× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 4: Phẩm Như Lai Bất Tư Nghị Tánh Thứ Tư 2

Mười sự rất hy kỳ bất tư nghị ấy đều do hạnh nghiệp đời trước của đức Như Lai thành tựu. Tại sao? Vì đức Như Lai khéo thông đạt pháp giới. Do vì thông đạt nên đức Như Lai nhập chánh định ấy, y cứ tâm chánh định ấy mà thọ lạc bất thối. Dầu trải đến hằng sa đại kiếp, đức Như Lai cũng vẫn chưa từng khởi xuất tâm chánh định. Y nơi tâm chánh định ấy, trong khoảng thời gian một bữa ăn, đức Như Lai trụ một kiếp ngàn kiếp đến trăm kiếp hoặc trăm kiếp ngàn kiếp đến trăm ngàn câu chi kiếp, hoặc nhiều hơn số kiếp trên. Tại sao? Vì đức Như Lai đã thành tựu Thiền ba la mật đệ nhứt vậy. Do vì đã thành tựu nên đức Như Lai có đủ đại thần lực như vậy, có đủ oai đức lực như vậy, có đủ đại tông thế lực như vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Như các Thiên Tử Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ sanh thức của họ duyên một cảnh đến tám vạn bốn ngàn kiếp, chừng nào mà thọ mạng chánh định chưa dứt, sanh thức của họ chẳng bị cảnh giới thức khác di chuyển.

Nầy Xá Lợi Phất! Các Thiên Tử ấy do sức chánh định thế gian mà còn được an trụ trong thời gian như vậy, huống là Thiền ba la mật của đức Như Lai mà lại không an trụ lâu.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai từ đêm mới chứng Vô thượng Bồ đề nhẫn đến đêm nhập vô dư Niết Bàn giới, trong khoảng thời gian giữa ấy, tâm của đức Như Lai chưa có lúc nào khởi xuất chánh định. Vì thế nên gọi chánh định ấy là tâm không hồi chuyển, là tâm không sở hành, là tâm không quan sát, là tâm không động lự, là tâm không lưu đảng, là tâm không nhiếp tụ, là tâm không tán loạn, là tâm không cao cử, là tâm không trầm hạ, là tâm không phòng hộ, là tâm không phù tàng, là tâm không hân dũng, là tâm không vi nghịch là tâm không ủy tụy, là tâm không động dao, là tâm không kinh hỷ, là tâm không hôn trầm, là tâm không phân biệt, là tâm không dị phân biệt, là tâm không biến phân biệt.

Lại chánh định ấy là tâm chẳng theo thức, là tâm chẳng y nhãn là tâm chẳng y nhĩ tỷ thiệt thân ý, là tâm chẳng y sắc, là tâm chẳng y thanh hương vị xúc pháp, là tâm chẳng đến các pháp, là tâm chẳng rời trí, là tâm chẳng quan niệm quá khứ, chẳng quan niệm vị lai, chẳng quan niệm hiện tại.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai an trụ trong chánh định, tâm rời lìa như vậy không có một pháp nào là có thể được, mà ở trong tất cả pháp phát sanh sự thấy biết vô ngại. Tại sao? Vì là công dụng vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chẳng khởi xuất chánh định rời lìa tâm ý thức mà hay làm các Phật sự. Tại sao? Vì là công dụng vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát ấy nghe giới bất tư nghị và chánh định của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Vô lượng vô đẳng trăm ngàn kiếp

Ở trong các loài tu giác hạnh

Giới văn định nhẫn bất phóng dật

Đạo Sư hay tu nhơn diệu giác

Nghiệp quả tối thắng rất thanh tịnh

Tịnh giới quảng diệu vượt các cõi

Giới đức của Phật như hư không

Thanh tịnh không nhơ dường hư không

Từ đêm Phật mới chứng Bồ đề

Đến đêm Phật nhập đại Niết Bàn

Tâm Phật không hành không duyên khác

Chưa bao giờ khởi xuất đại định

Giới tụ của Phật không thối thuyết

Giải thoát thần lực cũng như vậy

Trụ chánh định trải vô lượng kiếp

Đức Phật không tư cũng không tưởng

Trí Phật như không chẳng nghĩ tưởng

Vô duyên minh đạt chiếu ba đời

Không tâm ý thức không cải biến

Chỉ có Bồ Tát tin nhận được”.

Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với thần lực bất tư nghị của đức Như Lai tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hỳ kỳ?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai được thần thông chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể tuyên nói. Nay sẽ vì ông mà phương tiện khai triển.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai thường nói trong chúng Thanh Văn của đức Phật, người được thần thông thì Trưởng Lão Đại Mục Kiền Liên là đệ nhứt.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu đem thần thông ấy để so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của hàng Thanh Văn mà bằng được thần thông của Bồ Tát. Lại nếu đem so sánh thì chẳng thấy có thần thông nào của Thanh Văn và của Bồ Tát mà bằng được thần thông của Phật. Đây gọi là thần thông bất tư nghị của đức Như Lai.

Chư đại Bồ Tát vì muốn được thần thông của Phật càng phải phát khởi thượng phẩm tinh tiến thì có thể chứng được.

Nầy Xá Lợi Phất! Nay các ông có muốn nghe nói ví dụ về thần thông bất tư nghị của Phật chăng?”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã phải lúc. Chư Tỳ Kheo nếu được nghe ví dụ về thần thông mà đức Phật tuyên dạy rồi sẽ đồng thọ trì”.

Đức Phật phán dạy: “Lắng nghe, ta sẽ vì ông mà tuyên nói.

Nầy Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào? Tôn giả Đại Mục Kiền Liên có được đại thần thông chăng?”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ngày trước tôi từng nghe đức Như Lai tuyên bố rằng Tôn giả Đại Mục Kiền Liên là bực thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn”.

Đức Phật phán dạy: “Đúng như vậy. Nầy Xá Lợi Phất! Nay lại vì ông mà nói rộng về ví dụ.

Nầy Xá Lợi Phất! Ví như chư Thanh Văn đông đầy cả cõi Đại Thiên như rừng rậm mía mè lúa đậu tre lau. Chư Thanh Văn ấy dùng sức tinh tiến thế lực chớp nháng đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa. Muốn đem thần thông ấy so với thần thông của đức Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tại sao? vì đức Như Lai đả được thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.

