bồ Tát, là nhơn Như Lai, thì đức Như Lai đều biết rõ do nhơn duyên
nầy mà thành là nhơn Thanh Văn, là nhơn Duyên Giác, là nhơn Bồ Tát, là
nhơn Như Lai. Ðây gọi là nghiệp thứ hai của đức Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai chứng được trí Vô
thượng
Nên biết rõ được nghiệp nhơn
quả
Biết nhiếp tam thế chẳng tam
thế
Biết được tam thế nghiệp chúng
sanh
Khéo biết chúng sanh nhơn an
lạc
Phật cũng biết rõ nhơn khổ não
Phật phá tà kiến không nhơn quả
Do đây tu tập nghiệp thứ hai
Thông đạt nhơn hai pháp tiến
thối
Nghiệp quả thiện ác cũng như
vậy
Như Lai tri kiến không chướng
ngại
Như xem trái cây trong bàn tay
Biết tướng chơn thiệt thượng
trung hạ
Sở nhơn ba thừa cũng như vậy
Như Lai biết rõ nghiệp chúng
sanh
Cũng biết các nghiệp quả thiện
ác
Chúng sanh nghiệp quả thuộc tam
thế
Biết rõ chẳng sai gọi Chánh
Giác.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn biết rõ các
loại dục giải của chúng sanh: hoặc là tham dục, hoặc là sân hận, hoặc là
ngu si, đời hiện tại tham dục khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại
sân hận khởi đời vị lai tham sân si, đời hiện tại ngu si khởi đời vị lai
tham dục sân hận ngu si. Ðức Như Lai biết rõ các chúng sanh hiện tại trụ ở
thiện dục vị lai ác dục, hiện tại trụ ác dục vị lai thiện dục. Ðức Như Lai
biết rõ các chúng sanh đời hiện tại trụ hạ dục đời vị lai hạ trung thượng
phần, đời hiện tại trụ trung dục đời vị lai hạ trung thượng phần, đời hiện
tại trụ thượng dục đời vị lai hạ trung thượng phần. Ðức Như Lai biết rõ
chúng sanh tà tụ có thể làm chánh tụ, chúng sanh bất định tụ an trụ ở
chánh định tụ. Ðức Như Lai biết rõ chúng sanh cõi Dục có dục giải cõi Sắc,
cõi Vô Sắc. Ðức Như Lai biết rõ người Thanh Văn có dục giải Duyên Giác có
dục giải Phật. Vì đức Như Lai chơn thiệt thông đạt biết rõ nên vì họ mà
thuyết pháp. Ðây gọi là nghiệp thứ ba của Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Dục giải của chúng sanh có nhiều loại
Ý đó có nhiều chẳng phải một
Phật chơn thiệt biết rõ các dục
Nên hay tùy ý diễn nói pháp
Tánh tham dục sân hận ngu si
Theo tướng biết rõ không sai lầm
Hạ trung thượng phẩm cũng biết rõ
Thiện ác nghiệp nhơn quả chơn thiệt
Thông đạt ba tụ chẳng nhứt định
Tất cả ba thừa cũng bất định
Biết tam thế chẳng nhiếp tam thế
Lực thứ ba vì chúng sanh nói.
Lại nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai biết rõ vô lượng thế
giới, hoặc tu thiện hạnh, hoặc hành ác pháp, hoặc hành vô ngại hạnh, thế
nào gọi là biết, vì là nội không ngoại không và nội ngoại không vậy.
Lại nữa, Ðức Như Lai biết rõ nhãn, biết rõ sắc và biết
rõ nhãn thức, thế nào mà biết, vì là như hư không vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ Dục giới, Sắc giới và Vô
Sắc giới, thế nào mà biết, vì như giác quán vậy.
Lại nữa đức Như Lai biết rõ nơi hành giới, thế nào mà
biết, vì như tánh của hành vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ phiền não giới, thế nào mà
biết, vì là tánh khách trần vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới chẳng nhiễm ô, thế
nào mà biết, vì tánh của các pháp bổn thanh tịnh vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới sanh tử, thế nào mà
biết, vì vô minh nhơn duyên vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ giới Niết bàn, thế nào mà
biết, vì là chơn thiệt tư duy vậy.
Lại nữa, đức Như Lai biết rõ các giới : thế trụ, thế
ái, thế sân, thế si, thế thanh tịnh, thế thanh tịnh tâm.
Vì biết rõ các giới nên có thể như thiệt thuyết pháp,
đây gọi là nghiệp thứ tư của đức Như Lai”.
Ðức Như Lai nói kệ rằng :
Phật là sư tử Vương trong đời
Hay chơn thiệt biết chúng sanh giới
Như Lai trí huệ không bờ mé
Nên biết thế gian không bờ mé
Biết hạnh thiện ác hạnh giải thoát
Cũng biết nhãn sắc và nhãn thức
Thông đạt tất cả vô lượng pháp
Tánh nó bổn lai thường thanh tịnh
Nội ngoại chơn thiệt vô sở hữu
Ngũ ấm lục nhập thập bát giới
Thân khẩu ý nghiệp và tứ đại
Các pháp như vậy đều không thiệt
Biết rõ chúng sanh giới như vậy
Tất cả đều đồng cảnh hư không
Tam giới tánh tướng không chơn thiệt
Các phiền não giới cũng không chơn
Phiền não tánh tướng không bền vững
Vô lậu giải thoát cũng như vậy
Như Lai dầu biết chơn thiệt giới
Trọn chẳng vì biết mà kiêu mạn
Hư không vô lượng vô biên tế
Tất cả chúng sanh giới cũng vậy
Như Lai trí huệ vô biên tế
Xa lìa ba tướng của hữu vi
Trí Phật vô thượng rất sâu diệu
Tất cả chúng sanh chẳng biết được
Như Lai vì thương xót chúng sanh
Tuyên nói lực thứ tư như vậy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai biết rõ tất cả
chúng sanh các căn lợi độn. Thế nào mà biết ? Như Lai biết rõ là thượng
trung hay hạ, biết là tăng, biết là giảm, cũng biết tham dục có một ức
thứ, sân hận và ngu si cũng đều có một ức thứ, biết là tham dục nặng, biết
là tham dục nhẹ, biết là ngu si nặng, biết là ngu si nhẹ, biết một loại
căn hay tăng thêm sanh tử biết một loại căn hay giảm bớt sanh tử; biết
thiện căn biết căn bất thiện biết căn chẳng thiện chẳng bất thiện, biết
căn giải thoát biết căn sáu tình thức, biết căn nam, căn nữ, căn mạng, căn
khổ, căn lạc, căn ưu, căn hỉ, căn xả, căn tín, căn tiến, căn niệm, căn
định, căn huệ, căn vị tri dục tri, căn tri, căn dĩ tri. Biết rõ nhơn nhãn
căn, nhơn nhĩ căn, nhơn tỷ căn, nhơn thiệt căn, nhơn thân căn, nhơn ý căn.
Biết rõ nhơn nhĩ căn làm duyên nhãn căn, nhơn tỷ căn làm duyên thiệt căn,
nhơn ý căn làm duyên thân căn, biết rõ giới trang nghiêm thì có thể tu
hạnh bố thí, biết rõ thí trang nghiêm thì có thể tu giới trang nghiêm. Ðức
Như Lai biết rõ ai có thể nói được thí, ai có thể nói được giới, ai có thể
nói được nhẫn, ai có thể nói được tinh tiến, ai có thể nói được thiền, ai
có thể nói được huệ, ai có thể nói được tứ niệm xứ, ai có thể nói được tứ
chánh cần, ai có thể nói được tứ thần túc, ai có thể nói được ngũ căn, ai
có thể nói được ngũ lực, ai có thể nói được thất giác chi, ai có thể nói
được bát chánh đạo phần, ai có thể vì chúng sanh nói Thanh Văn thừa, ai có
thể vì chúng sanh nói Duyên Giác thừa, ai có thể vì chúng sanh nói vô
thượng Phật thừa. Ðức Như Lai biết rõ căn Duyên Giác học Thanh Văn thừa,
căn Chánh Giác học Thanh Văn thừa học Bích Chi Phật thừa, biết người hạ
căn có thể tu thượng căn, biết người thượng căn tu hạ căn. Ðức Như Lai
biết rõ các chúng sanh mà căn chưa có thể điều phục được thì sanh xả tâm,
biết chúng sanh tâm có thể điều phục được thì vì hạng nầy mà nói chánh
pháp. Ðức Như Lai biết rõ căn thục mà chẳng thục, căn chẳng thục mà thục,
căn chẳng thục chẳng thục, căn thục có thục. Ðức Như Lai biết rõ căn sanh
tử, căn giải thoát, căn trang nghiêm, căn cụ túc. Tất cả căn tánh nhơn
duyên quả báo Phật đều biết rõ thấy rõ, đây gọi là nghiệp thứ năm của chư
Phật Như Lai”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
"Như Lai biết căn đã rốt ráo
Nên biết trình độ các chúng sanh
Cũng biết rõ căn hạ trung thượng
Gồm đến các nghiệp cũng biết rõ
Biết rõ phiền não căn nặng nhẹ
Các căn khó điều hay dễ điều
Biết căn sanh tử căn giải thoát
Biết rõ nhãn căn đến ý căn
Biết căn hành xứ và diệt xứ
Biết rõ các căn ba thừa
Chuyển được hay chẳng chuyển được
Căn chúng sanh thục hay chẳng thục
Theo đúng căn cơ mà thuyết pháp
Khéo lời trách dịu để điều phục
Biết kẻ chẳng thể dạy bảo được
Vì hạng nầy mà tu tâm xả
Như Lai khéo biết các phương tiện
Ðể phá phiền não trang nghiêm trí
Vì phá phiền não của chúng sanh
Nên nói lực thứ năm của Phật.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chơn thiệt biết
chí xứ đạo. Biết thế nào ?
Ðức Như Lai biết là chánh định tụ, biết là tà định tụ,
biết là bất định tụ, biết nghiệp nhơn lực và quả báo lực, biết nhơn duyên
phước đức đời quá khứ, biết nhơn duyên trang nghiêm đời hiện tại, biết khó
điều hay dễ điều, biết nói lược mà giải rộng, biết nói rộng mà lược giải,
biết là chúng sanh có thể được giải thoát, biết là chúng sanh chẳng được
giải thoát, biết là người bất định gặp thiện tri thức thì trụ ở chánh
định tụ, nếu chẳng được thiện tri thức thì không giải thoát, biết rồi đức
Như Lai theo đúng ý nguyện mà vì người đó thuyết pháp, người ấy nghe rồi
nhiếp niệm tư duy chứng được thiện quả. Ðức Như Lai xuất thế chỉ vì hạng
bất định tụ mà trọn chẳng vì hạng tà định thuyết pháp, tại sao, vì họ
chẳng phải là pháp khí họ chẳng thể được chơn giải thoát, vì vậy mà ở nơi
hạng nầy đức Như Lai tu tập tâm xả. Ðại Bồ Tát biết thiệt rõ rồi siêng tu
trang nghiêm để phá chúng sanh tà định như vậy, do đây mà Bồ Tát phát tâm
Vô thượng Bồ đề.
Ðức Như Lai khéo biết tham có ba loại : một là vì do
thấy đẹp sạch, hai là vì nhơn duyên nhận thọ, ba là vì nhơn duyên trước.
Biết sân cũng có ba loại, đó là nhơn duyên sân, nhơn duyên thọ và nhơn
duyên trước. Biết si cũng có ba loại, đó là nhơn duyên vô minh, nhơn duyên
ngã kiến và nhơn duyên lưới si mê.
Lại nữa, đức Như Lai biết các chúng sanh khổ trì được
thông, khổ tốc được thông. Biết người khổ trì có thể được lạc tốc, biết
người lạc tốc có thể được khổ trì, biết người lạc trì có thể được lạc tốc,
biết là người có tu lực, biết là người có trí lực. Lại biết có đạo có đủ
tu lực mà chẳng đủ trí lực, có đủ trí lực mà chẳng đủ tu lực; có đủ tu lực
và có đủ trí lực, chẳng có đủ tu lực và chẳng có đủ trí lực. Lại biết có
đạo có thể tâm thanh tịnh mà chẳng thể trang nghiêm, có thể trang nghiêm
mà không thể tâm thanh tịnh, có thể tâm thanh tịnh và có thể trang nghiêm,
không thể tâm thanh tịnh và không thể trang nghiêm. Lại biết có đạo có thể
thanh tịnh thân mà chẳng thể thanh tịnh khẩu ý, có thể thanh tịnh khẩu ý
mà chẳng thể thanh tịnh thân, có thể thanh tịnh cả thân khẩu ý, chẳng thể
thanh tịnh cả thân khẩu ý. Ðây gọi là lực thứ sáu của Như Lai”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ đạo chỗ đến
Cũng biết nhơn duyên các chúng sanh
Cũng hay biết rõ định bất định
Thông đạt rõ ràng điều chẳng điều
Chẳng vì tà định mà nói pháp
Cũng chẳng điều phục căn chưa thục
Biết rõ tham sân si ba loại
Cũng biết các kiết tướng khinh trọng
Biết rõ bốn đạo chuyển chẳng chuyển
Vì thế Phật biết đạo rốt ráo
Chơn thiệt biết tu lực trí lực
Hạ trung thượng lực biết rõ
Biết thân khẩu ý tịnh chẳng tịnh
Tâm tịnh trang nghiêm cũng biết rõ
Chúng sanh các căn phiền não giới
Như Lai biết rồi vì họ phá
Vì chúng sanh vô minh tối kia
Nói nghiệp thứ sáu của Như Lai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai biết thiền giải thoát,
tam muội phiền não giải thoát, biết thế nào ?
Ðức Như Lai biết các chúng sanh
do nhơn duyên mà thích sanh tử, biết các chúng sanh do nhơn duyên mà ưa
Niết bàn. Thế nào gọi là nhơn và thế nào gọi là duyên ?
Nếu các chúng sanh tư duy bất
thiện đây gọi là sanh tử nhơn duyên. Do bất thiện tư duy mà sanh trưởng vô
minh, vì vậy bất thiện là nhơn và vô minh là duyên. Do vô minh mà sanh
hành, vì vậy vô minh là nhơn và hành là duyên. Do hành mà sanh thức, vì
vậy hành là nhơn và thức là duyên. Do thức mà sanh danh sắc, vì vậy thức
là nhơn và danh sắc là duyên. Do danh sắc mà sanh lục nhập, vì vậy danh
sắc là nhơn và lục nhập là duyên. Do lục nhập mà sanh xúc, vì vậy lục nhập
là nhơn và xúc là duyên. Do xúc mà sanh thọ, vi vậy xúc là nhơn thọ là
duyên. Do thọ sanh ái, vì vậy thọ là nhơn và ái là duyên. Do ái sanh thủ,
vì vậy ái là nhơn và thủ là duyên. Do thủ sanh hữu, vì vậy thủ là nhơn và
hữu là duyên. Do hữu sanh sanh, vì vậy hữu là nhơn mà sanh là duyên. Do
sanh thì có các khổ lão tử v.v ...vì vậy sanh là nhơn và lão tử là duyên.
Phiền não là nhơn và các nghiệp là duyên. Các kiến chấp là nhơn và ái kiết
là duyên. Phiền não là nhơn và ngũ cái là duyên. Như vậy gọi là nhơn và
gọi là duyên. Các chúng sanh do những nhơn và duyên nầy mà tham ưa sanh
tử.
Do nhơn duyên gì mà ưa thích
Niết bàn ?
Có hai nhơn và hai duyên làm
cho chúng sanh ưa thích Niết bàn. Những gì là hai ?
Một là vui mừng nghe chánh pháp, hai là thích chánh tư duy.
Một là xa ma tha, hai là tỳ bà xá na.
Một là trí bất khứ, hai là trí bất lai.
Một là quán sanh tử, hai là quán Niết bàn.
Một là thọ trì đúng pháp, hai là được chứng nhập.
Một là tu giải thoát môn, hai là được quả giải thoát.
Một là tận trí, hai là vô sanh trí
Một là tứ đế trí, hai là quán thập nhị nhơn duyên.
Trên đây gọi là nhơn và gọi là
duyên, mà các chúng sanh do các nhơn duyên nầy ưa thích Niết bàn.
Ðức Như Lai biết rõ các loại thiền tam muội giải thoát. Ðã biết rõ rồi lìa
bỏ các pháp dục ác bất thiện có giác quán ly sanh hỉ lạc nhâp vào sơ
thiền, nhập sơ thiền xuất diệt tận định, nhập diệt tận định xuất sơ thiền,
nhẫn đến bát giải thoát cũng nhập xuất như vậy. Tất cả chúng sanh đều
chẳng thể biết được chỗ nhập chỗ xuất của Như Lai. Ðức Như Lai biết rõ trụ
định bình đẳng, cho đến thượng và hạ. Các chúng sanh bảo rằng đức Phật
nhập một tam muội, mà thiệt thì đức Phật nhập tất cả tam muội. Các chúng
sanh thấy đức Phật khởi tất cả định, mà thiệt thì đức Phật nhập một chánh
định. Tam muội của đức Như Lai không có thứ đệ, mà chẳng phải là chẳng
chánh định. Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát đều chẳng biết
được.
Ðức Như Lai lại biết rõ nhơn
duyên thuyết pháp gì được Thanh Văn tam muộì, nhơn duyên thuyết pháp gì
được Duyên Giác tam muội, nhơn duyên thuyết pháp gì được Bồ Tát tam muội,
biết rõ rồi đức Như Lai tùy ý vì họ mà thuyết pháp. Ðây gọi là nghiệp thứ
bảy của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai biết rõ nhơn sanh tử
Cũng thông đạt nhơn duyên giải thoát
Biết rõ rồi vì đại chúng nói
Phá hoại nhơn bất thiện sanh tử
Bất thiện tư duy vô minh nhơn
Vô minh nhơn duyên lớn sanh tử
Phiền não nhơn duyên thọ nghiệp quả
Các kiết nhơn duyên tăng ái kiết
Nếu được gần kề thiện tri thức
Chí tâm nghe nhận pháp vô thượng
Quán sát nội ngoại không tam muội
Có thể vượt khỏi biển sanh tử
Tu tập vô thượng định và huệ
Quán pháp bình đẳng không khứ lai
Nếu hay quán thấy không sanh diệt
Thì được mắt tịch tĩnh sáng suốt
Tu tập vô thượng giải thoát môn
Có đủ tận trí vô sanh trí
Ðã tự mình được trí vô ngại
Lại hay vì chúng sanh thuyết pháp
Nhập sơ thiền xuất diệt tận định
Nhập diệt tận định tùy ý xuất
Như Lai tam muội không thứ đệ
Nên gọi Như Lai thường ở định
Các chánh định được Như Lai nhập
Cùng các pháp giới không sai khác
Nhị thừa chẳng biết chỗ Phật trụ
Bồ Tát chẳng biết chỗ Phật thâm định
Chúng sanh thường ở vô minh tối
Chẳng biết chỗ nhập xuất của Phật
Vô thượng Thế Tôn thương chúng sanh
Vì họ mà nói nghiệp thứ bảy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai biết rõ những
nghiệp đời quá khứ của mình, một đời hai đời đến vô lượng đời, một thời
gian tam tai đến vô lượng thời gian tam tai, một kiếp đến vô lượng kiếp.
Ðức Như Lai nhớ rõ sanh ra danh tánh, ăn uống, hình sắc, dung mạo, khổ
vui, thọ mạng cõi nầy chết sanh đến cõi kia. Ðức Như Lai cũng nhớ biết rõ
đời trước của người khác như nhớ biết rõ của mình vậy.
Ðức Như Lai biết rõ nghiệp nhơn của các chúng sanh,
các chúng sanh ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi kia, các chúng sanh
ấy tạo nghiệp nhơn ấy được thân ở cõi nầy.
Ðức Như Lai biết tâm và nhơn duyên tâm của các chúng
sanh, tâm nầy diệt rồi thứ đệ sanh tâm.
Các sự như vậy, tất cả chúng sanh đều không thể biết rõ
được.
Trí túc mạng của đức Phật biết rõ sự việc thỉ chung của
tất cả tam thế. Túc mạng trí nầy chẳng thể suy lường được.
Ðức Như Lai khuyên các chúng sanh: Nay ngươi nên nhớ
biết sự việc thiện ác đã trải qua trong đời quá khứ. Do Phật lực nên chúng
sanh nhớ biết được vô lượng thiện căn đã được vun trồng từ đời trước, hoặc
ở bên Phật mà vun trồng, hoặc ở bên Bồ Tát hay ở bên Thanh Văn và Duyên
Giác mà vun trồng. Chúng sanh ấy đã nhớ biết rồi, đức Như Lai tùy ý thuyết
pháp cho họ chẳng thối chuyển. Ðây gọi là nghiệp thứ tám của đức Như
Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai nhớ biết vô lượng đời
Hoặc tự hoặc tha nghiệp thiện ác
Thấy rõ việc trong vô lượng kiếp
Như thấy rõ trái trong bàn tay
Dòng họ tên hiệu đều biết rõ
Hình sắc sanh tử cũng biết rõ
Biết rõ thọ mạng và chỗ ở
Nghiệp nhơn thìện ác cũng biết rõ
Biết tâm thứ đệ của chúng sanh
Biết chỗ sở nhơn tâm sanh diệt
Biết khắp đời trong vô lượng kiếp
Cũng chẳng cùng tận trí vô ngại
Phật trí vô lượng chẳng kể được
Nhị thừa chẳng biết cảnh giới Phật
Vì cho chúng sanh nhớ quá khứ
Nên Phật tuyên nói nghiệp thứ tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai thiên nhãn
thanh tịnh vi diệu thấy rõ các chúng sanh sanh tử đọa lạc, hoặc kẻ thọ
thân lành hoặc kẻ thọ thân ác, hoặc sanh cõi lành hoặc sanh cõi ác. Ðức
Như Lai cũng biết thấy rõ các nghiệp nhơn của chúng sanh. Biết chúng sanh
nầy thân khẩu ý ác, chê bai thánh nhơn thêm lớn tà kiến, do nghiệp ác nên
khi bỏ thân nầy phải đọa địa ngục. Biết các chúng sanh nầy thân khẩu ý
lành, tôn kính thánh nhơn thêm lớn chánh kiến, do nghiệp lành nên bỏ thân
nầy được sanh cõi lành.
Thiên nhãh của Như Lai thấy khắp mười phương thế giới
không có ngằn mé như hư không, không có hạn lượng như pháp giới. Thấy rõ
các chúng sanh lúc sanh lúc chết, thấy rõ các thế giới lúc thành lúc hoại.
Cũng biết các chúng sanh phát tâm Bồ đề lúc sanh lúc chết. Cũng thấy tất
cả chư Phật mới thành Chánh giác chuyển pháp luân nhập Niết bàn. Cũng thấy
các bực Thanh Văn lúc chứng được giải thoát, được giải thoát rồi nhập Niết
bàn. Thấy hàng Duyên Giác dùng sức thần thông để báo ơn tín thí của các
chúng sanh. Các sự việc như vậy tất cả hàng ngũ thông Thanh Văn Duyên Giác
và Bồ Tát đều không thấy biết được. Thiên nhãn của đức Như Lai thành tựu
vô lượng công đức như vậy. Do thiên nhãn ấy nhìn xem các chúng sanh ai
đáng được Phật hóa độ, ai nên được Thanh Văn hoặc Duyên Giác hóa độ. Nếu
là người đáng từ nơi Phật mà được độ thì đức Như Lai vì người ấy mà thị
hiện thân Phật, các chúng sanh khác đều không ai thấy. Ðây gọi là nghiệp
thứ chín của đức Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng
Tu nghiệp lành trong vô lượng kiếp
Phật được tịnh thiện nhãn như vậy
Thấy được mười phương các chúng sanh
Thành tựu được sắc thân thiện ác
Thầy các chúng sanh thượng trung hạ
Cũng thấy thọ thân cõi thiện ác
Biết được nghiệp lành thân khẩu ý
Nghiệp nhơn cảm được các quả báo
Cũng biết Thanh Văn Bích Chi Phật
Các bực Bồ Tát cảnh giới lành
Thấy mười phương Phật phá ma quân
Chuyển chánh pháp luân nhập Niết bàn
Thấy các Thanh Văn được giải thoát
Giáo hóa chúng sanh rồi diệt độ
Thấy Bích Chi Phật hiện thần thông
Ðể đền ơn đức của thí chủ
Chơn thiện pháp của Như Lai nói
Nghe rồi hay qua biển sanh tử
Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác
Chẳng biết được chỗ thấy của Phật
Như lai thấy rõ các vi trần
Cũng thấy rõ vô biên thế giới
Như Lai giáo hóa các chúng sanh
Vì vậy nên nói nghiệp thú chín.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai Thế Tôn biết
các lậu tận rốt ráo giải thoát, sanh tử ta đã hết, phạm hạnh ta đã lập,
việc làm đã xong không còn thân đời sau. Trí lậu tận của Phật thanh tịnh
vi diệu. Nói là thanh tịnh là không có các tập khí. Trí Thanh Văn hữu biên
hữu lượng, tại sao, vì có tập khí vậy. Trí Bích Chi Phật cũng có biên có
lượng, tại sao, vì không có đại bi vậy.
Trí lậu tận của Phật vô lượng vô biên, tại sao, vì biết
tất cả hành vậy, vì thành tựu Nhứt thiết trí vậy, vì dứt hẳn tất cả tập
khí vậy, đã nhiếp lấy đại từ đại bi, trang nghiêm tứ vô sở úy, nơi tất cả
pháp không có tập khí duyên lấy tướng dạng, tất cả thế gian chẳng thế hơn
được, đi đứng ngồi nằm không có lỗi lầm.
Như hư không thanh tịnh trong sáng chẳng xen tạp khói
mây. Trí lậu tận của đức Phật cũng vậy, chẳng xen tạp tất cả phiền não tập
khí. Ðức Như Lai thành tựu thanh tịnh đầy đủ trí lậu tận ấy, có thể vì
chúng sanh mở bày tuyên nói cho họ nghe rồi dứt các phiền não, chư Bồ Tát
nghe rồi phát đại trang nghiêm để dứt các phiền não . Ðây gọi là nghiệp
thứ mười của đức Phật Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật lậu tận trí không có biên
Thanh tịnh chẵng tạp phiền não tập
Nhị thừa còn tập khí phiền não
Nên trí lậu tận chẳng thanh tịnh
Như Lai đầy đủ đại từ bi
Vì vậy trí Phật không ngằn mé
Ðầy đủ thành tựu tất cả hạnh
Nên biết chỗ lậu hạnh chúng sanh
Phật diễn nói vô thường vô ngã
Cho chúng biết rỗng không không vui
Tu thiện tư duy được tịnh nhãn
Biết không chúng sanh không tướng nhơn
Ðại bi thương xót các chúng sanh
Ðầy đủ thập lực tứ vô úy
Trí vô ngại vì dứt phiền não
Vì vậy tuyên nói nghiệp thứ mười .
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai đầy đủ bốn vô
sở úy mà thành Như Lai nghiệp.
Ðức Như Lai biết rõ tất cả pháp, hoặc có Trời, hoặc có
Người, hoặc Ma, hoặc Phạm, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn nào mà có thể đúng
thiệt nói rằng Như Lai chẳng biết pháp chẳng rõ pháp, thì không bao giờ
có. Tại sao vậy, vì Như Lai Thế Tôn hiệu là bực Biến Chánh Giác, biết rõ
pháp bình đẳng, hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp thánh nhơn, hoặc pháp Thanh
Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Phật, hoặc pháp hữu
học, hoặc pháp vô học, hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian, hoặc
pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, các
pháp như vậy đều bình đẳng biết rõ nên hiệu là đấng Biến Chánh Giác. Nói
bình đẳng là thấy rỗng không bình đẳng vì pháp chơn thiệt vậy, là vô tướng
bình đẳng vì hoại các tướng vậy, là vô nguyện bình đẳng vì chẳng trụ trước
ba cõi vậy, là bất sanh bình đẳng vì tánh vô sanh vậy là vô hành bình đẳng
vì tánh vô hành vậy, là vô xuất bình đẳng vì tánh vô xuất vậy, là vô chí
xứ bình đẳng vì tánh vô chí xứ vậy, là chơn thiệt bình đẳng vì tánh không
có tam thế vậy, trí giải thoát bình đẳng vì tánh không có vô minh vậy, là
Niết bàn bình đẳng vì tánh không có sanh tử vậy. Thấy tất cả pháp như vậy
thảy đều bình đẳng nên đức Như Lai hiệu là bực Biến Chánh Giác.
Thấy rõ như vậy rồi dùng đại từ bi đức Như Lai vì các
chúng sanh mà tuyên dương thuyết pháp.
Hoặc có kẻ chẳng phải Thế Tôn mà tưởng là Thế Tôn,
chẳng phải Chánh Giác mà tưởng là Chánh Giác, chẳng phải lậu tận mà tưởng
là lậu tận. Ðức Như Lai có đủ bốn vô sở úy có thể phá hoại các ác tưởng
như vậy. Ðây gọi là nghiệp thứ mười một của Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật biết tất cả pháp bình đẳng
Nên được hiệu là Nhứt Thiết Trí
Phàm thánh Bồ Tát và Phật hạnh
Thế gian xuất thế nghiệp thiện ác
Không vô tướng nguyện vô sanh diệt
Tất cả thấy rõ chơn thiệt ấy
Như Lai thấy rõ pháp bình đẳng
Vì chúng nói nghiệp thứ mười một.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chơn thiệt dứt
hết hẳn các lậu phiền não tập khí nên xướng lên rằng: Phật hết các lậu.
Chẳng có hoặc là Trời, là Người, là Ma, là Phạm, hoặc là Sa Môn, là Bà La
Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng Phật chưa hết lậu.
Thế nào gọi là đức Như Lai lậu tận ?
Ðức Phật ở nơi dục lậu, tâm được giải thoát ở nơi hữu
lậu, nơi vô minh lậu, nơi tất cả tập khí, nơi tất cả kiến lậu, tâm được
giải thoát. Vì vậy đức Như Lai hiệu là bực lậu tận.