Nầy Xà Lợi Phất! Giả sử đức Như Lai lấy một hột cải ném xuống đất, chúng Thanh Văn ấy đồng thời hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải ấy. Tại sao? Vì đức Như Lai đã được thần thông biến hóa ba la mật đệ nhứt vậy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đừng nói đến cõi Đại Thiên, giả sử tất cả chúng sanh trong hằng sa thế giới ở mười phương, những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi tưởng phi phi tưởng đều là Thanh Văn thành tựu thần thông đệ nhứt như Đại Mục Kiền Liên. Tất cả Thanh Văn ấy đồng thời đại hiển hiện thần thông biến hóa cũng chẳng lay động được hột cải mà đức Như Lai đả ném xuống đất ấy. Tại sao? Vì đức Như Lai đã được thần thông ba la mật đệ nhứt vậy.

Đây gọi là đức Như Lai có đủ đại thần thông lực, có đủ đại oai đức lực, có đủ đại tông thế lực như vậy”.

Lúc bấy giờ đấng Bạc Già Phạm lại bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông có từng nghe thời kỳ phong kiếp khởi lên, có ngọn gió lớn tên là Tăng già đà. Ngọn gió ấy đem cả cõi Đại Thiên nầy từ núi Tu Di, các biển lớn v.v... rời khỏi vị trí cao cả do tuần rồi làm nát ra bột chăng?”.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Ngày trước tôi ở trước đức Phật thân nghe nói việc ấy”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như vậy. Lúc phong tai khởi lên, lại có ngọn gió lớn tên là Tăng già đa thổi đem cả cõi Đại Thiên những núi Tu Di biển lớn v.v... cao cả trăm do tuần rồi làm nát ra bột. Hoặc thổi lên cao hai trăm do tuần, hoặc ba bốn năm trăm do tuần, hoặc ngàn hai ba bốn ngàn do tuần, hoặc đến vô lượng trăm ngàn do tuần rồi làm nát ra bụi nhỏ theo gió bay tản mất cả trọn không gì còn, huống là núi đá mà tồn tại được. Ngọn gió ấy lại thổi tan cung trời Dạ Ma, cung trời Đâu Xuất, cung trời Hóa Lạc, cung trời Tha Hóa Tự Tại, cung trời Ma La, cung trời So Thiền, Nhị Thiền, nhẫn đến cung trời Tam Thiền, Biến Tịnh Thiên đều tan thành vi trần tản mất không gì còn.

Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử ngọn gió Tăng già đa ấy vụt nổi lên thổi y của đức Như Lai, thì chẳng thổi động được chút y chừng bằng sợi lông nhỏ, huống là thổi động được chéo y hay toàn cả cái y của đức Như Lai. Tại sao? Vì đức Như Lai đã thành tựu thần thông bất tư nghị, oai nghi bất tư nghị, diệu hạnh bất tư nghị, đại bi bất tư nghị vậy.

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Giả sử hằng sa thế giới mười phương có những luồng gió mạnh như vậy nổi lên sắp thổi tan các thế giới ấy. Bấy giờ đức Như Lai dùng một đầu ngón tay mang các thế giới ấy đến xứ khác, hoặc làm cho gió ấy mất hết sức lực phải thổi vụt trở lại. Mà ở nơi thần thông biến hóa và tất cả oai lực của đức Như Lai không hề tổn giảm.

Nầy Xá Lợi Phất! Thần thông của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn khó nghe khó tin, chỉ có chư đại Bồ Tát mới tin nhận được và vâng thờ thanh tịnh không lầm không nghi, càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Giả sử các chúng sanh ba cõi

Tất cả biến thành chúng Thanh Văn

Đều được thần thông biến hóa lớn

Đồng với Tôn giả Đại Mục Liên

Như Lai có đại thần thông lực

Lấy một hột cải ném xuống đất

Tất cả Thanh Văn hiện thần thông

Chẳng lay động được hột cải ấy

Giả sử trong mười phương thế giới

Số nhiều như số cát sông Hằng

Ngọn gió Tăng già đa nổi lên

Có thể thổi tan các thế giới

Những ngọn gió Tăng già đa ấy

Đem thổi y phục của Như Lai

Tận thế lực gió chẳng động được

Phần nhỏ y phục như đầu lông

Đấng Đại Mâu Ni dùng một lông

Ngăn gió lớn ấy chẳng cho thổi

Phật có đủ thần lực dường ấy

Vô biên vô lượng như hư không.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đại thần thông lực bất tư nghị của Như Lai mà chư đại Bồ Tát tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Phật lại bảo Ngài Xá Lơị Phất: “Thế nào là đại Bồ Tát đối với trí lực bất tư nghị cuả đức Như Lai mà tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ?

Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai có đủ mười lực như vậy. Vì thành tựu mười lực, nên đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống, tự xưng ta ở bực Đại Tôn Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian hoặc Trời, hoặc Ma Vương, hoặc Phạm Vương, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

Nầy Xá Lợi Phất! Những gì gọi là mười lực của Như Lai? Một là Xứ phi xứ trí lực, hai là Nghiệp báo trí lực; ba là Chủng chủng giải trí lực; bốn là Chủng chủng giới trí lực; năm là Chủng chủng căn trí lực; sáu là Nhứt thiết biến hành hành trí lực; bảy là Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề tạp nhiễm thanh tịnh trí lực; tám là Tùy niệm tiền thế túc trụ tác chứng trí lực; chín là Tử sanh tác chứng trí lực; mười là Lậu tận tác chứng trí lực.

Thế nào là Thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lơị Phất! Với thị xứ đức Như Lai biết như thiệt là thị xứ, và với phi xứ biết như thiệt là phi xứ.

Thế nào là thị phi xứ, thế nào là phi xứ?

Nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân các hành, ngữ ác hành ý ác hành cảm được quả báo khả hỷ khả lạc khả ái khả ý đó thì không bao giờ có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Như thân ác hành, ngữ ác hành, ý ác hành mà cảm được quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất khả ý thì có sự ấy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như thân diệu hành, ngữ diệu hành, ý diệu hành mà cảm được quả báo bất khả hỷ bất khả lạc bất khả ái bất khả ý thì không bao giờ có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Như thân diệu hành, ngữ diệu hành, ý diệu hành, mà cảm được quả báo khả hỷ khả lạc khả ái khả ý thì có sự ấy.

Lại nầy Xá Lơị Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do xan tham mà cảm được giàu lớn, do phạm giới mà sanh nhơn thiên, do giận thù mà cảm thân đoan chánh, do giải đãi mà được thiền, do tán loạn mà nhập chánh định, do ác huệ mà dứt hẳn tất cả tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do xan tham mà cảm được bần cùng, do phá giới mà cảm địa ngục súc sanh ngạ quỷ, do giận thù mà cảm báo xấu xí, do giải đãi mà chẳng đắc thiền, do tâm loạn mà chẳng nhập chánh định, do ác huệ mà chẳng dứt hẳn được tập khí tương tục. Nói như vậy thì có sự ấy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do bố thí mà cảm bần cùng, do trì giới mà đọa ác đạo, do nhẫn nhịn mà cảm xấu xí, do chánh cần mà chẳng được thiền, do nhứt tâm mà chẳng nhập chánh định, do thánh huệ mà chẳng dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là do bố thí mà cảm được đại phú, do trì giới mà sanh nhơn thiên, do nhẫn nhịn mà cảm thân đoan chánh, do chánh cần mà đắc thiền định do thánh huê mà dứt hẳn tập khí tương tục. Nói như vậy thì có sự ấy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn sát sanh mà cảm trường thọ, do trộm cướp mà cảm được đại phú, do hành tà dục mà cảm được vợ trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là nhơn sát sanh mà cảm báo đoản mạng, do trộm cướp mà cảm báo nghèo cùng, do hành tà hạnh mà cảm báo vợ chẳng trinh lương. Nói như vậy thì có sự ấy.

Lại phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là người rời sát sanh hay cảm báo đoản thọ, người rời trộm cắp hay cảm báo bần cùng, người rời hạnh tà dục cảm báo vợ không trinh lương. Nói như vậy thì không bao giờ có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Nghĩa là người rời sát sanh thì cảm báo trường thọ, người rời trộm cắp thì cảm báo đại phú, người rời hạnh tà dục thì cảm báo vợ trinh lương. Nói như vậy thì có sự ấy.

Nầy Xá Lợi Phất! Tất cả nghiệp đạo thiện bất thiện thị xứ và phi xứ như vậy nay sẽ nói tóm lược để hiển thị chỗ cốt yếu.

Người vọng ngữ mà chẳng cảm báo phỉ báng thì không có sự ấy, nếu hay chiêu cảm thì có sự ấy. Người rời vọng ngữ mà cảm báo phỉ báng thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm báo phỉ báng thì có sự ấy.

Người hành ly gián ngữ mà hay cảm được quyến thuộc sum họp thì không có sự ấy, nếu chẳng cảm được thì có sự ấy. Người xa rời ly gián ngữ mà cảm được quyến thuộc tan nát thì không có sự ấy, nếu cảm được quyến thuộc sum họp thì có sự ấy.

Người hành thô ác ngữ mà cảm được thường nghe âm thanh khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe âm thanh bất khả ý thì có sự ấy. Người rời thô ác ngữ mà cảm nghe âm thanh bất khả ý thì không có sự ấy, nếu nghe âm thanh khả ý thì có sự ấy.

Người hành ỷ ngữ mà cảm được lời dạy bảo ai cũng tin nhận thì không có sự ấy, nếu chẳng tin nhận thì có sự ấy. Người rời ỷ ngữ mà cảm phải lời dạy bảo người chẳng tin thọ thì không có sự ấy, nếu được tin thọ thì có sự ấy.

Người tham lam mà cảm báo tài sản chẳng tan thì không có sự ấy, nếu cảm báo tan mất thì có sự ấy. Người rời tham lam mà cảm báo tài sản tan mất thì không có sự ấy, nếu cảm chẳng tan mất thì có sự ấy.

Người cưu giận thù mà chẳng đọa ác đạo thì không có sự ấy, nếu đọa thì có sự ấy. Người rời giận thù mà chẳng sanh thiện đạo thì không có sự ấy, nếu được sanh thì có sự ấy.

Người tà kiến chấp nhận nhơn tà kiến mà đắc đạo thì không có sự ấy, nếu chẳng đắc đạo thì có sự ấy. Người chánh kiến chấp nhận nhơn chánh kiến mà chẳng được thánh đạo thì không có sự ấy, nếu được thánh đạo thì có sự ấy.

Người tạo tội vô gián mà tâm được an thì không có sự ấy, nếu bất an thì có sự ấy. Người giới hạnh thanh tịnh mà tâm bất an thì không có sự ấy, nếu tâm an thì có sự ấy.

Nếu quan niệm hữu sở đắc mà được thuận nhẫn thì không có sự ấy, nếu không được thuận nhẫn thì có sự ấy. Người tin hiểu pháp không mà chẳng được thuận nhẫn thì không có sự ấy, nếu được thuận nhẫn thì có sự ấy.

Nếu ác tác mà được tâm an ổn thì không có sự ấy, nếu chẳng được tâm an thì có sự ấy.

Người nhiếp tâm mà chẳng được tâm an thì không có sự ấy, nếu được thì có sự ấy.

Người nữ mà làm Chuyển Luân Vương, làm Thiên Đế Thích, làm Phạm Thiên Vương thì không có sự ấy. Nếu trượng phu mà làm thì có sự ấy.

Người nữ xuất thế làm Phật thì không có sự ấy. Nếu chuyển thân nữ rồi mà làm Phật thì có sự ấy.

Nếu người ở bực đệ bát nhẫn chưa chứng sơ quả mà xuất định thì không có sự ấy, nếu chứng quả rồi mà xuất thì có sự ấy.