Trong đệ nhứt nghĩa, chơn trí của thánh nhơn, không có
giác, không có đoạn, không có chứng, không có tu, vì lưu bố thế tục mà gọi
là tận lậu. Tại sao, vì tận là vô sanh vô diệt vô tận không có thể tuyên
nói được. Vì chẳng nói được nên gọi là vô vi. Luận về vô vi thì không có
tướng sanh trụ diệt. Ðức Phật hoặc xuất thế hoặc chẳng xuất thế, pháp tánh
luôn thường trụ. Ðức Như Lai chẳng thấy có ngã và ngã đoạn dứt, vì đại từ
bi mà đức Như Lai vì chúng sanh nói ngã đoạn dứt. Ðây gọi là nghiệp thứ
mười hai của Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai dứt hẳn các lậu kiết
Cũng dứt vô biên các tập khí
Vì vậy thế pháp chẳng nhiễm được
Như sen ở nước nước không thấm
Ðấng Ðại Bi Pháp Vương trong đời
Vì chúng sanh mà lưu bố nói
Chơn thiệt biết rõ không sanh diệt
Vô ngã ngã sở cũng biết thiệt
Tất cả các pháp không tăng giảm
Theo tánh tướng nó nói chơn thiệt
Như Lai được sức đại tự tại
Vì chúng nối nghiệp thứ mười hai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chơn thiệt nói
pháp ngăn chướng đạo. Chẳng có hoặc Trời, Người, Ma, Phạm, hoặc Sa Môn Bà
La Môn nào có thể chơn thiệt nói rằng pháp ấy chẳng thể ngăn chướng được
đạo.
Thế nào gọi là ngăn ? Thế nào là chẳng ngăn ?
Có một pháp hay ngăn đạo đó là phóng dật. Còn có hai
pháp đó là vô tàm và vô quý. Còn có ba pháp đó là thân, khẩu, ý, ác. Còn
có bốn pháp đó là tham dục, sân hận, kinh bố và ngu si. Còn có năm pháp đó
là sát sanh, trộm cướp, tà dâm dục, vọng ngữ, và uống rượu. Còn có sáu
pháp đó là chẳng kính trọng Phật, Pháp, Tăng, giới, tam muội và bất phóng
dật. Còn có bảy pháp đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, tà mạn, tà ngữ, tà mạng
và tà niệm. Còn có tám pháp, đó là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp,
tà mạng tà phương tiện, tà niệm và tà định. Còn có chín pháp, đó là có
người muốn làm các điều ác hiện tại làm, làm rồi đổ cho người thân mình,
có người đem điều lành muốn đang đã làm đổ cho kẻ oán mình, có người đem
điều ác muốn đang đã làm đổ cho thân mình, đây gọi là chín pháp. Còn có
mười pháp, đó là thập ác: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng
thiệt, ác khẩu, vô nghĩa ngữ, tham ganh, sân hại và tà kiến.
Nếu có Tỳ kheo khởi ác tư duy, do đây mà chẳng biết là
có nhiều các lỗi lầm. Do chẳng biết mà sanh tâm điên đảo. Do tâm điên đảo
mà thêm lớn ngũ cái. Do lớn ngũ cái làm cho các phiền não ngăn chướng pháp
lành. Do phiền não mà thân khẩu ý tạo gây các điều ác. Ðức Như Lai như
thìệt biết các pháp như vậy hay ngăn chướng nơi đạo. Ðã tự biết rõ rồi vì
chúng sanh mà diễn nói để phá hoại các pháp ngăn đạo như vậy. Ðây gọi là
nghiệp thứ mười ba của Như Lai ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu ai quen hành theo phóng dật
Thì thiệt chẳng thể được giải thoát
Thân khẩu ý tạo các ác nghiệp
Vô tâm vô quí các phiền não
Gần gũi ác pháp thì ngăn đạo
Biết rõ đối trị chẳng đối trị
Ðể phá phiền não nên diễn nói
Nghiệp thứ mười ba của Như Lai
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chơn thiệt nói
thánh đạo rốt ráo.
Nếu có chúng sanh gần kề chánh niệm thì chắc được giải
thoát. Chẳng có ai hoặc là Trời, Người, Ma, Phạm , hoặc là Sa Môn, Bà La
Môn, Bà La Mộn nào mà có thể chơn thiệt nói rằng người tu tập thánh đạo
chẳng được rốt ráo vô thượng giải thoát.
Những gì là chơn thiệt thánh đạo ?
Có một thứ đó nhứt thừa. Còn có hai thứ, đó là xa ma
tha và tỳ bà xá na. Còn có ba thứ, đó là không tam muội, vô tướng tam muội
và vô nguyện tam muội. Còn có bốn thứ, đó là tứ niệm xứ. Còn có năm thứ,
đó là ngũ căn. Còn có sáu thứ, đó là lục niệm xứ. Còn có bảy thứ, đó là
thất giác chi. Còn có tám thứ, đó là bát chánh đạo phần. Còn có chín thứ,
đó là sơ thiền đến diệt tận định. Còn có mười thứ, đó là thập thiện. Ðây
gọi là rốt ráo chơn thiệt thánh đạo.
Lại rốt ráo thánh đạo là không có thể làm tăng giảm lấy
bỏ, không có nắm không có buông, chẳng phải chánh chẳng phải tà, chẳng
phải một chẳng phải hai, đây gọi là thánh đạo rốt ráo chơn thiệt vậy. Vì
thương xót các chúng sanh mà đức Như Lai tuyên nói thánh đạo như vậy. Ðây
gọi là nghiệp thứ mười bốn của đức Như Lai.
Ðức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai biết rõ pháp tịch tĩnh
Ai tu tập thì được giải thoát
Như Lai không thấy không ai dạy
Tự nhiên mà được vị cam lộ
Ai tu ba mươi bảy trợ đạo
Phiền não kiết dứt được giải thoát
Tư duy biết rõ pháp chơn thiệt
Chẳng trụ pháp tánh chơn giải thoát
Như Lai thấy pháp như hư không
Như huyễn như hóa như dương diệm
Ðấng đủ thập lực vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp thứ mười bốn
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Thân nghiệp Như Lai không
có lầm lỗi. Hoặc kẻ ngu hoặc người trí không ai có thể chơn thiệt nói Phật
có lỗi lầm. Tại sao, đức Như Lai hoặc đi hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đắp y,
hoặc cầm bát, hoặc thọ ăn uống, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nói, hoặc nhập
xuất thành ấp thôn lạc nhà cửa, bàn chưn Phật không đạp đất, thường bước
đi trên hoa sen ngàn cánh. Nếu có chúng sanh nào gặp chạm bóng thân Phật
thì trong bảy ngày an vui không nghĩ tưởng đến ăn uống, khi bỏ thân sanh
về cõi lành. Y phục của Như Lai mặc lìa cách thân Phât bốn tấc, sức gió
mạnh bạo không làm động được. Ðức Như Lai dầu có những sự việc hành động
nói năng như vậy, mà nội tâm Phật chưa lúc nào chẳng định. Vì vậy mà thân
Như Lai không có lỗi lầm.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai khẩu nghiệp cũng không có
lỗi lầm. Tại sao, vì đức Như Lai luôn là thời ngữ, chơn thiệt, ngữ chánh
ngữ, kỳ ngữ, nghĩa ngữ, thanh tịnh ngữ, vi diệu ngữ, vô dị ngữ, nhất âm
ngữ, lời nói chẳng nhiều, lời hiểu tất cả, lời đúng như làm. Vì vậy nên
Như Lai khẩu không có lỗi lầm.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai ý nghiệp cũng không có lỗi
lầm. Tại sao, vì đức Như Lai thường làm tất cả Phật sự luôn mà nội tâm
Phật không hề có kiêu mạn. Ðức Như Lai chẳng nhọc suy nghĩ mà biết rõ cùng
tận hết tất cả pháp, nên gọi là Phật vô ngại trí. Vì vậy mà Như Lai ý
nghiệp không có lỗi lầm. Vì thương xót chúng sanh nên đức Như Lai tuyên
nói thân khẩu ý Phật không có lỗi lầm như vậy. Ðây gọi là nghiệp thứ mười
lăm của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thân khẩu ý Như Lai tịch tĩnh
Vì vậy nên không có lỗi lầm
Thiệt chẳng nói được mà tuyên nói
Nghiệp chẳng phải nghiệp nói là nghiệp.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chẳng sanh việc
tranh cãi với hàng Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn. Tại sao, vì
Như Lai rốt ráo lìa thương và giận vậy. Do đây nên tất cả thế gian cúng
dường cung kính, tâm Phật chẳng cao ngạo cũng chẳng vui mừng. Tất cả thế
gian khinh mạn chê bai, tâm Phật không có xúc động.Phàm việc được Phật làm
thì không có sự nào là chẳng thành tựu. Phật hoàn toàn không có tạo tác
nghiệp bất thiện. Ðức Như Lai thiệt không có sự tranh luận với tất cả thế
gian, cũng luôn an trụ vô tránh tam muội. Ðức Như Lai không có ngã không
có ngã sở hữu, vì phá sự thị phi tranh tụng của chúng sanh mà nói nghiệp
nầy. Ðây gọi là nghiệp thứ mười sáu của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai tu tập vô tránh định
Nên tâm Phật không giận không mừng
Như Lai vì dứt các phiền não
Nên tuyên nói nghiệp thứ mười sáu.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Tâm Như Lai không có quên
lầm, với bát giải thoát không có mất niệm tâm. Như Lai thường quán ý hành
của tất cả chúng sanh, quán rồi lại hay tùy nghi thuyết pháp. Với bốn vô
ngại cũng không thất niệm. Ở trong tam thế nhớ biết không quên. Ðã tự mình
chẳng mất tâm nhớ biết lại vì chúng sanh mà tuyên nói pháp nhớ biết nầy.
Ðây gọi là nghiệp thứ mười bảy của Như Lai.
Ðức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai tu tập bát giải thoát
Nên với các pháp chẳng thất niệm
Biết tâm chúng sanh tùy nghi nói
Cho chúng được niệm nói nghiệp nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai chơn thiệt
không có tâm bất định. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói,
hoặc nín, thướng biết nghĩa thâm diệu của các pháp. Tất cả thế gian hoặc
có người nhập định hoặc chẳng nhập định, không ai có thể biết được tâm Như
Lai, chỉ trừ chư Phật gia đạo lực cho họ. Vì muốn cho vô lượng tất cả
chúng sanh thường tại chánh định nên nói nghiệp Phật như vậy. Ðây gọi là
nghiệp thứ mười tám của đức Như Lai.
Ðức Như Lai nói kệ rằng:
Như Lai chánh giác thường tại định
Việc được Phât làm không tán loạn
Thường nhập tam muội không ai biết
Vì vậy tuyên nói nghiệp mười tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai chơn thiệt không có
các loại suy tưởng. Ðó là không có phân biệt là phước điền là chẳng phải
phước điền, cũng không có phân biệt là chúng sanh là pháp là chánh giác là
pháp giới, không có phân biệt là trì giới là phá giới, cũng không có phân
biệt là oán là thân, là thọ nhận là chẳng thọ nhận, cũng không có tưởng
phân biệt là chánh kiến là tà kiên. Vì vậy mà đức Như Lai không có các ý
tưởng. Muốn phá các thứ tưởng phân biệt như vậy của các chúng sanh mà đức
Như Lai tuyên nói nghiệp nầy. Ðây gọi là nghiệp thứ mười chín của đức Như
Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai dứt hẳn tất cả tưởng
Do đây biết rõ các pháp giới
Vì phá chúng sanh ngần ấy tưởng
Nói nghiệp thứ mười chín của Phật.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai theo trí mà tâm
xả. Không có chẳng biết mà xả, tại sao, vì tu thân vì tu giới vì tu định
vì tu huệ vì dứt nghi vậy.
Tâm xả của Như Lai ra khỏi các thế gian, tức là thánh
xả, là rốt ráo xả, là chuyển thanh tịnh phạm luân xả, là hai mươi tám đại
bi xả, là lợi ích chúng sanh xả, là đối trị xả. Các đức xả như vậy không
có tăng không có giảm, chẳng cao chẳng thấp, chẳng xen tạp phiền não,
chẳng một chẳng hai, chẳng quán thời tiết, chẳng có đối không có ngại,
chẳng dừng chẳng động, chẳng ẩn chẳng hiển, là chơn thiệt bất hư vậy.
Ðức Như Lai thành tựu đức đại xả như vậy mà có thể vì
các chúng sanh tuyên nói. Ðây gọi là nghiệp thứ hia mươi của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai tu thân giới tâm huệ
Từ trí huệ mà tu tâm xả
Với các chúng sanh không thương giận
Chẵng động chẳng dừng chon thiệt xả
Ðấng Vô thượng đại từ đại bi
Có đủ đức đại xả như vậy
Trí vô ngại điều phục chúng sanh
Nói nghiệp thứ hai mươi thanh tịnh.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Nghiệp thích muốn của đức
Như Lai không có tăng không có giảm. Những gì gọi là thích muốn ? Ðó là
thích muốn các pháp lành, những là đại từ đại bi thuyết pháp độ người an
trụ tịch tĩnh khuyên dạy các Bồ Tát học đạo Bồ đề làm cho giống tam thừa
nối nhau không dứt. Tất cả các thích muốn như vậy chẳng theo tâm thích
muốn sanh, mà theo trí huệ sanh. Vì muốn cho tất cả chúng sanh có đủ Vô
thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp nầy. Ðây gọi là nghiệp thứ
hai mươi mốt của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Ðức muốn của Phật không tăng giảm
Do đại từ bi nên thuyết pháp
Chẳng dứt tam thừa vô biên thân
Vì chúng nói nghiệp Phật như vậy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Ðức Như Lai tinh tiến không
có thôi nghỉ. Thế nào là chẳng thôi nghỉ ? Ðó là điều phục chúng sanh
thuyết pháp giáo hóa. Giả sử có một người có thể trong thời gian vô lượng
kiếp ở bên Phật nghe pháp đức Như Lai sẽ vì người nầy thuyết pháp không
thôi nghỉ. Nếu có một Phật trong vô lượng kiếp thuyết pháp Như Lai cũng
nghe mãi không có lòng nhác lười thôi bỏ. Nếu quá vô lượng hằng hà sa thế
giới có một chúng sanh đáng được độ. Như Lai cần phải theo chẳng rời bỏ
chẳng ăn chẳng nghỉ, chẳng hề sanh tâm mõi mệt hối hận thối chuyển, Phật
thường khuyên bảo chúng sanh cho họ siêng năng tinh tiến. Ðây gọi là
nghiệp thứ hai mươi hai của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Ðấng có đức tinh tiến Vô thượng
Ở trong đại chúng khen tinh tiến
Tinh tiến thuyết pháp không thôi nghỉ
Là nghiệp Phật thứ hai mươi hai.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai niệm tâm không có
tăng không có giảm. Tại sao, lúc mới được Vô thượng Bồ đề, Như Lai quán
khắp tâm tất cả chúng sanh quá khứ vị lai hiện tại, sau đó lúc thuyết pháp
chẳng mất niệm trước, nhớ rõ ba tụ trước và ba loại căn tánh, phàm lúc Như
Lai thuyết pháp không lúc nào chẳng niệm. Ðây gọi là nghiệp thứ hai mươi
ba của Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai lúc mới được Bồ đề
Quán khắp chúng sanh tâm đúng thiệt
Phàm lúc thuyết pháp chẳng thất niệm
Phật nói nghiệp thứ hai mươi ba.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai tam muội với tất cả
pháp bình đẳng không có giảm, vì vậy nên chư Phật tất cả bình đẳng, nơi
tất cả một ức loại tham dục sân hận ngu si và một ức loại không tham sân
si, tâm Phật bình đẳng không có sai biệt. Với tất cả loại hữu vi vô vi
sanh tử Niết bàn cũng như vậy.