Nếu đến thánh lưu mà còn thọ thân sanh tử thứ tám thì không có sự ấy, nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

Nếu bực Nhứt Lai mà còn thọ than sanh tử thứ ba thì kông có sự ấy. Nếu chính nơi các uẩn thân nầy mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

Nếu bực Bất Hoàn mà còn sanh lại nơi đây thì không có sự ấy, nếu ở nơi kia mà nhập Niết Bàn thì có sự ấy.

Nếu A La Hán lại còn nối sanh thì không có sự ấy, nếu chẳng còn nối sanh thì có sự ấy.

Nếu chư Thánh Nhơn mà còn cầu tà sư và nhận lời tà thì không có sự ấy, nếu chẳng cầu tà sư và chẳng nhận lời tà thì có sự ấy.

Bực Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn mà có thối chuyển thì không có sự ấy, nếu quyết định được Vô thượng Bồ đề không còn thối chuyển thì có sự ấy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ và thi xứ là có chỗ nhiếp thọ.

Nếu chư Bồ Tát an tọa đạo tràng chưa chứng Bồ đề mà đứng dậy thì không có sự ấy. Nếu chư Bồ Tát an tọa đạo tràng chứng Phật đạo rồi bèn đứng lên thì có sự ấy.

Nếu chư Như Lai mà còn tập khí tương tục thì không có sự ấy. Tất cả Như Lai tập khí đã dứt hẳn thì có sự ấy.

Nếu cho rằng đức Như Lai trí còn có chướng ngại thì không có sự ấy. Còn Phật trí vô ngại thì có sự ấy.

Nếu có ai thấy được đỉnh đầu của đức Như Lai thì không có sự ấy. Không ai thấy được đảnh Phật thì có sự ấy.

Nếu có người biết được tâm an trụ của đức Như Lai thì không có sự ấy. Nếu chẳng biết được thì có sự ấy.

Nếu nói đức Như Lai có tâm bất định mà có thể được thì không có sự ấy. Tâm Phật thường ở tại chánh định thì có sự ấy.

Nếu chư Phật Như Lai hành bất thiệt ngữ thì không có sự ấy. Chư Phật là đấng chơn ngữ, thiệt ngữ, đế ngữ, bất dị ngữ thì có sự ấy.

Chư Phật còn có lỗi lầm thì không có sự ấy. Do vì không lỗi lầm mà gọi là chư Phật, là Bạc Già Phạm thì có sự ấy.

Về tứ vô úy và thập bát bất cộng pháp cũng nói như trên.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Phi xứ là không chỗ nhiếp thọ. Như nói đức Như Lai nơi đời hiện tại sự thấy biết có chướng ngại thì không có sự ấy.

Thị xứ là có chỗ nhiếp thọ. Đức Như Phật Bạc Già Phạm nơi đời hiện tại sự thấy biết vô chướng vô ngại thì có sự ấy.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô lượng vô biên. Như hư không vô biên tế, thị xứ phi xứ trí lực của đức Như Lai không có biên tế cũng như vậy.

Nếu có ai muốn cầu tìm biên tế của trí lực thị xứ phi xứ của đức Như Lai thì chẳng khác người muốn tìm cầu biên tế của hư không.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nghe trí lực thị xứ phi xứ bất tư nghị của đức Như Lai như hư không rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lai nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Mười phương hư không vô biên lượng

Trí xứ phi xứ cũng vô biên

Biết đúng trí xứ phi xứ rồi

Ví chúng nói rộng pháp vi diệu

Nguời thành tựu căn khí giải thoát

Biết công hạnh ấy Phật mới dạy

Người chẳng có căn khí giải thoát

Biết trí ấy rồi bèn rời bỏ

Giả sử hư không lay động được

Mười phương đại địa đồng thời rã

Trí lực xứ phi xứ của Phật

Vẫn như thiệt không động hư.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây là trí lực thị xứ phi xứ thứ nhứt của đức Như Lai. Do vì thành tựu trí lực nầy mà đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng chánh sử tử hống tự xưng ta là bực Đại Thánh chuyển đại pháp luân mà tất cả thế gian, các Sa Môn, Bà La Môn, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

Thế nào là nghiệp báo trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được đúng như thiệt những nghiệp và quả báo thuở quá khứ, vị lai và hiện tại, hoặc nhơn hoặc xứ hoặc các dị báo đều biết rõ.

Thế nào là đức Như Lai biết rõ đúng như thiệt?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ quả báo thuở quá khứ được thiện nhơn xa rời bất thiện sẽ làm nhơn cho thiện căn thuở vị lai.

Quả báo thuở quá khứ được nhơn bất thiẹân xa rời thiện pháp sẽ làm nhơn cho bất thiện căn thuở vị lai.

Các tướng nghiệp và báo như vậy, đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ như thiệt.

Hoặc các nghiệp báo sẽ thuận với liệt phần ở thuở vị lai, nếu các nghiệp báo sẽ thuận với thắng phần ở thuở vị lai, các tướng như vậy đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.

Hoặc các nghiệp báo thuận với liệt phần ở hiện tại và thuận với thắng phần ở vị lai, các nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và thuận với hạ liệt phần ở vị lai, các nghiệp báo thuận với liệt phần ở hiện tại và cũng thuận với liệt phần ở vị lai, những nghiệp báo thuận với thắng phần ở hiện tại và cũng thuận với thắng phần ở vị lai, các tướng như vậy đức Như Lai ở tại đây đều biết rõ đúng thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báo ở quá khứ là phương tiện hẹp kém mà ở vị lai là phương tiện rộng lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác ít mà được thắng tiến lớn, hoặc các nghiệp báo tạo tác rộng lớn mà được thắng tiếng ít, các tướng như vậy đều biết rõ đúng thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báo sẽ được nhơn tánh Thanh Văn, sẽ được nhơn tánh Độc Giác, sẽ được nhơn tánh Phật, các tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các nghiệp báo hiện tại thì khổ mà có thể cảm được báo vui khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại thì vui mà có thể cảm lấy báo khổ khác ở vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại khổ cảm được báo khổ khác vị lai, hoặc các nghiệp báo hiện tại vui cảm được báo vui khác vị lai, các tướng nghiệp báo như vậy đức Như Lai đều biết rõ đúng thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ được như thiệt tất cả hữu tình quá khứ vị lai hiện tại, hoặc nghiệp, hoặc nhơn, hoặc các dị báo, hoặc tức, hoặc ly, hoặc có tùy thuận chẳng khác phần, các tướng như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt rồi vì các hữu tình mà tuyên nói như thiệt.

Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực biết rõ như thiệt nghiệp nhơn quả báo quá khứ vị lai hiện tại của đức Như Lai Chánh Đẳng Giác vô lượng vô biên bất tư nghị. Ví như hư không vô biên vô tế, trí lực nghiệp báo của đức Như Lai vô biên tế cũng như vậy.

Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của trí lực nghiệp báo ấy thì không khác gì người tìm cầu biên tế của hư không.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nghe trí lực nghiệp báo của chư Như Lai bất tư nghị như hư không rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng”

“Như Lai khéo biết nhơn khác quả

Mắt sáng thấy rõ nghiệp như thiệt

Thấu suốt ba đời đều vô ngại

Biết như thiệt nghiệp của hữu tình

Tất cả hàm linh trong năm loài

Sẽ được thành các nhơn vui khổ

Nếu chuyển được nhơn thì khổ chuyển

Đức Phật soi tỏ biết như thiệt

Dị báo thiện ác tất cả nghiệp

Theo đúng cho nên nhơn khác báo

Dường như viên ngọc nằm trong tay

Đức Phật nhìn rõ biết như thiệt

Các báo nghiệp nhơn dầu là ít

Được quả vô lượng ở vị lai

Hoặc vô lượng nhơn cảm quả ít

Đức Phật thấy khắp biết như thiệt

Hoặc nhơn sẽ chứng quả Thanh Văn

Hoặc hạnh sẽ chứng quả Độc Giác

Hoặc nghiệp sẽ cảm quả vô thượng

Đức Phật biết rõ không sót thừa

Hoặc có nghiệp lúc nhơn thì khổ

Nghiệp ấy sẽ cảm được báo vui

Hoặc nghiệp lúc tạo nhơn thì vui

Sẽ mắc quả khổ Phật đều biết

Hoặc nghiệp nhơn quả đề khổ cả

Hoặc nghiệp đều vui cả quả nhơn

Hoặc nghiệp tự thể nhơ tự thể

Như Lai đều biết rõ như thiệt

Quả khổ xoay vần cả ba đời

Hữu tình trôi lăn trong năm nẻo

Trí lực nghiệp báo của Như Lai

Đều biết như thiệt không sai sót.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là trí lực nghiệp báo thứ hai của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực nầy nên đức Phật ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh Chuyển pháp luân rộng lớn thanh tịnh, mà thế gian những Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là Chủng chủng giải trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng biết được như thiệt các loài hữu tình kia chẳng phải là một dục giải, là nhiều thứ dục giải.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà phân biệt nói rộng ra.

Các loài hữu tình kia, hoặc có kẻ ở nơi tham dục mà phát sanh quan niệm sân hận, hoặc có kẻ ở nơi sân hận mà phát sanh quan niệm tham dục, hoặc ở nơi ngu si mà phát sanh quan niệm tham dục hay sân hận, các tướng như vậy đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh ở nơi pháp bất thiện phát sanh quan niệm bất thiện, hoặc ở nơi pháp thiện phát sanh quan niệm thiện, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Hoặc có những hữu tình ở nơi phương tiện hạ liệt phát sanh hiểu biết rộng lớn, hoặc ở nơi phương tiện rộng lớn phát sanh hiểu biết hạ liệt, hoặc do sự hiểu phương tiện hạ liệt ấy sẽ ở nơi thắng tiến, hoặc do sự hiểu phương tiện thắng tiến ấy sẽ ở nơi hạ liệt, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống tà định, hoặc do sự hiểu ấy sẽ gieo giống chánh định, hoặc do sự hiểu biết ấy sẽ gieo giống chánh định giải thoát, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Hoặc do sự hiểu ấy sẽ đến nơi cõi dục, hoặc sẽ đến cõi sắc, hoặc sẽ đến cõi vô sắc, hoặc sẽ đến khắp ba cõi, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Hoặc do sự hiểu ấy thuận phần hạ liệt sẽ được thắng tiến, hoặc được thắng tiến sẽ ở nơi hạ liệt, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hoặc do sự hiểu ấy mà đời sau sẽ thọ nhiều đời sống, sẽ thọ nhiều loài, nhiều sự thọ dụng, đức Phật đều biết rõ như thiệt.

Hoặc do sự hiểu ấy mà thối đọa, hoặc do sự hiểu ấy mà gieo giống giải thoát, đức Phật đều biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi, theo chỗ đáng nên, đức Phật rộng vì các hữu tình mà diễn thuyết đúng như pháp.

Nầy Xá Lợi Phất! Chủng chủng giải trí lực của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế như hư không. Chư đại Bồ Tát ấy nghe Chủng chủng giải trí lực bất tư nghị như hư không của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Thế gian nhiều loài nhiều hiểu biết

Quá khứ hiện tại nhiều vô lượng

Tâm hiểu biết của các chúng sanh

Đấng Đạo Sư đều hay biết rõ

Hoặc có kẻ phát quan niệm tham

Lại sẽ an trụ nơi sân hận

Hoặc có kẻ hiện ở sân hận

Mà sanh hiểu si Phật biết rõ

Ở nơi si mà sanh hiểu tham

Tâm phân biệt chẳng thể nghĩ bàn

Xen lộn lẫn nhau lưu chuyển khởi

Đấng Đại Đạo Sư đều biết rõ

Hoặc có các phương tiện hạ liệt

Mà có thể sanh hiểu rộng lớn

Hoặc làm thêm lên những phương tiện

Đấng Đại Đạo Sư đều biết rõ

Tùy nhập vào nơi các tà tánh

Rồi lại nhập vào chỗ phi đạo

Hoặc nhận hiểu giải thoát ba cõi

Đức Như Lai đều có thể biết

Những đời sống và các chúng sanh

Những sự thọ dụng đều sai biệt

Hoặc lại có thối thất đọa lạc

Đấng Lưỡng Túc Tôn đều biết rõ

Biết rõ các thứ nhận hiểu rồi

Đấng Đạo Sư phương tiện thuyết pháp

Đấy là Phật trí lực thứ ba

Bồ Tát mới có thể tin được.

Nầy Xá Lợi Phất ! Đây gọi là Chủng chủng giải trí lực thứ ba của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực ấy nên đức Như Lai Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh mà các thế gian, Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng thể chuyển đúng pháp được.

Nầy Xá Lợi Phất ! Thế nào là Chủng chủng giới trí lực của đức Như Lai ?

Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng như thiệt biết rõ các thứ cảnh giới ấy mà các chúng sanh gây tạo hành nghiệp phước, gây tạo hành nghiệp phi phước, hành nghiệp bất động, hoặc do cảnh giới ấy mà gieo giống xuất ly. Các cảnh giới ấy, đức Như Lai ở nơi đây biết rõ như thiệt.

Nầy Xá Lợi Phất ! Đức Như Lai như thiệt biết rõ nhãn giới, sắc giới và nhãn thức giới, nhẫn đến ý giới, pháp giới và ý thức giới. Các giới như vậy biết rõ như thế nào ? Đó là như thiệt biết rõ nội không, ngoại không, nội ngoại không vậy.

Đức Như Lai lại như thiệt biết rõ địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Biết rõ các giới ấy như thế nào ? Đó là biết rõ như không giới vậy.

Những dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều biết rõ như thiệt, vì khắp phân biệt chỗ phát khởi vậy.

Lại như thiệt biết rõ hữu vi giới, vì là tướng tạo tác vậy ; như thiệt biết rõ vô vi giới, vì là tướng không có tạo tác vậy ; biết rõ tạp nhiễm giới, vì là tướng nó do phiền não dẫn phát ra ; biết rõ thanh tịnh giới, vì tướng nó tự thể sáng sạch vậy.

Lại như thiệt biết rõ các hành giới, vì là tướng vô minh chẳng thuận lý vậy ; biết rõ Niết Bàn giới, vì là tướng sáng thuận lý vậy.

Nầy Xá Lợi Phất ! Vì thế nên hoặc là giới có thể an lập thế gian, giới nầy được thế gian y cứ mà an trụ như vậy ; hoặc là giới hay phát khiên dẫn, hoặc là giới hay hưng kiến lập, hoặc giới hay khởi phương tiện, hoặc là giới hay sanh ý dục, hoặc là giới hay khởi phiền não, hoặc là giới hay làm y chỉ, các giới như vậy có vô lượng vô biên cũng đều được đức Như Lai biết rõ như thiệt. Đã biết rõ rồi theo chỗ đáng nên mà vì chúng sanh giảng thuyết đúng như Pháp.

Nầy Xá Lợi Phất ! Trí lực chủng chủng giới bất tư nghị của đức Như Lai không có biên tế như hư không. Nếu có ai muốn tìm cầu biên tế của trí lực chủng chủng giới ấy, thì không khác gì người muốn cầu tìm biên tế của hư không.

Chư đại Bồ Tát nghe chủng chủng giới trí lực bất tư nghị như hư không của đức Như Lai rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ ».

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng :

« Thế gian các chúng sanh

Y chỉ chủng chủng giới

Tùy chỗ họ lưu chuyển

Như Lai đều biết rõ

Phước, phi phước, bất động

Và thuận với xuất ly

An trụ giới ấy rồi

Chứng tịch diệt Niết Bàn

Hoặc nhãn giới sắc giới

Và cùng nhãn thức giới

Nhĩ tỉ thiệt thân ý

Biết rõ các giới ấy

Lại biết rõ pháp giới

Và cùng ý thức giới

Nội ngoại giới đều không

Phật biết rõ như thiệt

Địa giới và thủy giới

Hỏa giới cùng phong giới

Bốn giới đồng không giới

Đều biết rõ như thiệt

Hoặc dục giới sắc giới

Và cùng vô sắc giới

Khắp phân biệt chỗ khởi

Như hư không vô biên

Giới vô biên cũng vậy

Phật đều biết rõ cả

Mà chẳng nói ta biết

Các giới vốn vô sanh

Cũng vốn không có diệt

Đây gọi Niết Bàn giới

Đức Như Lai biết rõ

Như hư không vô biên

Trí của Phật cũng vậy

Do trí ấy biết rõ

Biến dị nơi các giới

Đã biết chủng chủng giới

Điều phục các chúng sanh

Phật trí lực thứ tư

Bồ Tát hay tin được.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chủng chủng giới trí lực của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực nầy mà đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh, các thế gian, Sa Môn Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều không thể chuyển đúng pháp được.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Chủng chủng căn trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác dùng trí lực vô thượng có thể biết rõ như thiệt về tướng các căn tánh sai biệt của tất cả chúng sanh.

Các tướng ấy đức Như Lai biết rõ như thiệt thế nào?

Nầy Xá Lợi Phất! Đó là Như Lai biết rõ như thiệt độn căn, trung căn, lợi căn, thắng căn, liệt căn. Do khắp phân biệt theo các căn tánh mà đức Như Lai biết rõ như thiệt chúng sanh khởi các thứ tham, khởi các thứ sân, khởi các thứ si, hoặc khởi giả lập tham sân si, hoặc khởi tham sân si nhỏ mỏng, hoặc khởi tham sân si điên đảo, hoặc khởi dẹp phục tham sân si.

Hoặc nhơn bất thiện sanh ra các căn, hoăc các căn do nhơn thiện sanh ra, đức Như Lai đều biết rõ như thiệt. Cũng biết rõ các căn do nhơn bất động sanh ra, hoặc các căn do nhơn xuất ly sanh ra.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, chánh cần căn, niệm căn, định căn, huệ căn, vị tri đương tri căn, tri căn, dĩ tri căn. Các tướng căn sai biệt như vậy đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc các chúng sanh an trụ bố thí căn mà tu trì giới phương tiện, bấy giờ đức Như Lai dùng trí thắng liệt căn mà vì họ nói pháp bố thí. Hoặc có chúng sanh an trụ trì giới căn mà tu bố thí phương tiện thì vì họ nói về trì giới. Hoặc có chúng sanh an trụ nhẫn nhục căn mà tu tinh tiến phương tiện, thì vì họ nói về pháp nhẫn nhục.