Như Lai tam muội bình đẳng như vậy chẳng rời nhãn nhĩ
tỷ thiệt thân ý tứ đại tam giới, chẳng phải đây chẳng phải kia, cũng chẳng
phải tất cả, chẳng phải tăng chẳng phải giảm. Vì làm cho chúng sanh được
tam muội như vậy nên Như Lai tuyên nói chánh pháp. Ðây gọi là nghiệp thứ
hai mươi bốn của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Như Lai quán khắp tất cả pháp
Tâm Phật thường định không tán loạn
Chẳng bị nhiếp thuộc bởi tam giới
Sáu căn tứ đại cũng như vậy
Tất cả các pháp vô sai biệt
Bình đẳng quán sát thiện bất thiện
Vi muốn chúng sanh được định nầy
Nên nói nghiệp Phật thứ hai bốn.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ thường
không giảm ít. Dùng trí lực nầy biết tất cả pháp hay tùy ý thích của chúng
sanh mà thuyết pháp. Như Lai được trí vô ngại biết tất cả nghĩa, biết tất
cả chữ, biết tất cả câu, trong vô lượng kiếp diễn nói một câu pháp ra vô
lượng nghĩa dứt tất cả nghi. Như Lai nói pháp tam thừa đến tám vạn bốn
ngàn pháp môn. Ðây gọi là vô lượng vô biên trí huệ. Vì cho chúng sanh được
trí huệ như vậy mà đức Như Lai diễn nói chánh pháp. Ðây gọi là nghiệp thứ
hai mươi lăm của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Phật trí huệ vô ngại vô biên
Hay nói vô ngại vô biên pháp
Diễn một chữ làm vô lượng câu
Diễn một câu làm vô lượng nghĩa
Nói tám vạn bốn ngàn pháp môn
Cũng nói số khối pháp như vậy
Làm cho chúng được trí vô ngại
Nên Phật nói nghiệp hai mươi lăm.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai giải thoát không có
giảm ít. Hàng Thanh Văn do nghe pháp nơi người khác mà được giải thoát.
Hàng Duyên Giác từ nhơn duyên mà được giải thoát. Chư Phật Như Lai không
có thấy tự nhiên giác ngộ dứt hẳn phiền não và tập khí. Với quá khứ chẳng
xét, với vị lai chẳng dính, với hiện tại chẳng trụ, cũng chẳng tham trước
hai pháp nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp . Như
Lai biết rõ tâm tánh thanh tịnh nên xướng lên rằng, trong một niệm Như Lai
được Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì muốn chúng sanh trong một niệm
được Vô thượng Bồ đề nên Như Lai diễn nói chánh pháp. Ðây gọi là nghiệp
thứ hai mươi sáu của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Thanh Văn do nghe được giải thoát
Duyên Giác nhơn duyên được tỏ ngộ
Như Lai giải thoát không sở nhơn
Chẳng trước tam thế tâm tánh tịnh
Phật diễn thuyết pháp vì giải thoát
Quán các chúng sanh Vô thượng đạo
Ðại từ đại bi vì chúng nói
Nghiệp Như Lai thứ hai mươi sáu.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai thân nghiệp tùy trí
huệ hành, luôn bao quanh bởi trí huệ, do thân nghiệp nầy mà Như Lai lúc
thuyết pháp, lúc nín lặng, lúc đi đứng ngồi nằm, lúc uống ăn, lúc đi ra
thành ấp tụ lạc, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp,
chúng sanh thấy hay nghe đều được điều phục, vì vậy mà tất cả thân nghiệp
Như Lai tủy trí huệ hành. Ðây gọi là nghiệp thứ hai mươi bảy của đức Như
Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Thân nghiệp Như Lai vì chúng sanh
Nên hiện những tướng tốt vi diệu
Phàm có cử động lợi chúng sanh
Phật vì đại chúng nói nghiệp nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai khẩu nghiệp tùy trí
huệ hành, tại sao, vì thanh tịnh thuyết pháp vậy, vì không có thất thoát
vậy, vì là lời chơn chánh, lời dễ hiểu, lời dễ biết, lời chẳng cao chẳng
hạ, lời chẳng cong vạy, lời chẳng thô, lời chẳng ác, lời chẳng mờ tối, lời
dịu dàng, lời chẳng khinh, lời chẳng mau, lời chẳng e sợ, lời chẳng phải
chẳng hiểu nghĩa, lời chẳng phải tiếng ác, lời chẳng chậm, lời cam lộ, lời
khả ái, lời có thứ đệ, lời trang nghiêm, lời cung kính, lời thích nghe,
lời chẳng tham, lời chẳng nhơ, lời thanh tịnh, lời rốt ráo, lời chẳng lừa
dối, lời chẳng si mê, lời vô ngại, lời rộng rãi, lời chơn thiệt, lời chẳng
tạo tác, lời vô tận, lời an lạc, lời tịch tĩnh, lời tham tịch tĩnh, lời
sân tịch tĩnh, lời si tịch tĩnh, lời phá ma, lời phá tà luận, tiếng phạm
âm, tiếng ca lăng tần già, tiếng Ðế Thích, tiếng hải triều, tiếng câu luân
xà, tiếng khổng tước mùa thu, tiếng câu chỉ la, tiếng chim mạng mạng,
tiếng nga vương, tiếng lộc vương, tiếng đờn, tiếng trống, tiếng ốc, tiếng
nhạc, tiếng người thích nghe , tiếng nhĩ căn thích, lời tăng pháp lành,
lời câu nghĩa vô tận, lời hiệp chữ câu nghĩa, lời đúng thời, lời lược gọn,
lời tri túc, lời điều các căn, lời bố thí trang nghiêm, lời giới luật
thanh tịnh, lời cùng chung với đức nhẫn nhục, lời tinh tiến thần thông,
lời lìa xa dục giới, lời đầy đủ trí huệ, lời từ, lời bi, lời hỉ, lời xả,
lời nói pháp Tam thừa, lời chẳng dứt tam bửu, lời giải thích ba tụ, lời
giải thích tam thế, lời giải thích ba giải thoát, lời phân biệt tứ đế, lời
tu tập, lời tán thán, lời Phật, lời thánh, lời vô biên, lời vô hành. Nầy
thiện nam tử ! Như Lai thành tựu những lời nói như vậy, nên khẩu nghiệp
Như Lai là tùy trí huệ hành. Ðây gọi là nghiệp thứ hai mươi tám của đức
Như Lai.
Ðức Như Lai nói kệ rằng :
Lời nói của Phật như tịnh châu
Thành tựu vô lượng các công đức
Tiếng Phật khắp cùng mười
phương cõi
Nhứt âm hay làm mọi loài hiểu
Phàm lời diễn nói chẳng tác
niệm
Lại chẳng xem cảnh giới chúng
tâm
Như Lai âm thanh như tiếng vang
Không nói không nghe cũng như
vậy
Ðại từ đại bi lời thanh tịnh
Vì chúng giải thích các loại
pháp
Muốn cho chúng sanh được như
Phật
Nên nói khẩu nghiệp hai mươi
tám.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai ý nghiệp tùy trí
nghiệp hành. Tại sao, đức Như Lai biết rõ tâm ý thức của tất cả chúng
sanh, cũng chẳng theo ý theo duyên theo tham sân si, xa lìa dối lầm, xa
lìa ngã ngã sở vô minh tối tăm, bình đẳng thanh tịnh không có biên tế như
hu không, đây là Như Lai ý nghiệp tùy trí huệ hành. Ðây gọi là nghiệp thứ
hai mươi chín của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Tâm Như Lai chẳng thể lường
được
Như dùng sợi lông cất núi lớn
Thường quán chúng sanh tâm
duyên cảnh
Xa lìa các ma lìa phiền não
Như Lai Pháp Vương nói nghiệp
lành
Ðể phá chúng sanh các nghiệp ác
Vì tịnh chúng sanh thân khẩu ý
Nghiệp hai mươi chín nay đã
nói.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời
quá khứ, trí ấy không có ngại cũng không có chướng. Trí ấy thế nào ? Trí
ấy biết vô lượng vô số chư Phật quá khứ cùng với các thế giới của chư Phật
ấy, những là cỏ cây và số lượng chúng sanh, tâm cảnh của họ, các loại âm
thanh ngôn ngữ của họ, cũng biết chư Phật quá khứ ấy nói những pháp gì, có
bao nhiêu chúng sanh chứng được Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, Bồ Tát
thừa, biết rõ chư Phật quá khứ ấy thọ mạng dài ngắn, số đại chúng nhiều
ít, các thứ danh tự, sự ăn uống ngồi nằm, biết rõ chúng sanh ấy những là
căn giới ý giới pháp giới tâm giới hành giới, tâm họ thứ đệ sanh diệt xuất
hiện ẩn mất. Tất cả đều biết rõ như thiệt cho đến biết rõ số lượng, chẳng
phải dùng tỉ trí so tính để biết. Ðây gọi là nghiệp thứ ba mươi của đức
Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Phật trí vô ngại cũng vô chướng
Nên biết rõ được vô lượng cõi
Biết rõ tất cả các Phật sự
Chúng sanh các căn và pháp giới
Như Lai Pháp Vương biết quá khứ
Như xem trái cây trong bàn tay
Vì muốn chúng sanh được trí ấy
Phật nói nghiệp thứ ba mươi nầy.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời vị
lai, trí ấy vô ngại cũng vô chướng .
Trí ấy biết thế nào ? Trí ấy biết tất cả thế giới thuở
vị lai, hoặc thành hoặc hoại, mấy kiếp hỏa tai, mấy kiếp thủy tai, mấy
kiếp phong tai, bao nhiêu Phật thế giới, bao nhiêu Phật xuất thế, trong
thế giới có bao nhiêu vi trần, có bao nhiêu Thanh Văn, bao nhiêu Duyên
Giác, bao nhiêu Bồ Tát, cũng biết sự ăn uống hành động đi đứng ngồi nằm
của chư Phật ấy, bao nhiêu chúng sanh chứng Thanh Văn giải thoát, bao
nhiêu chúng sanh chứng Duyên Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh chứng
Chánh Giác giải thoát, bao nhiêu chúng sanh tu tập các phẩm trợ đạo, tử bi
hỉ xả, cũng biết rõ các chúng sanh thuở vị lai ấy bao nhiêu thứ đệ tâm
sanh, tâm diệt. Tất cả sự việc như vậy đều biệt rõ chơn thiệt chẳng phải
dùng tỉ trí so tính để biết. Ðây gọi là nghiệp thứ ba mươi mốt của đức Như
Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai biết rõ đời vị lai
Sự sanh diệt của tất cả pháp
Biết các thế giới và chư Phật
Chúng sanh tâm thứ đệ sanh diệt
Lưu chuyển các đạo chứng tam thừa
Y báo chánh báo biết chơn thiệt
Vì muốn đại chúng được trí nầy
Phật nói nghiệp thứ ba mươi mốt.
Lại nữa, nầy thiện nam tử ! Như Lai trí huệ biết đời
hiện tại, trí ấy vô ngại cũng vô chướng.
Trí ấy thế nào ? Như Lai biết rõ hiện tại mười phương
các thế giới, số lượng chư Phật Bồ Tát Duyên Giác Thanh Văn, những nhựt
nguyệt tinh tú cỏ cây vi trần địa thủy hỏa phong đại hải núi sông vườn
rừng, các loại chúng sanh lông tóc hình sắc tâm ý thứ đệ sanh diệt ẩn mất.
Cũng biết chúng sanh địa ngục ngạ quỷ súc sanh hiện nghiệp quả báo ở đời
bao lâu lúc nào giải thoát, biết rõ phiền não giới, chư căn giới, ý giới,
pháp giới. Tất cả sự việc hiện tại mười phương trí Như Lai biết rõ chơn
thiệt, chẳng phải dùng tỉ trí so tính để biết. Ðây gọi là nghiệp thứ ba
mươi hai của đức Như Lai.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Như Lai Vô thượng chẳng nghĩ bàn
Không ai biết Phật cảnh sở duyên
Chỗ biết của Phật như hư không
Vô lượng vô biên không thể nói
Phật nói vi diệu đệ nhứt nghĩa
Vì muốn chúng sanh được nghiệp Phật
Tự Tại Vương khéo hỏi Như Lai
Phật Thế Tôn đã tùy ý đáp.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn có đủ ba mươi hai
nghiệp như vậy thì có thể điều phục tất cả chúng sanh.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn vì chúng sanh nói
các nghiệp ấy, mà thiệt thì Như Lai vô lượng nghiệp Vô thượng không thể kể
nói.
Nầy thiện nam tử ! Nghiệp của Như Lai, tất cả thế gian
chúng sanh chẳng suy nghĩ được, chẳng biết rõ được cũng chẳng tuyên nói
được.
Nghiệp Như Lai ấy đều có thể bình đẳng biết khắp tất cả
quốc độ như hư không. Tại sao ? Vì mười phương chư Phật đều bình đẳng vậy.
Nầy thiện nam tử ! Chư Phật Như Lai quan sát chúng sanh
cùng thế giới giải thoát Niết bàn đều bình đẳng không sai khác. Ðức Phật
Thế Tôn quán pháp giới đều bình đẳng nhứt vị rồi chuyển chánh pháp luân
chẳng chuyển được.
Nầy thiện nam tử ! Ví như người thợ ngọc biết rành các
loại châu báu, ở nơi núi báu được một viên bửu châu mang về ngâm trong
nước, ngâm nước xong vớt ra ngâm dấm, rồi ngâm nước đậu, ngâm rượu đắng,
ngâm xong để trong các chất nước thuốc, sau đó dùng nĩ nhuyễn mài chà
thành chơn chánh thanh lưu ly châu.
Cũng vậy, vì biết chúng sanh giới chẳng sáng chẳng sạch
nên Như Lai vì chúng sanh mà nói pháp Vô thường khổ bất tịnh để phá tâm
tham ưa sanh tử của họ. Ðức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ, lại vì
chúng sanh nói pháp không vô tướng vô nguyện cho họ biết rõ chánh pháp của
Phật. Ðức Như Lai tinh tiến không thôi nghỉ lại vì họ thuyết pháp cho họ
chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề biết tất cả pháp ba đời thành đạo Bồ đề,
gọi là đại trân bửu Vô thượng phước điền lành tốt.
Vì vậy nên biết nghiệp của Như Lai chẳng thể tư duy
chẳng thể cân lường chẳng thể tuyên nói được.
Ðức Như Lai có đủ ba mươi hai nghiệp, dầu biết thân
Phật như hư không mà ở nơi thế giới thị hiện thân Phật và cũng thuyết pháp
chẳng thể thuyết được.
Ðức Như Lai đã dứt hẳn nhơn duyên tất cả tâm nên biết
rõ tâm giới của tất cả chúng sanh, cũng biết rõ cảnh giới của tất cả Bồ
Tát.
Nầy thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn chơn thiệt nghiệp
trọn chẳng đoạn tuyệt, thọ ký cho Bồ Tát. Ðây gọi là nghiệp chơn thiệt của
Như Lai”.
Lúc đức Thế Tôn nói nghiệp Phật trên đây rồi, mười
phương thế giới chấn động sáu cách, quang minh lớn chiếu khắp nơi, vô
lượng vô biên thứ hương thơm hoa đẹp từ trên không tuôn xuống. Ðại chúng
hiện tại trong phường đình báu lớn cho đến hàng Trời, Rồng,Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi Nhơn
nghe lời đức Phật tuyên nói về nghiệp Như Lai, tất cà đều rất vui mừng.
Ðại chúng lại đem các thứ hương hoa, kỹ nhạc, bửu tràng, bửu phan, bửu
cái, cúng dường, đức Phật. Trong pháp hội lại có các chúng đem đủ loại
vàng ngọc châu báu cùng những vật trang sức, như là tràng chuổi thoa
xuyến, những thanh lưu ly châu, liên hoa châu, kim sí điểu châu, diêm phù
bửu châu, đế thích bửu châu, hỏa châu, quang châu, vô lượng quan châu, vô
lượng sắc châu, nhu nhuyến thanh tịnh châu, kim cương bửu châu và bạch
chơn châu, còn có đem các thứ hương quý như là hương bột, hương chiên đàn
hòa với kim sa, hương da già la, hương trầm thủy, hương huân lục, hương di
khư đa, hương ma la bạt, còn rải các thứ hoa, những là hoa mạn đà la, hoa
ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa câu tỳ đà la,
hoa ba lợi chất đa la, hoa hỉ lạc, hoa sa la, hoa đại sa la, hoa bách
diệp, hoa thiên diệp, hoa nhiễu diệp, hoa đại quang, hoa hương, hoa lạc
hương, hoa lạc kiến, hoa vô lượng sắc, hoa bất định sắc, các loại hoa sanh
trong nước như là hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân
đà lợi các loại, các loại hoa trên đất như là hoa bà lợi sư, hoa ma lê,
hoa tu mạn na, hoa dục kỳ, hoa đàn nội già lê, hoa a đề mục đa già, hoa
chiêm bà, hoa a thúc ca, cũng cúng dường đức Phật các loại kỹ nhạc, các
thứ phan lọng.
Lúc bấy giờ chư Bồ Tát đến từ thập phương thế giới đều
thẳng lên hư không trên phường đình báu lớn rồi buông mình rơi xuống đất
để cúng dường đức Phật, thân chư Bồ Tát ấy rơi xuống đất tan mất hóa ra
lưới thất bửu trùm khắp trên phường đình, lại hiện thân các Ngài ở trong
lưới báu ấy.
Lúc bấy giờ mười phương tất cả chư Phật đều riêng sai
một cây ba lợi đến phường đình dùng để cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Do thấn lực Phật, mỗi mỗi cây ba lợi ấy đến trang nghiêm phường đình
báu lớn.
Trong pháp hội có vô lượng chúng phát tâm Vô thượng
Chánh Giác, vô lượng chúng được Vô sanh Pháp nhẫn.
Ðức Thế Tôn đứng dậy ngắm nhìn hàng đại chúng như tượng
vương nhìn mà tuyên lời rằng : Các thiện nam tử ! Ai có thể thủ hộ các vật
cúng dường nầy và cả phường đình báu lớn đây cho khỏi bị hủy hoại hư hao
tổn thất, chờ đến Di Lặc thành Vô thượng Chánh giác rồi mười sáu năm sau
sẽ cúng dường lên đức Phật ấy và cũng gìn giữ để cúng dường năm trăm đức
Như Lai kế tiếp trong Hiền Kiếp.
Bấy giờ trong chúng hội có một đại Bồ Tát hiệu là Chư
Pháp Thần Thông Tự Tại Vương liền từ chỗ ngồi dậy quỳ chắp tay bạch rằng :
" Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể thủ hộ những vật cúng dường và phường đình
báu lớn nầy chẳng cho hư không hủy hoại để chờ Di Lặc thành Phật được mười
sáu năm sẽ cúng dường cho đức Phật ấy và cũng thủ hộ cúng dường cho năm
trăm đức Phật kế tiếp trong Hiền kiếp nầy”.
Lúc ấy trong đại chúng có một ma vương hiệu là Thần
Thông ở nước Tứ Thiên Hạ nói với đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại
Vương rằng nay Ngài để những vật cúng dường và bửu phường đình nầy ở
trong khí cụ gì để thủ hộ cho khỏi hư hao hủy hoại ?
Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói : " Nầy
thiện nam tử ! Phàm nói là khí cụ thì tánh nó là Vô thường, mà thân thể
nầy của tôi luôn thường trụ không biến đổi. Nay Ngài nên nhìn kỹ thân của
tôi”
Ma vương Thần Thông nghe xong liền y theo lời bảo mà
nhìn kỹ thân của đại Bồ Tát Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương, thấy trong
rún có một thế giới tên là Thủy Vương Quang hiện tại có đức Phật Thế Tôn
hiệu là Bửu Ưu Bát La, trong thế giới Thủy Vương Quang ấy có một bửu sơn
lớn, Bửu Ưu Bát La Như Lai ở trong đại bửu sơn ấy ngồi Kiết già cùng chư
Bồ Tát tuyên nói chánh pháp.
Thần Thông ma vương thấy rõ rồi trong lòng rất lấy làm
lạ mà khen ngợi, liền lạy Chư Pháp Thần Thông Tự Tại Vương đại Bồ Tát mà
bạch rằng : "Lành thay lành thay ! Bạch Ðại Sĩ ! Nay tôi mới biết là Ngài
có khí cụ vi diệu có thể hộ trì được các vật cúng dường và đại bửu phường
đình nầy khỏi bị hư hao hủy hoại”.
Thần Thông ma vương lại đảnh lễ đức Phật bạch rằng :
"Bạch đức Thế Tôn ! Từ trước tôi chưa từng thấy đại Bồ Tát như vậy, cũng
chưa từng được nghe pháp vi diệu như vậy, nên tôi muốn học pháp Thanh Văn
nhập Niết bàn. Nay tôi được thấy oai thần lực của Chư Pháp Thần Thông Tự
Tại Vương đại Bồ Tát tôi liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Bạch đức Thế Tôn !
Giả sử trong hằng hà sa số kiếp thân tôi chịu khổ nơi địa ngục, rồi sau
mới được thành đạo Vô thượng, tôi quyết chẳng rời bỏ Bồ đề tâm”.
Ðức Phật phán dạy : "Lành thay lành thay ! Nầy thiện
nam tử ! Ông có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề tốt như vậy, ông cũng sẽ được
Vô lượng thần thông lực như vậy”.
Lúc ấy trong pháp hội có một đại Bồ Tát hiệu là Sư Tử
Tràng nói với Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát rằng : "Bạch Ngài, đại Bồ
Tát được môn đà la ni gì mà có thể thọ trì tất cả lời chư Phật dạy, những
chữ câu và nghĩa được diễn nói đều không cùng tận ?”.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Bạch Ngài Sư Tử
Tràng đại Bồ Tát, có tám môn đà la ni mà đại Bồ Tát nếu chứng được thì có
thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu và nghĩa
không có cùng tận.
Những gì là tám môn đà la ni ?
Một là Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni môn.
Hai là Vô Tận Khí đà la ni môn.
Ba là Vô Lượng Tế đà la ni môn.
Bốn là Ðại Hải đà la ni môn.
Năm là Liên Hoa đà la ni môn.
Sáu là Nhập Vô Ngại Môn đà la ni môn.
Bảy là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni môn.
Tám là Phật Trang Nghiêm Anh Lạc đà la ni môn.
Nếu có đại Bồ Tát an trụ trong tám môn đà la ni nầy thì
có thể thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và thuyết pháp chữ câu nghĩa
đều không có cùng tận ».
Sư Tử Tràng đại Bồ Tát nói: « Lành thay bạch Ðại Sĩ !
Xin Ngài nói rộng cho. Chư Bồ Tát nghe rồi sẽ được thọ trì tất cả Phật
pháp ».
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Nầy Ngài, xin
lắng nghe kỹ tôi sẽ vì Ngài mà nói.
Môn Tịnh Thanh Quang Minh đà la ni ấy, nếu an trụ được thì đại Bồ Tát có
thể ở nơi chỗ vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn mà thành tựu đầy đủ vô
lượng công đức được, tứ đại thanh tịnh, do đây mà âm thanh vi diệu, lúc
tuyên thuyết chánh pháp âm thanh ấy vang khắp một Phật thế giới, khắp hai
Phật thế giới, khắp năm Phật thế giới , khắp mười Phật thế giới, khắp hai
mươi ba mươi Phật thế giới, khắp bốn mươi năm mươi Phật thế giới, khắp
trăm Phật thế giới, khắp ngàn Phật thế giói, cho đến khắp trăm ngàn vạn
Phật thế giới không thể kể không thể đếm được. Pháp được đại Bồ Tát ấy nói
ra đều được nghe khắp nơi. Lúc đại Bồ Tát ấy thuyết pháp, pháp tòa sư tử
được ngồi hoặc rộng một do tuần, hoặc lớn như núi Tu Di, rộng lớn như bửu
tòa Phạm Thiên Vương.
Giả sử có mười phương vô lượng
chư Phật giảng tuyên đạo hóa đại Bồ Tát nầy đều nghe được khắp hết và thọ
trì chẳng quên sót, hiểu rành chữ câu và ý nghĩa. Ðồng thời tự mình thuyết
pháp và nghe chư Phật thuyết pháp không có trở ngại cả hai sự việc. Ở
trong một chữ diễn nói tất cả pháp, đó là chữ a. Chữ a là đầu của các chữ.
Lúc đại Bồ Tát nầy nói chữ a liền có thể nói tất cả pháp. Chữ a có nghĩa
là không có. Không có ấy là các pháp không có căn, không có sanh, không có
sơ khởi, không có biên tế, không có tận cùng, không có tạo tác, không có
lai, không có khứ, không có trụ, không có tánh, không có xuất, không có
hành, không có tăng, không có cao, không có giảm, không có chữ không có
tác dụng, không có nguyện cầu, không có hí luận cũng không giác quán,
không nói, không nghe, không ở, không vào, các pháp không có ngã, không có
chúng sanh, không tịnh, không mạng, không tên, không chủ, không sĩ phu,
không nội, không ngoại, không thường, không tướng, không nhớ, không lường,
không làm không dấu vết, không câu, không chữ, không ngại, không cùng
chung, không theo mình, không theo người, không thâu, không phóng, không
thủ, không xả, không số, không thân, không tịnh, không uế, không chuyển,
không biến, không thọ nhận, không âm thanh, không tướng hình, không kiết
gút, không nhơ, không cuồng, không lậu, không hữu, không che, không đục,
không đối, cũng không có sắc thọ tưởng hành thức, không có nhơn quả, không
có ấm nhập giới, không có nhơn duyên, không có cảnh giới, không có Dục
giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, không có thọ sanh, không có dẫn dắt, không có
đen trắng, không cặn bã, không tư duy, không thời gian, không quy về,
không thanh tịnh, không tạp uế, không thiêu đốt, không quên tập, không nhà
cửa, không chi tiết, không lay động, không đứng ngừng, không bền chắc,
không mỏng manh, không thấy được, không chạm được, không sáng, không tối,
không lỗi, không tội, không thiệt, không hư, không si ngu, không quán huệ,
không chứng không tu, không kiến, không văn, không giác, không trí, không
xúc, không thúc.
Thưa Ngài Sư Tử Tràng ! Ðại Bồ
Tát được đà la ni Tịnh Thanh Quang Minh như vậy thì ở một chữ có thể diễn
nói tất cả pháp. Trong một chữ nầy nói vô lượng nghĩa không có sai lầm,
chẳng hoại pháp giới, chẳng mất chữ nghĩa.
Ðại Bồ Tát được đà la ni Tịnh
Thanh Quang Minh nầy thì thân khẩu và ý đều thanh tịnh cả.
Cử động đi ở chúng sanh thích
thấy, đó là thân thanh tịnh. Pháp được diễn nói chúng sanh thích nghe đó
là khẩu thanh tịnh. Tu tập tâm từ bi hỉ xả đó là ý thanh tịnh.
Ðại Bồ Tát được đà la ni nầy
rồi thì có thể thanh tịnh hai bố thí, đó là tài thí và pháp thí. Có thể
thanh tịnh giới hạnh, thấy kẻ phá giới chẳng sanh tâm chê ghét. Có thể
thanh tịnh nhẫn nhục, thấy kẻ hại chúng sanh chẳng sanh lòng giận phiền.
Có thể thanh tịnh tinh tiến, tu hành pháp lành không hề thôi nghỉ. Có thể
thanh tịnh thiền định vì dứt kiêu mạn. Có thể thanh tịnh trí huệ vì trừ vô
minh. Có thể thanh tịnh các nghiệp vì phá nhơn ác bất thiện. Có thể thanh
tịnh nhãn căn vì được tam minh. Có thể thanh tịnh nhĩ căn vì được thiên
nhĩ nghe tiếng nói của chư Phật. Có thể thanh tịnh tỷ căn vì ngửi biết
giới hương thanh tịnh của chư Phật. Có thể thanh tịnh thiệt căn vì chẳng
tham chất vị cam lộ. Có thể thanh tịnh thân căn vì được hóa thân. Có thể
thanh tịnh ý căn vì tư duy lành tốt vậy. Có thể thanh tịnh hình sắc vì
được ba mươi hai đại nhơn tướng. Có thể thanh tịnh âm thanh vì nói diệu
pháp. Có thể thanh tịnh hơi hương vì giới văn thí v.v... thanh tịnh. Có
thể thanh tịnh mùi vị vì được vị Vô thượng. Có thể thanh tịnh cảm xúc vì
tu tập các tam muội Vô thượng. Có thể thanh tịnh pháp trần vì quán các
pháp giới vô phân biệt. Có thể thanh tịnh ác niệm vì chẳng quên sót. Có
thể thanh tịnh ý tưởng vì vĩnh viễn không hệ thuộc ca ma đảng. Có thể
thanh tịnh các hành vì quán sát các pháp giới thậm thâm vậy.
Nầy thiện nam tử !
Ðại Bồ Tát an trụ nơi đà la ni Tịnh Quang Minh nầy rồi theo âm thanh được
nói vang đến, chỗ nào thì ánh sáng từ trong thân của Bồ Tát ấy cũng chiếu
đến nơi ấy.
Nầy thiện nam tử !