Hoặc có chúng sanh an trụ tinh tiến căn mà tu nhẫn nhục phương tiện, thì vì họ nói về pháp tinh tiến.

Hoặc an trụ thiền định căn mà an trụ tu huệ phương tiện thì vì họ nói về pháp thiền. Hoặc an trụ huệ căn mà tu thiền phương tiện thì vì họ nói về chánh trí huệ.

Các căn sai biệt về tất cả phần Bồ đề như vậy, đức Như Lai đều biết rõ như thiệt.

Nầy Xá Lợi Phất! Hoặc có chúng sanh an trụ căn Thanh Văn mà lại tu độc giác phương tiện, thì đức Như Lai dùng Chủng chủng chư căn trí vì họ mà nói hạ thừa. Người an trụ độc giác căn mà tu Thanh Văn phương tiện thì vì họ mà nói trung thừa. Người an trụ đại thừa căn mà tu nhị thừa phương tiện, thì đức Như Lai dùng chư căn trí vì họ nói đại thừa.

Nếu có các chúng sanh không có căn kham nhậm, không có tướng kham nhậm, đức Như Lai biết họ là phi pháp khí không kham nhậm rồi bèn bỏ để đó.

Nếu các chúng sanh có căn kham nhậm có tướng kham nhậm, đức Như Lai biết rõ như thiệt là người pháp khí có kham nhậm liền ân cần trịnh trọng vì họ thuyết pháp cho họ được ngộ nhập.

Như vậy, nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ các hữu tình các căn thuần thục và chẳng thuần thục, các căn xuất ly và chẳng xuất ly. Căn tánh của các hữu tình, đức Như Lai đúng như thiệt biết rõ tất cả; an trụ tướng như vậy, phương tiện như vậy, tín giải như vậy, bổn nhơn như vậy, sở duyên như vậy, đẳng lưu như vậy, cứu cánh như vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Chủng chủng căn trí của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn vô biên vô tế chư căn trí lực của đức Như Lai thì chẳng khác gì người muốn tìm cầu biên tế của hư không.

Chư đại Bồ Tát nghe căn lực như hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy kỳ”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Đấng đến tột mé căn chúng sanh

Khéo thấu tánh hạnh của hữu tình

Tùy theo căn tánh có thể kham

Đức Như Lai vì họ thuyết pháp

Căn hạ trung thượng kham nhậm được

Trí lực của Phật phát trong ấy

Xem tâm giải thoát của họ rồi

Đấng Lưỡng Túc Tôn liền thuyết pháp

Nếu người các căn hay phát khởi

Phiền não mỏng nhẹ tương tục ít

Khéo thấu căn tánh của người ấy

Đức Phật tùy thuận vì thuyết pháp

Nếu các trượng phu có thiện căn

Tùy chỗ siêng tin mà khai thị

Lại theo căn hành tướng sai biệt

Nói các thắng nghĩa định huệ thảy

Nếu người phát khởi siêng tín nguyện

Như Lai tùy thuận nói tịnh đạo

Biết họ có đủ công hạnh rồi

Dạy họ thắng pháp siêu các khổ

Có căn quyết định Phật Bồ đề

Mê lầm tu theo hạnh nhị thừa

Phật dạy đại thừa thành chánh giác

Đây là trí lực thư năm vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là Chủng chủng căn trí lực của đức Như Lai. Do thành tựu trí lực thứ năm này mà đức Phật Như Lai ở giữa đại chúng chánh sư tử hống tự xưng rằng ta ở bực Đại Thánh hay chuyển pháp luân thanh tịnh, mà các thế gian, Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương v.v... đều chẳng chuyển được đúng pháp.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Biến hành chư hành trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng vô lượng trí lực biết rõ như thiệt biến hành chư hành.

Nầy Xá Lợi Phất! Các tướng như vậy biết rõ thế nào? Đó là biết rõ tánh hữu tình là tánh chánh định, là tánh bất chánh định, là tánh tà định.

Thế nào là tánh chánh định?

Đó là do phương tiện tu tập đời trước khai phát trí huệ lợi căn mà phát sanh tánh ấy, hoặc chư Phật có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp. Đức Như Lai biết nhơn quả đời trước của chúng sanh ấy kham nhậm pháp khí tùy chỗ đáng nên thuyết pháp cho họ mau được giải thoát.

Thế nào là tánh bất định?

Đó là do sức ngoại duyên mà thành thục tánh ấy. Nếu được giáo thọ giáo giới đúng pháp thì được giải thoát. Nếu giáo thọ giáo giới chẳng đúng pháp thì chẳng được giải thoát. Đức Như Lai vì họ mà nói pháp tùy thuận. Họ nghe được chánh pháp rồi đúng theo lý mà tu hành chứng quả giải thoát. Vì muốn cho các chúng sanh được những sự lợi ích giải thoát như vậy mà đức Phật xuất thế.

Thế nào gọi là tánh tà định?

Đó là tánh chúng sanh bị phiền não che úp chẳng tu tập nghiệp hạnh thanh tịnh, thức tánh bạc nhược ngu si sâu dầy an trụ trong lưới tà kiến chẳng phải căn khí chánh pháp, dầu chư Như Lai có vì họ thuyết pháp hay chẳng thuyết pháp, họ cũng chẳng kham nhậm chứng quả giải thoát. Đức Như Lai biết hữu tình ấy chẳng phải là pháp khí rồi liền bỏ để đó. Vì thế nên, nầy Xá Lợi Phất! Chư Đại Bồ Tấ vì thương muốn làm lợi ích cho hạng chúng sanh ấy, nên mặc giáp hoằng thệ vào trong đám quân tà kiến để giáo hóa xô dẹp.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt ba thứ tham hành: hoặc do tướng tịnh mỹ mà phát khởi tham hành, hoặc do nghiệp nhơn đời trước mà phát khởi tham hành.

Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ sân hành: hoặc do tướng tổn hại mà phát khởi sân hành, hoặc do quan sát quá nhiều mà phát khỡi sân hành, hoặc do phiền não đời trước mà phát khởi sân hành.