Ðà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Ðại Bồ Tát an trụ
Vô Tận Khí đà la ni rồi thì diễn nói sắc Vô thường chẳng thể cùng tận, nói
sắc là khổ là vô ngã cũng chẳng thể cùng tận, nói sắc như bọt nước, như ảo
như trăng trong nước, như mộng, như vang, như bóng, như dương diệm, cũng
đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không có tánh, không có tướng là rỗng
không cũng đều chẳng thể cùng tận, nói sắc không nói được chẳng thể nguyện
cầu chẳng thể tạo tác là bất sanh bất diệt chẳng phải quá khứ vị lai hiện
tại, chẳng phải nội ngoại chẳng phải tịnh uế, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng
phải khứ lai, chẳng phải đối ngại, chẳng phải nhứt nhị, chẳng phải chúng
sanh, thọ mạng, trượng phu, chẳng phải tham sân si, chẳng phải hữu vô,
chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải hữu vi vô vi tất cả cũng đều chẳng
phải cùng tận, nói sắc chẳng phải đui điếc, chẳng phải quẻ thọt, chẳng
phải cuồng loạn, chẳng phải cỏ cây gỗ đá, chẳng phải địa thủy hỏa phong,
chẳng phải nhà cửa, chẳng phải thành quách, chẳng phải thôn lạc lớn, chẳng
phải núi gò, chẳng phải vườn rừng, chẳng phải phương hướng, chẳng phải sắc
hương vị xúc, chẳng phải tạo tác chẳng phải lãnh thọ, chẳng phải tiếng,
chẳng phải nghe, chẳng phải mười hai nhơn duyên tất cả cũng đều chẳng thể
cùng tận, nói sắc chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nhơn chẳng
phải ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới,chẳng phải Dục giới, Sắc giới, Vô sắc
giới, chẳng phải đống dị, chẳng phải phiền não, chẳng phải tịnh uế, chẳng
phải bằng, chẳng phải lõm, tất cả cũng đều chẳng thể cùng tận.
Nầy thiện nam tử !
Ðại Bồ Tát an trụ Vô Tận khí đà la ni nói sắc chẳng thể cùng tận như vậy.
Lại còn vô lượng vô biên bất khả thuyết phần. Chia một phần nầy làm ngàn
phần, ta ở nơi một phần ngàn ấy còn nói chẳng thể cùng tận.
Về Vô Lượng Tế đà
la ni, chữ tế là nói thường kiến và đoạn kiến, vô lượng là nói mười hai
nhơn duyên. Lại nữa, chữ tế là nói vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc
thọ ái thủ hữu sanh và lão tử các sự khổ não nhóm họp, vô lượng là nói
sanh và tử. Lại nữa, chữ tế là vô thỉ vô chung, là không có thủ xả, là
không sanh không diệt, là không uế không tịnh vì tánh vốn thanh tịnh, là
khả kiến, là danh sắc, là hữu vi vô vi, là hữu lậu vô lậu, là nghiệp quả
nội ngoại trong ba đời, là không nghiệp nhơn quả báo thiện và bất thiện
ngã và vô ngã sanh tử và Niết bàn.
Vô lượng là vi
trần tế đó là địa thủy hỏa phong.
Ðây gọi là Vô
Lượng Tế đà la ni, đại Bồ Tát an trụ đà la ni ấy rồi ở trong vô lượng kiếp
vì chúng sanh thuyết pháp, những tự cú nghĩa vị được nói đều chẳng thể
cùng tận. Ðà la ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Còn về Ðại Hải đà
la ni, nầy thiện nam tử ! Ví như biển lớn, trong tứ thiên hạ có những hình
sắc chúng sanh những cỏ cây dược thọ ngũ cốc mặt nhựt mặt nguyệt tinh tú
mây rán sương mù sấm chớp quốc độ thành quách tụ lạc thôn ấp điện đường
vườn rừng ao hồ núi sông v.v... tất cả hình sắc đều hiện bóng trong biển
lớn.
Ðại Bồ Tát an trụ đà la ni Ðại
Hải ấy cũng như vậy, tất cả chúng sanh thân khẩu ý nghiệp đều ấn hiện
trong thân đại Bồ Tát, do đây mà những lời nói của đại Bồ Tát đều chơn
thiệt cả. Chữ ấn ấy có nghĩa là vô sở hữu, đó là các pháp không có giác
quán không có ngôn thuyết là vô biên vô tác vô tham, đây gọi là nghĩa đệ
nhứt chơn thiệt. Còn có giá ấn, giá là nói nhãn , nhãn là vô thường có thể
tịnh có thể thấy. Còn có na ấn, na là nói danh, vì tất cả các pháp nên
danh thiệt vô danh. Còn có la ấn, la là nói thế, tất cả thế gian thuộc ái
và vô minh. Còn có đà ấn, đà là nói thập, đức Phật Thế Tôn có thập lực hay
hóa độ chúng sanh. Còn có ba ấn, ba là nói ngũ, đức Như Lai xa lìa trừ dứt
ngũ dục chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn có sát ấn, sát là
nói lục, vì đức Như Lai chơn thiệt biết rõ lục nhập nên có thể điều phục
tất cả chúng sanh, vì đức Như Lai đủ lục niệm xứ nên được đại tự tại, vì
đức Như Lai có lục thần thông nên dùng thần thông giáo hóa chúng sanh. Còn
có bà ấn, bà là nói tả, vì đức Như Lai lìa tả đạo nên được Vô thượng Bồ
đề. Còn có đa ấn, đa là nói thiệt, vì đức Như Lai biết rõ tánh chơn thiệt,
nên gọi là Chánh Giác. Còn có na ấn, na là nói bỉ, vì đức Như Lai biết
khắp các pháp thủ bỉ đều bình đẳng. Còn có bà ấn, bà là nói kiết, vì đức
Như Lai xa lìa tất cả phiền não kiết sử nên gọi là a lê ha. Còn có xà ấn,
xà là nói sanh lão, vì đức Như Lai đã khỏi phần sanh lão nên gọi là Thế
Tôn. Còn có đàm ấn, đàm là nói pháp, đức Như Lai thuyết pháp thanh tịnh vô
cấu. Còn có xa ấn, xa là nói xa ma tha. Còn có khư ấn, khư là nói hư
không, đức Như Lai thấy biết tất cả các pháp đồng như hư không. Còn có ca
ấn, ca là nói khổ hạnh, đức Như Lai xa lìa tất cả khổ hạnh. Còn có bà ấn,
bà là nói chơn thiệt, tứ đế được đức Như Lai nói tức là chơn thiệt. Còn có
ma ấn, ma là nói đạo, đức Như Lai hay nói pháp bát chánh đạo. Còn có già
ấn, già là nói thâm, pháp được đức Như Lai nói nghĩa rất thậm thâm. Còn có
sằn ấn, sằn là nói nhẫn, đức Như Lai có đủ nhẫn Ba la mật. Còn có hô ấn,
hô là nói tán, đức Như Lai thường tán thán thập phương chư Phật. Còn có
nhược ấn, nhược là nói biến tri, đức Như Lai biết rõ khắp tất cả pháp nên
gọi là bực Nhứt thiết trí. Còn có bà ấn, bà là nói hữu, đức Như Lai đã
thoát khỏi tất cả hữu. Còn có xa ấn, xa là nói dục, đức Như Lai muốn tất
cả pháp lành. Còn có ba ấn, ba là nói tiền, đức Như Lai thường vì chúng
sanh hiện tiền thuyết pháp . Còn có phả ấn, phả là nói quả, đức Như Lai
thường nói bốn quả Sa Môn.
Nầy thiện nam tử !
Nhơn chữ như vậy mà diễn nói các pháp, đó là các chữ đều ấn hiện nơi miệng
đại Bồ Tát. Ðây gọi là
Ðại Hải đà la ni.
Luận về Liên Hoa đà la ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy rồi chỗ
thuyết pháp thường xuất hiện thất bửu liên hoa thanh tịnh vi diệu để làm
pháp tòa, đại Bồ Tát ngồi bửu tòa ấy mà thuyết pháp giáo hóa, lại còn
nhiều khi mưa tuôn vô lượng liên hoa, các liên hoa nầy cũng phát ra các
thứ pháp âm thanh tịnh, âm thanh ấy sâu rộng diễn xuất nhiều phương tiện
ví dụ. Những là pháp âm mười hai bộ kinh, pháp âm thanh tịnh, pháp âm dứt
phiền não, lúc ấy đại Bồ Tát ngồi yên lặng mà các liên hoa đều có thể diễn
xuất pháp âm. Cũng còn phát xuất vô lượng các loại quang minh mà tất cả
chúng sanh đều thấy. Ðại Bồ Tát ngồi trên đài các liên hoa mà làm Phật sự.
Ðây gọi là Liên Hoa đà la ni.
Luận về Nhập Vô Ngại Môn đà la
ni ấy, đại Bồ Tát an trụ đà la ni nầy lúc nói một pháp không có chướng
ngại, hoặc lúc nói hai pháp ba pháp bốn pháp trăm pháp ngàn pháp trăm ngàn
vạn pháp vô lượng vô biên hằng hà sa số pháp cũng không có chướng ngại,
cho đến lúc nói pháp số bằng số vi trần trong tứ thiên hạ, bằng số vi trần
Ðại Thiên thế giới, bằng số vi trần trong hằng hà sa chư Phật thế giới,
nơi các chữ câu nghĩa không có chướng ngại, đây gọi là Nhập Vô Ngại Môn đà
la ni vậy.
Luận về Tứ Vô Ngại Trí đà la ni ấy, đó là pháp vô ngại
trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí. Ðại Bồ
Tát an trụ đà la ni nầy, Ðông phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai
thưa hỏi pháp yếu, đại Bồ Tát theo đó dùng pháp vô ngại để giải đáp, Nam
phương vô lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi nghĩa, đại Bồ Tát tùy thuận
dùng nghĩa vô ngại để đáp, Tây phương vô lương thế giới chúng sanh có ai
hỏi về từ, đại Bồ Tát tùy thuận dùng từ vô ngại để đáp, Bắc phương vô
lượng thế giới chúng sanh có ai hỏi lạc thuyết, đại Bồ Tát tùy thuận dùng
lạc thuyết vô ngại để đáp. Ðây gọi là Tứ Vô Ngại Trí đà la ni.
Luận về Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni ấy, nếu có
đại Bồ Tát được đà la ni thứ tám nầy thì trên đỉnh kế có tượng Phật màu
chơn kim xuất hiện, tượng Phật ấy có ánh sáng lớn đủ ba mươi hai tướng đại
nhơn tám mươi vẻ đẹp, bấy giờ đại Bồ Tát thân khẩu ý đều làm Phật sự, chỗ
tư niệm như Phật tư niệm. Ðại Bồ Tát có đủ Phật nghiệp như vậy có thể
biết các loại tâm niệm của đại chúng, biết rồi tùy ý mà vì đại chúng
thuyết pháp trong một ngày hai ngày cho đến vô lượng trăm ngàn vạn năm
cũng chẳng thể cùng tận chỗ hiểu biết pháp môn văn tự cú nghĩa của đại Bồ
Tát. Lại còn có đủ bốn thứ trí huệ, đó là biết tâm niệm của các chúng
sanh, biết các tự cú , biết chỗ nói vô tận và biết chơn thiệt. Do có đủ
bốn thứ trí ấy mà đại Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh hướng đến Vô
thượng Bồ đề. Ðây gọi là Phật Anh Lạc Trang Nghiêm đà la ni.
Nầy thiện nam tử ! Tám môn đà la ni ấy phần của nó vô
lượng, trong vô lượng phần nầy đem một phần chia làm ngàn phần, trong ngàn
phần ấy chỉ nói một phần còn chẳng thể cùng tận. Các đà la ni ấy thành tựu
vô lượng công đức như vậy”.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ
Tát nói tụng rằng :
Như Lai nói tám đà la ni
Nếu đại Bồ Tát có được rồi
Hiểu được các nghĩa của khế kinh
Cú nghĩa từ chẳng thể cùng tận
Ðầy đủ nghiệp lành được diệu thanh
Hay khiến vô lượng thế giới nghe
Chúng sanh nghe rồi tu pháp lành
Tu rồi chứng được chơn giải thoát
Vô lượng kiếp nói một pháp Vô
Nhơn một pháp Vô nói vô tận
Cũng do một chữ hiểu nhiều nghĩa
Ðây gọi Phật nói tế tổng trì
Thế Tôn Pháp Vương dứt hai tế
Thuyết pháp đạo nghĩa vô biên tế
Có trí huệ bình đẳng quan sát
Dầu thành tổng trì không người được
Hình sắc bốn phương hiện trong biển
Tất cả tự ấn ấn Bồ Tát
Lúc thuyết pháp không có chướng ngại
Thành tựu Ðại Hải đà la ni
Ngồi tòa liên hoa diễn thuyết pháp
Cũng mưa liên hoa rải đại chúng
Liên hoa cũng nói vô lượng pháp
Ðây là liên hoa đà la ni
Nói một chữ không có chướng ngại
Nói vô lượng chữ cũng vô ngại
Nói vô lượng nghĩa không có trệ
Ðây gọi Vô Ngại đà la ni
Nói pháp nghĩa sâu không cùng tận
Từ và lạc thuyết cũng vô biên
Hay phá chúng sanh lưới tâm nghi
Chứng được vô thượng trí tổng trì
Ðảnh kế thường hiện tượng Như Lai
Thân khẩu ý cùng Phật không khác
Nếu có tổng trì thứ tám ấy
Cùng kiếp khen nói chẳng hết được
Ðầy đủ tám tổng trì như vậy
Thế gian chẳng nhiễm như hoa sen
Thế gian cao nhứt như Tu Di
Chẳng thể đếm kể cũng như vậy
Tà luận chẳng động hay phá tà
Bồ Tát có đủ tổng trì nầy
Hay phá đạo các tà kiến
Như tiếng rống sư tử giữa rừng
Nếu được Vô thượng đà la ni
Hay đạt thế gian hạnh thanh tịnh
Hay tăng vô lượng các pháp lành
Cũng hay giáo hóa các chúng sanh
Có đủ đà la ni như vậy
Hay phá chúng sanh tối vô minh
Làm ánh sáng lớn như mặt trời
Cũng hay phá trừ những đen tối
Thuyết pháp vô ngại như hư không
Vì chúng mà đi như gió mạnh
Ban bố thuốc pháp trừ phiền não
Như thầy thuốc hay chữa lành bịnh
Nếu có đủ Vô thượng tổng trì
Ai khen công đức chẳng thể hết
Hay làm mát sáng như trăng thu
Tăng trưởng pháp lành cũng như vậy
Bồ Tát chứng được tổng trì nầy
Hay độ vô lượng các chúng sanh
Nếu đủ tám đà la ni nầy
Ðược đại tự tại như Thiên Vương
Hay độ chúng sanh hướng Ðại thừa
Hay ban pháp tài phá bần cùng
Hay mưa pháp vũ như Long Vương
Phá nát phiền não như mưa đá
Nếu được tám đà la ni nầy
Hay độ chúng sanh đến Bồ đề
Không nói lỗi được như Ðế Thích
Chữ nghĩa vô tận như hư không
Nếu được thành tựu đà la ni
Tất cả đại chúng thích thấy nghe
Tâm ý chẳng tán thường tại định
Tu tập vô lượng tâm từ bi
Phạm hạnh thanh tịnh hiện thần thông
Bốn vô lượng như Ðại Phạm Vương
Nếu được thành tựu đà la ni
Liền hay cúng dường mười phương Phật
Nhìn xem thấy rõ mười phương cõi
Nơi thế giới ấy độ chúng sanh
Nếu được đủ đà la ni nầy
Liền được đầy đủ Phật công đức
Thường được mười phương Phật hộ niệm
Cũng như cha mẹ nhớ con một
Nếu Bồ Tát được tổng trì nầy
Hay khen Phật công đức vô lượng
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Hay hiểu chúng sanh tâm sở hành
Nếu được thành tựu đà la ni
Không còn kiêu mạn và xan tham
Giỏi biết phương tiện dạy chúng sanh
Tu tập từ bi phá phiền não
Thành tựu được đà la ni nầy
Phiền não chẳng nhiễm như hư không
Hiểu rõ chúng sanh lời tùy ý
Cũng hay tùy ý diễn thuyết pháp
Nếu có đủ đà la ni nầy
Hay biết rõ căn của chúng sanh
Hay hiểu chỗ hiểu của chúng sanh
Theo chúng sanh hiểu mà thuyết pháp
Theo môn đối trị vì họ nói
Ba mươi bảy phẩm dạy chúng sanh
Ðược có tám đà la ni nầy
Tu tập vô biên xa ma tha
Ðược có tám đà la ni nầy
Ðủ sáu Ba la mật như Phật
Biết rõ tất cả giới phiền não
Thông đạt tịch tĩnh phiền não dứt
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Hành trụ tọa ngọa đều tịch tĩnh
Ðược thành tựu tám đà la ni
Không còn phiền não các tập khí
Ðược pháp thân thanh tịnh vô biên
Chẳng phải bị sanh thường hóa sanh
Thân khẩu ý theo trí huệ hành
Bao nhiêu định niệm cũng theo trí
Thành tựu được đà la ni nầy
Không ai tán thán cùng tận được.
Lúc bấy giờ, đức Như Lai Thế
Tôn khen Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát: « Lành thay, lành thay !
Nầy thiện nam tử
! Từ lâu ông đã được đà la ni nầy hay phân biệt giải nói bao nhiêu nghĩa
vô lượng công đức.
Chẳng phải chỉ có
hôm nay, mà đã ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ cũng phân biệt giải nói như
vậy.
Nầy thiện nam tử !
Quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Tịnh Quang Minh Như
Lai, thế giới ấy tên Tịnh Kiếp cũng tên là Tịnh Thuần, thế giới ấy bằng
tịnh lưu ly làm thành như gương sáng, mặt đất bằng phẳng, bao nhiêu rừng
cây toàn bằng thất bửu, có hoa sen diệu bửu lớn như bánh xe, hoa sen ấy
thanh tịnh tươi sáng ai thấy đều thích. Nhơn dân cõi ấy đều ở lâu các điện
đường bằng thất bửu không khác cõi trời, đã lần nhẹ mỏng lòng tham sân si.
Cõi ấy không có mặt nhựt mặt nguyệt chỉ có ánh sáng của đức Phật. Hoa sen
sanh nở thì biết là đêm, hoa sen đỏ nở thì biết là ngày. Ðại Bồ Tát Tăng
có sáu trăm vạn ức, người xuất gia đông nhiều không thể kể đếm, tất cả đều
có chí nguyện Vô thượng Ðại thừa. Thế giới ấy không có tên Nhị thừa, tất
cả đều là bực Bồ Tát bất thối chuyển. Ðức Phật Tịnh Quang Minh thọ đủ nửa
kiếp, người và chư Thiên đồng nhau không khác, ở đất thì là người, còn ở
hư không là trời, không có vua chúa, chỉ có Phật là vị Pháp Vương Vô
Thượng. Nhơn dân cõi ấy không có ai tôn thờ hay quy y với chư Thiên tà
thần, cũng không có danh từ nữ nhơn và phá giới. Tất cả đều đủ ba tụ giới,
đó là theo Chánh giới, theo định giới và theo huệ giới. Phát tâm Vô thượng
Bồ đề nhàm chán sanh tử, đây gọi là theo chánh giới, tu tam muội huệ đây
gọi là theo định giới, tu tập trí huệ được đại trí huệ đây gọi là theo huệ
giới”.
Trong đại chúng ấy
có một Bồ Tát hiệu là Quang Ðảnh lễ Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp
tay bạch rằng : " Bạch đức Thế Tôn !
Nói đà la ni ấy, thế nào gọi là
đà la ni. Bồ Tát an trụ trong đà la ni nào thì có thể thọ trì tất cả danh
hiệu của chư Phật rồi vì các chúng sanh mà phân biệt giải nói ».
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai
nói: « Nầy Quang Ðảnh ! Có đà la ni tên là Bửu Cự, Bồ Tát an trụ trong ấy
thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của chư Phật rồi vì chúng sanh mà phân
biệt giải nói tùy theo các thứ ngữ ngôn của các loại chúng sanh ».
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng:
« Bạch đức Thế Tôn ! Xin phân biệt nói rộng đà la ni Bửu Cự ấy. Chúng tôi
nghe rồi sẽ thọ trì tu tập ».
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai
nói: « Lành thay lành thay ! Ông chí tâm lắng nghe. Phật sẽ vì ông mà phân
biệt giải nói ».
Ðức Tịnh Quang Minh Như Lai nói
kệ rằng:
Xa lìa tất cả các phiền não
Thanh
tịnh vô cấu như bửu châu
Tâm ấy hay làm đại quang minh
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch
tĩnh
Dường như trăng thu rất sáng
sach
Tu tập đại từ tâm bình đẳng
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Tâm ấy không có các giác quán
Ðều được xa lìa hai kiến chấp
Chẳng phải có tưởng không có
tưởng
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu đầy đủ niệm ý huệ
Hay nhập vô thượng đại pháp môn
Thanh tịnh vô cấu như hư không
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Xa lìa ba loại trần lao nhơ
Thành tựu ba thứ thanh tịnh huệ
Ðã được giải thoát cả ba cõi
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Ðã hay phá hoại tham sân si
Cũng xa lìa được phiền não
trược
Trừ được vô minh các tà ám
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Chúng sanh âm thanh thượng
trung hạ
Tất cả đều hay biết rành rẽ
Hay theo ý chúng mà thuyết pháp
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Ðầy đủ thậm thâm vô lượng nghĩa
Tất cả chữ câu cũng đầy đủ
Xa lìa chấp ngã và ngã sở
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Ðầy đủ thành tựu pháp Tứ y
Cũng thành đủ bốn trí vô ngại
Tâm ấy thường ở trong Tứ thiền
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Hay rộng phân biệt đệ nhứt nghĩa
Ðầy đủ được toàn bốn Phạm hạnh
Tu tập đầy đủ ngũ thần thông
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thọ trì chuyên nhớ Tứ niệm xứ
Tinh tiến tu tập Tứ chánh cần
Trang nghiêm thành tựu Tứ như ý
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu ngũ căn và ngũ lực
Tà phong chẳng động hay phá tà
Tu tập vô thượng Thất giác phần
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Thành tựu Ðịnh Huệ đủ hai cánh
Liệng bay tự tại Bát chánh đạo
Hướng đến vô thượng trí giải thoát
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Hay đi trên đường Bồ Tát đi
An trụ vô thượng chơn giải thoát
Dứt hẳn tất cả phiền não tập
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay làm vô lượng đại quang minh
Dường như thế gian mặt nhựt nguyệt
Hay tịnh ba thứ thanh tịnh nhãn
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Hay sạch tất cả các phiền não
Cũng hay xa lìa các ma nghiệp
Quán xét tội lỗi ham ngũ ấm
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
Giỏi biết điều phục các chúng sanh
Lìa hẳn nhơn duyên của sáu căn
Vì chúng thuyết pháp cho được niệm
Ðây tên Bửu Cự đà la ni
An trụ như vậy đà la ni
Hay đến mười phương Phật thế giới
Thấy Phật chí tâm nghe thọ pháp
Cũng hay nói rộng pháp như vậy
Ðã nghe pháp rồi chí tâm trì
Hay vì chúng sanh nói tự nghĩa
Do nơi nhơn duyên sức niệm lớn
Hay hiểu chư Phật lời vi diệu
Hay nói vô thường khổ vô ngã
Các pháp đều từ duyên được quả
Quán sát tỏ rõ các pháp giới
Ðây gọi Bửu Cự đà la ni
Thành tựu lạc thuyết vô ngại trí
Tam minh tam huệ cũng thành tựu
Nếu ai an trụ tổng trì nầy
Thì hay nhập được nghĩa giải thoát
Phật nói vô lượng đà la ni
Ðều đến nhiếp vào tổng trì nầy
Nếu được như vậy đà la ni
Gọi là thành tựu vô lượng trì
Nếu nhập vô lượng các thiền định
Và được vô lượng các thần thông
Ðều do sức tổng trì như đây
Nên hiệu vua trong các tổng trì
Như bốn đại hải không chướng ngại
Tất cả sông suối đều chảy vào
Các dòng chánh pháp cũng như vậy
Thảy đều về tự tổng trì nầy
Ðược thân vô biên ý vô tận
Hay rộng phân biệt nói pháp giới
Thành tựu vô lượng các công đức
Mới hay được đây đà la ni
Nếu được vi diệu tổng trì nầy
Thì được tướng tốt ba mươi hai
Sắc thân thù thắng thượng chủng tánh
Của cải nhiều dư được vô sanh
Hay rộng phân biệt các pháp nghĩa
An trụ bất động bất thối địa
Ðều do được đà la ni nầy
Bồ Tát nếu muốn tu Bồ đề
Nên tu như vậy đà la ni
Ðược tổng trì rồi tu đạo tràng
Hay diễn thuyết pháp độ chúng sanh
Trong vô lượng kiếp lúc thuyết pháp
Hai thứ tự nghĩa chẳng thể hết
Hay sạch chúng sanh các phiền não
Do được như vậy đà la ni
Hay chuyển vô thượng chánh pháp luân
Hay làm chúng sanh thoát các khổ
Hay đưa chúng sanh vô thượng đạo
Do được như vậy đà la ni
Nếu có chúng sanh ngàn muôn miệng
Một miệng có đủ ngàn muôn lưỡi
Nói chẳng hết vô lượng công đức
Của Bồ Tát trụ tổng trì nầy
Lúc Tịnh Quang Minh Như Lai nói pháp ấy,
Quang Ðảnh Bồ Tát cùng ba vạn hai ngàn Bồ Tát đều chứng được Bửu Cự đà la
ni.
Nầy Ðà La Ni Tự Tại Vương ! Ông có biết thuở
xa xưa Quang Ðảnh Bồ Tát là ai chăng, chính là thân ông hiện nay. Vì vậy
mà hôm nay ông có thể rộng phân biệt đà la ni nầy. Trong pháp hội đây,
người được đà la ni nầy, ông là người hạng nhứt vậy.
Bấy giờ trong pháp hội có một Bồ Tát hiệu Huệ
Tự bạch Phật rằng: « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát được Bửu Cự đà
la ni, được rồi chẳng mất có thể dùng pháp ấy điều phục chúng sanh ? ».
Ðức Phật bảo Huệ Cự Bồ
Tát: « Nầy thiện nam tử ! Nếu có Bồ Tát an trụ huệ căn tạo tác huệ nghiệp.
Bồ Tát như vậy có thể được Bửu Cự đà la ni, được rồi chẳng mất và hay dùng
pháp ấy điều phục các chúng sanh ».
Huệ Tự Bồ Tát lại bạch đức
Phật: « Lành thay đức Thế Tôn ! Xin nói rộng thế nào là huệ căn và thế nào
là huệ nghiệp ».
Ðức Phật phán bảo: « Lành thay
lành thay !
Nầy thiện nam tử !
Ông nên lắng nghe kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Nầy thiện nam tử !
Nếu có thiện nam thiện nữ chưa được trí huệ mà được nghe đó, đây gọi là
căn, nghe rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Dùng huệ quán các pháp thì
gọi là căn, quán rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp.
Lúc đầu quán thiện
căn thì gọi là căn, quán rồi cộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Quán bất
phóng dật thì gọi là căn, quán rồi đem dạy lại thì gọi là nghiệp. Ðiều
phục tự tâm thì gọi là nghiệp. An trụ tịch tĩnh thì gọi là căn, thanh tịnh
thân khẩu ý thì gọi nghiệp. Biết rõ nhứt thừa thì gọi là căn, vì chúng
sanh diễn nói thì gọi là nghiệp. Tu xa ma tha thì gọi là căn, có đủ ba thứ
huệ thì gọi là nghiệp. Tu tập ba môn giải thoát thì gọi là căn, chứng được
ba thứ huệ thì gọi là nghiệp. Tu Tứ niệm xứ thì gọi là căn, chẳng niệm
nơi niệm thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ chánh cần thi gọi là căn, lìa tánh
phiền não thì gọi là nghiệp. Tu tập Tứ như ý túc thi gọi là căn, biết
không có như ý thi gọi là nghiệp. Tu tập tín tâm thi là căn, phóng xả tất
cả thì gọi là nghiệp. Tu vô sở úy thì gọi là căn, hay nói rộng đó thì gọi
là nghiệp. Tu tập
Tam muội thì gọi là căn, biết chánh định thứ đệ thi gọi
là nghiệp. Tu tập trí huệ thì gọi là căn, biết rõ tất cả pháp thì gọi là
nghiệp. Trang nghiêm Bồ đề thì gọi là căn, lúc chứng được Bồ đề thì gọi là
nghiệp. Chứng Khổ Tập Ðạo đế thì gọi là căn, lúc chứng diệt đế thì gọi là
nghiệp. Chẳng y bất liễu nghĩa thì gọi là căn, y kinh liễu nghĩa thì gọi
là nghiệp. Ban đầu nghe thọ chánh pháp thì gọi là căn, y chỉ nơi người thì
gọi là nghiệp. Chẳng y nơi người thì gọi là căn, y chỉ chánh pháp thì gọi
là nghiệp. Thấy pháp vô thường thì gọi là căn, thấy pháp vô sanh vô diệt
thì gọi là nghiệp. Biết các pháp khổ thì gọi là căn, biết pháp vô tác thì
gọi là nghiệp. Biết pháp vô ngã thì gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh
thì gọi là nghiệp. Biết Niết bàn thanh tịnh thì gọi là căn, biết pháp vốn
thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Nghe chơn pháp chẳng sợ thì gọi là căn, y
chỉ chơn pháp thì gọi là nghiệp. Biết chữ chẳng sợ thì gọi là căn, biết
rồi thích nói thì gọi là nghiệp. nghe nói trí lực của vô ngại của Như Lai
mà chẳng sợ thì gọi là căn,, y chỉ trí lực vô ngại của Như Lai thì gọi là
nghiệp. Chúng sanh duyên từ bi và pháp tánh duyên từ bi hai duyên ấy gọi
là căn, vô duyên từ bi thì gọi là nghiệp. Thương xót chúng sanh thì gọi là
căn, hay làm cho chúng sanh thoát khổ thì gọi là nghiệp. Tư duy thiện pháp
được mừng gọi là căn, chẳng trụ trước nơi pháp thì gọi là nghiệp. Không có
ái tham, sân hận và ngu si thì gọi là căn, không có nhứt không có hai thì
gọi là nghiệp. Niệm Phật gọi là căn, niệm Pháp thân thì gọi là nghiệp.
Niệm Pháp gọi là căn, biết Pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Niệm
Tăng gọi là căn, biết Tăng vô vi thì là nghiệp. Niệm giới gọi là căn, biết
không có người trì giới gọi là nghiệp. Niệm bố thí thì gọi là căn, hay bỏ
phiền não thì gọi là nghiệp. Niệm thiên gọi là căn, được thanh tịnh thiên
thì gọi là nghiệp. Nghe chánh pháp rồi tư duy thì gọi là căn, chẳng nhiễm
trước thế gian thì gọi là nghiệp. Biết trước không có hiện nay làm ra thì
gọi là căn, biết không có tạo tác không có lãnh thọ thì gọi là nghiệp.