Đức Như Lai lại biết rõ như thiệt ba thứ si hành: hoặc có si hành do vô minh phát sanh, hoặc có si hành do vọng có thân kiến mà phát sanh, hoặc có si hành do nghi mà phát sanh.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai biết rõ như thiệt các hành. Có người khổ lạc hai hành đều mau có thể thông vì các căn họ bén nhạy. Có người khổ lạc hai hành đều chậm thông, vì các căn của họ chậm lục vậy.

Lại biết rõ như thiệt hành chậm, thông cũng chậm vì bỏ sở duyên vậy. Hoặc hành chậm còn thông thì mau vì đạo chẳng ngừng dứt vậy. Hoặc hành mau còn thông thì chậm vì dũng quyết tiến lên vậy, hoặc hành mau thông mau vì chẳng phải tánh ấy vậy.

Lại biết rõ như thiệt hoặc có các căn hành sức giản trạch đầy đủ mà chẳng phải sức tu tập. Hoặc có các căn hành sức tu tập đầy đủ mà chẳng phải sức giản trạch. Hoặc có các hành hai sức giản trạch và tu tập đều đầy đủ.

Lại biết rõ như thiệt hoặc có các hành tín nguyện đầy đủ mà chẳng phải phương tiện đầy đủ. Hoặc có các hành phương tiện đầy đủ mà chẳng phải tín nguyện đầy đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều đủ. Hoặc có các hành tín nguyện và phương tiện đều chẳng đầy đủ.

Lại biết rõ như thiệt hoặc có các hành thân nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do ngữ và ý. Hoặc có các hành ngữ nghiệp thanh tịnh mà chẳng phải do thân và ý. Hoặc có các hành ý nghiệp thanh tịnh mà chẳng do thân và ngữ. Hoặc có các hành do thân ngữ ý mà được thanh tịnh.

Như vậy nhẫn đến chúng hữu tình chỗ có các hành hoặc nhơn lưu chuyển, hoặc nhơn chẳng lưu chuyển, hoặc nhơn cả hai lưu chuyển và bất lưu chuyển, đức Như Lai dùng trí vô ngại đều biết rõ như thiệt.

Nầy Xá Lợi Phất! Trí lực biến hành chư hành của đức Như Lai chẳng nghĩ bàn được vô biên tế như hư không. Chư đại Bồ Tát nghe trí lực bất tu nghị như hư không ấy rồi tin nhận vâng thờ thanh tịnh không nghi càng thêm hớn hở vui mừng phát ý tưởng hy ky”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

“Như Lai như thiệt biết các hành

Biết được hữu tình tánh chánh định

Lại biết tướng bất định thành thục

Và các căn nhơn pháp tương ưng

Các hành ba thứ tham tương ưng

Và cùng ba thứ sân si hiệp

Hành tương ưng vô biên phiền não

Duyên, nhơn, đức Phật đều thiệt biết

Người có khổ hành mà lợi căn

Hoặc có hành ấy mà độn căn

Người có lạc hành căn lợi độn

Đấng Đại Đạo Sư biết như thiệt

Người có độn hành và độn tu

Hoặc là hành độn mà lợi tu

Hoặc là hành mau mà tu chậm

Hoặc là đều mau hoặc đều chậm

Hoặc có các hành giản trạch sanh

Chẳng do tu tập đạo lực khởi

Hoặc tu tập sanh chẳng giản trạch

Câu sanh biệt dị cùng tương ưng

Hoặc có các hành sanh tín nguyện

Mà chẳng phải là phương tiện tịnh

Hoặc phương tiện tịnh chẳng tín nguyện

Chẳng tín nguyện hạnh hoặc đủ cả

Hoặc có tịnh tu nơi thân nghiệp

Chẳng phải ngữ ý nghiệp thanh tịnh

Hoặc có ngữ tịnh và thân tịnh

Mà ý nghiệp kia chẳng thanh tịnh

Hoặc có nội tâm thường thanh tịnh

Hai nghiệp thân ngữ chẳng thanh tịnh

Hoặc có ngữ tịnh và ý tịnh

Mà thân nghiệp họ chưa được tịnh

Hoặc thân ngữ ý tịnh chẳng tịnh

Các hành lưu chuyển và tịch diệt

Đấng Chánh Biến Tri biết như thiệt

Đây là Phật trí lực thứ sáu.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là biến hành chư hành trí lực của đức Như Lai. Do trí lực thứ sáu ấy mà đức Như Lai tự xưng là bực Đại Thánh chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả thế gian đều chẳng chuyển đúng pháp được.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Thế nào là Tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh trí lực của đức Như Lai?

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác dùng trí lực vô thượng biết rõ như thiệt hoặc tự hoặc tham tất cả những pháp tịnh lự giải thoát tam ma địa tam ma bát đề phát khởi tạp nhiễm thanh tịnh.

Các tướng như vậy biết rõ như thiệt thế nào?

Đó là biết rõ như thiệt do nhơn do duyên mà tất cả hữu tình có thể bị tạp nhiễm; lại như thiệt biết do nhơn do duyên mà tất cả hữu tình có thể được thanh tịnh.

Nầy Xá Lợi Phất! Nhơn gì duyên gì có thể khiến tạp nhiễm?

Đó là do tác ý chẳng xứng lý làm nhơn, do vô minh làm duyên khiến các hữu tình phát khởi tạp nhiễm.

Vô minh như vậy làm nhơn các hành làm duyên; các hành làm nhơn các thức làm duyên; các thức làm nhơn danh sắc làm duyên; danh sắc làm nhơn sáu nhập làm duyên; sáu nhập làm nhơn các xúc làm duyên; các xúc làm nhơn cảm thọ làm duyên; do thọ làm nhơn ái luyến làm duyên; tham ái làm nhơn chấp thủ làm duyên; do thủ làm nhơn các hữu làm duyên; do hữu làm nhơn lấy sanh làm duyên; do sanh làm nhơn lão tử làm duyên; phiền não làm nhơn các nghiệp làm duyên; kiến chấp làm nhơn tham ái làm duyên; tùy miên làm nhơn các triền làm duyên;  


Xem dưới dạng văn bản thuần túy