Biết tên Niết bàn thì gọi là căn, được đại giải thoát thì gọi là nghiệp.
Tự tại gọi là căn, tự lợi lợi tha thì gọi là nghiệp. Thọ trì tám vạn bốn
ngàn pháp môn thì gọi là căn, thông đạt nghĩa của các pháp môn ấy thì gọi
thì gọi là nghiệp. Hay diễn thuyết pháp thì gọi là căn, hiểu vô minh
v.v... thì gọi là nghiệp. Khuyến hóa các chúng sanh hướng đạo Bồ đề thì
gọi là căn, khuyến tu trí huệ phương tiện bất thối thì gọi là nghiệp.
Chẳng sơ các cõi thì gọi là căn, nguyện sanh vào các cõi thì gọi là
nghiệp. Từ nơi nghe chánh pháp mà đắc nhẫn thì gọi là căn, do tư duy mà
đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Tùy ý đắc nhẫn thì gọi là căn, nhơn bất sanh
mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Còn dư một đời thì gọi là căn, thân tối hậu
thì gọi là nghiệp. Ngồi dưới Bồ đề thọ thì gọi là căn, giác ngộ tất cả
pháp thì gọi là nghiệp ».
Lúc đức Thế Tôn nòi rộng về huệ căn và huệ nghiệp, tất
cả mười phương chư Phật thế giới đến đại bửu phường đinh nầy đều chấn động
sáu cách.
Huệ Tụ đại Bồ Tát bạch đức Phật: « Bạch đức Thế Tôn !
Có nhơn duyên gì mà mười phương thế giới và cả hư không cùng thất bửu đại
phường đình nầy đều chấn động sáu cách như vậy ? ».
Ðức Phật phán dạy: « Nầy Huệ Tụ ! Vì huệ căn và huệ
nghiệp nầy cũng được diễn nói nơi chư Phật quá khứ nên có sáu cách chấn
động như vậy ».
Bấy giờ Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí Bồ Tát bạch đức Phật:
« Bạch đức Thế Tôn ! Có nhơn duyên gì mà Huệ Tụ đại Bồ Tát có tên là
Tụ ? ».
Ðừc Phật phán dạy: « Nầy Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí ! Thuở
quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Công Ðức Tạng Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thế giới ấy
tên Thiện Sanh, kiếp ấy tên Vô Cấu, tất cả chúng sanh cõi ấy đều thuần
thiện. Phật Công Ðức Tạng có ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát chúng, tám vạn bốn
ngàn Thanh Văn chúng. Phật Công Ðức Tạng muốn thử chư vị Bồ Tát với trăm
ức sự hỏi rằng các thiện nam tử ! Trong chúng có ai hiểu và nói được các
nghĩa như vậy ? Trong chúng có Bồ Tát bạch rằng tôi sẽ tư duy trong một
thánh mới có thể hiểu được, hoặc có Bồ Tát bạch nửa tháng, hoặc bảy ngày,
hoặc một ngày một đêm tư duy mới có thể hiểu được. Lúc ấy có một Bồ Tát
tên Niệm Ý bạch Phật rằng: « Nay tôi chẳng rời chỗ ngồi nầy liền có thể
hiểu nghĩa ấy. Bạch Phật xong, Bồ Tát Niệm Ý khởi sư tử hống làm cho đại
địa chấn động sáu cách phóng đại quang minh khuyến cáo các địa thần cho
đến Trời Sắc Cứu Cánh tất cả đều đến tập họp nơi đức Phật Công Ðức Tạng.
Chỗ ngồi của đại chúng lúc bấy giở rộng đủ trăm vạn do tuần. Niệm Ý Bồ Tát
thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền dùng thần thông lực, trí huệ niệm
lực, đà la ni lực, tứ vô ngại lực, vô sở úy lực, Phật thần lực trong trăm
ức sự, mỗi mỗi sự giải nói trăm ức nghĩa, không tư duy trước không có đình
trệ. Niệm Ý Bồ Tát nói nghĩa ấy rồi, trong đại chúng có sáu vạn chúng sanh
phát tâm vô thượng Bồ đề, bốn vạn chúng sanh đắc vô sanh nhẫn. Tứ chư địa
thần, chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh , tất cả đều nghe tiếng Niệm Ý Bồ
Tát thuyết pháp.
Nầy Cụ Túc tứ Vô Ngại Trí ! Ông có biết thuở quá khứ xa
xưa ấy Niệm Ý Bồ Tát là aì chăng ?Chính là Huệ Tụ Bồ Tát đây vậy. Do nhơn
duyên như vậy mà Bồ Tát có tên là Huệ Tụ ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
Vì nghe thuyết pháp gọi là căn
Hay diễn thuyết pháp gọi là
nghiệp
Tư duy pháp lành gọi là căn
Hiểu nói thâm nghĩa gọi là
nghiệp
Như pháp mà ở gọi là căn
Theo nghĩa thuyết pháp gọi là
nghiệp
Tu xa ma tha gọi là căn
Ðủ ba thứ huệ gọi là nghiệp
Bốn thứ niệm xứ gọi là căn
Pháp tứ chánh cần gọi là nghiệp
Tín tiến niệm đinh huệ là căn
Năm thứ đắc lực gọi là nghiệp
Thất Bồ đề phần gọi là căn
Bát chánh đạo phần gọi là
nghiệp
Chẳng y chỉ tự cú là căn
Y chỉ nơi nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ người gọi là căn
Y chỉ chánh pháp gọi là nghiệp
Chẳng y bất liễu gọi là căn
Y kinh liễu nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y nơi thức gọi là căn
Y chỉ trí huệ gọi là nghiệp
Biết rõ vô tác gọi là căn
Thông đạt vô sanh gọi là nghiệp
Sanh pháp hai duyên từ là căn
Từ bi vô duyên gọi là nghiệp
Vô sở úy pháp gọi là căn
Hay tuyên chánh pháp gọi là
nghiệp
Sáu chánh niệm xứ gọi là căn
Nghĩa của lục niệm gọi là
nghiệp
Hay tự lợi ích gọi là căn
Tự lợi lợi tha gọi là nghiệp
Thọ trì chánh pháp gọi là căn
Hay vì người nói gọi là nghiệp
Còn dư lại một đời là căn
Tối hậu thân thì gọi là nghiệp
Nếu tâm Bồ Tát được bất thối
Thì hay biết rõ huệ căn nghiệp
Có thể chứng được vô sanh nhẫn
Có thể mở cửa đại Bồ đề.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát bạch Phật: « Bạch đức
Thế Tôn ! Pháp được đức Phật nói chẳng thể nghĩ bàn, Vô thượng Bồ đề cũng
chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì chẳng phải là danh tự để nói, vì chẳng
nhiếp thuộc danh tự, vì pháp được Như Lai nói vô lượng vô biên, vì nhập
vào vô lượng vô biên pháp môn, vì thập nhị nhơn duyên rất sâu khó hiểu, vì
kẻ chấp thấy hai pháp thì chẳng biết được, vì người lợi trí lần lần biết,
vì chẳng phải lục tình chỗ biết được, vì chẳng phải cảnh giới của trí huệ
Nhị thừa.
Bạch đức Thế Tôn ! Vô thượng Bồ đề như vậy đều là ấn
của tất cả pháp, chẳng thể tạo tác được như hư không, rời lìa nhà cửa nên
chẳng phải nhà cửa, biết tất cả hành cũng biết tất cả nhơn quả của tất cả
chúng sanh. Nhứt thiết trí rộng lớn vô biên, trang nghiêm tất cả vô lượng
pháp lành, hay vì pháp lành mà làm bát đựng thần thông để hiển bày cho
người, với người ở nhị đạo dạy cho vô nhị, dạy cho hiểu chư Phật bình đẳng
vô sai biệt, không có tự không có nghĩa chẳng thể tuyên nói được, chẳng
thể lắng nghe được, hay dạy chúng sanh khối chánh Tam bửu và ba môn giải
thoát, giải thoát ba cõi dạy cho ba thứ huệ, do kim cương định an trụ tất
cả chánh pháp chư Phật, nghe trọn tất cả chư Phật trí huệ, lợi ích tất cả
chúng sanh, cũng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có thiện nam thiện nữ có thể tán
thán Bồ đề Vô thượng có bao nhiêu công đức như vậy được nghe kinh điển Ðại
thừa phương đẳng nầy, hay thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói, thì gọi
người ấy là có thể báo được ơn chư Phật ».
Ðức Phật phán dạy: « Ðúng như vậy, nầy Ðà La Ni Tự Tại
Vương. Như lời ông đã nói được vô lượng công đức.
Nầy thiện nam tử ! Ðem thất bửu đầy cả mười phương thế
giới chư Phật dâng hiến lên Như Lai được công đức cùng người hay thọ trì
kinh nầy và đọc tụng biên chép giải nói nghĩa kinh được công đức đồng nhau
không khác”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo chư Bồ Tát : " Chư thiện nam tử
! Trong đại chúng đây, sau khi Phật diệt độ, ai có thể hộ trì Vô thượng Bồ
đề như vậy, và rộng nói nghĩa cho chánh pháp còn ở thế gian được lâu”.
Bấy giờ trong pháp hội đại chúng có chư Bồ Tát và chư
Thiên chư Nhơn đều riêng sáu vạn ức đồng thanh bạch Phật : "Sau khi đức
Như Lai Thế Tôn diệt độ, chúng tôi có thể hộ trì Vô thượng Bồ đề như vậy
và rộng nói nghĩa cho chánh pháp được còn lâu. Nguyện cầu đức Như Lai Thế
Tôn gia hộ nguyện lực cho”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng :
Nếu ta thiệt đồng thập phương
Phật
Qua bản sanh tử biển khổ lớn
Công đức vô thượng pháp như vậy
Ðáng phải còn lâu không diệt
mất
Nếu ta vô lượng đời tu từ
Chơn thiệt vì lợi các chúng
sanh
Xem chúng bình đẳng không có
hai
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu ta có đủ hai trang nghiêm
Trong vô lượng đời lợi chúng
sanh
Ðem hai trang nghiêm độ chúng
sanh
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu hay phá hoại phiền não kiết
Và cũng trừ diệt các tà kiến
Ðầy đủ tất cả các pháp lành
Nên hay giỏi phát nguyện lực
nầy.
Nầy chư thiện nam tử ! Chẳng riêng gì các đại chúng tất
cả Trời Người tất cả Ma Phạm đây, sau khi ta diệt độ đều có thể hộ trì
chánh pháp như vậy. Nầy chư thiện nam tử ! Hư không có thể làm hình sắc,
hình sắc có thể làm hư không, thần thông nguyện lực của Phật không thể làm
khác được.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương xướng lên rằng : " Nếu có người,
sau khi đức Phật diệt độ, có thể thọ trì đọc tụng biên chép kinh nầy và
giải nói nghĩa kinh, chúng tôi sẽ thường theo dõi để thủ hộ”.
Chư Phạm Thiên nói : " Chúng tôi sẽ xả thiền định diệu
lạc để thủ hộ người ấy”.
Trời Ðâu Suất Ðà cũng nói : " Chúng tôi sẽ thủ hộ các
đệ tử thọ trì kinh nầy”.
Ma Vương Ba Tuần bạch đức Phật : "Bạch đức Thế Tôn !
Nếu có người hay thọ trì kinh nầy thì tôi ở nơi người ấy trọn không gây ma
nghiệp ma sự”.
Công Ðức Tạng Thiên Tử nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tất cả
chư Phật Vô thượng Bồ đề đều ở trong kinh nầy. Nếu có người hay thọ trì
đọc tụng biên chép giải nói, nên biết người nầy sẽ được Bồ đề”.
Di Lặc Bồ Tát nói : "Bạch đức Thế Tôn ! Tôi sẽ ở tại
Trời Ðâu Suất Ðà rộng tuyên nói kinh điển vô thượng nầy”.
Tôn giả Ðại Ca Diếp nói : " Bạch đức Thế Tôn ! Hàng
Thanh Văn tôi trí huệ dầu kém cũng cần phải theo sức của mình mà thọ trì
đọc tụng tuyên nói nghĩa kinh nầy”.
Tôn giả A Nan bạch rằng : "Bạch đức Thế Tôn ! Tôi ở nơi
kinh nầy chơn thiệt thọ trì chẳng để mất một chữ một câu như từ miệng đức
Phật phát ra không sai khác. Nếu có người phát tâm Bồ đề, tôi sẽ vì người
ấy mà diễn nói rộng”.
Ðức Phật phán rằng : " Lành thay, lành thay, nầy chư
thiện nam tử ! Các ông đều có thể sau khi ta diệt độ hộ trì chánh pháp
chẳng cho dứt mất.
Nầy chư thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh cầu pháp Ðại
thừa chưa được pháp nhẫn mà thọ trì kinh nầy, nên biết người nầy chẳng quá
bảy đức Phật sẽ được thọ ký. Nếu là người Thanh Văn mà hay thọ trì kinh
nầy, lúc Di Lặc xuất thế thành Phật, thì người ấy sẽ ở trong pháp hội đầu
tiên.
Nếu là hàng Duyên Giác mà có người thọ trì kinh nầy,
sau khi ta diệt độ, thì người ấy sẽ được thành đạo chúng”.
Lúc đức Thế Tôn nói pháp nầy , vô lượng chúng sanh phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sanh thành tựu pháp
nhẫn, vô lượng thế giới chấn động sáu cách.
Chư Bồ Tát từ mười phương thế giới đến dự pháp hội mang
hương hoa tốt và các loại kỹ nhạc phan lọng dâng cúng đức Phật đều xướng
lên rằng : "Chúng tôi đến trong thất bửu đại phường đình nầy được lợi ích
lành rất lớn, nếu chúng tôi mà có chút ít phước đức, nguyện đem phước lực
ấy làm cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở lại lâu thế gian, kinh điển nầy lưu
bố khắp mười phương thế giới không hề hư mất. Nếu có hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà
Di thọ trì kinh nầy, thì làm cho họ xa lìa ưu sầu sợ sệt không có các bịnh
khổ”.
Ðà La Ni Tự Tại Vương đại Bồ Tát nói: « Bạch đức Thế
Tôn ! Chỗ thuyết pháp hôm nay vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, tất cả
tà pháp chẳng thể lay động được, đây là căn bổn của tất cả pháp lành, là
căn bổn của tam thừa, lại là cửa vào của tất cả pháp.
Nếu có chúng sanh hỏi pháp nầy tên gọi là gì và thọ trì
thế nào, thì sẽ đáp họ thế nào, xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho”.
Ðức Phật phán bảo : " Nầy thiện nam tử ! Ðây gọi là
đại bi nói pháp đại bi tên là Như Lai nghiệp
thọ ký cho Bồ Tát. Các ông phải thọ trì như vậy”.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi,
tất cả đại chúng Trời Người vui mừng đảnh đời tin thọ phụng hành.
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ
TÁT
THỨ NĂM MƯƠI MỐT
HẾT TẬP VII
--- o0o ---