× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 39 PHÁP HỘI HIỀN HỘ TRƯỞNG GIẢ THỨ BA MƯƠI CHÍN 1

Như vậy tôi nghe một lúc dức Phât ở thành Vương Xá tại tinh xá Trúc Viên của trưởng giả Ca Lan Ðà cùng chúng Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội, dều là bực việc làm dã xong chẳng thọ thân sau, Trưởng lão Xá Lợi Phất làm thượng thủ.  Chư Tỳ kheo bao quanh đức Thế Tôn muốn nghe pháp thân tâm họ diều thuận chẳng có ngủ nghỉ.

Bấy giờ đức Như Lai Thế Tôn diện mạo dung sắc như mặt nhựt mọc, như hoa sen nở, đoan nghiêm rạng rỡ vui vẻ mỉm cười.  Chư Tỳ Kheo nghĩ rằng nay dấng Già Bà muốn tuyên nói pháp môn gì mà sắc mặt rực rỡ như vậy.

Lúc ấy có một đại phú trưởng giả tên Hiền Hộ cùng quyến thuộc một ngàn người vây quanh, oai lực dường như chấn động đại địa, an tường chậm rãi đi về phía Thế Tôn.

Hiền Hộ trưởng giả do phước đời trước nên nay thọ quả báo trời, thân thể nhu nhuyến như cành hoa búp non.  Ông dến trước Phật thấy dức Như Lai dung sắc tối thắng tối diệu, thân công đức tạng tịch tĩnh như cội cây vàng chói sáng rực rỡ khắp cả rừng trúc.  Ông sanh lòng tịnh tín dối với Phật chắp tay suy nghĩ như vầy : Trong thế gian được đại danh xưng thiệt chẳng hư thuyết, cho rằng nhứt thiết trí Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng Chánh Giác là chơn thiệt vậy.  Ông liền cúi đầu lạy chưn Phật.  Ông quỳ gối cất đầu nhứt tâm nhìn kỹ Thế Tôn mắt chẳng tạm nháy.  Lúc chiêm ngưỡng Như Lai thân ông nghiễm nhiên chẳng nghiêng chẳng động.

Thấy lòng Hiền Hộ khát ngưỡng như vậy, đức Như Lai lại phóng diệu quang nơi thân.  Lúc diệu quang chiếu ra.  Hiền Hộ liền được vô úy, đứng dậy đi hữu nhiễu ba vòng quanh Phật rồi lại đảnh lễ chưn Phật quỳ dài chắp tay bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Xin Phật thương xót tôi, xin Phật dạy bảo tôi.  Ðại Thánh thế Tôn ! Ở bên Phật tôi sanh lòng tin chưa lâu, vì thế đức Phật chỉ nên vì tôi mà theo sự hiện tại nói một pháp môn, nay tôi khát ngưỡng muốn nghe pháp, vì trong sanh tử bị phiền  não bức ngặt có nhiều nghi hoặc tâm luôn phân biệt, do đó duy nguyện Thế Tôn từ bi xót thương thuyết pháp khiến tôi quyết nghi Ðại Thánh Thế Tôn ! Tôi không chánh tri nên có mê hoặc chẳng biết ra khỏi mé biển sanh lão bịnh tử phiền não, Như Lai Thế Tôn là đấng Nhứt thiết trí thế gian hi hữu như châu ma ni có thể ban cho tất cả chúng sanh những điều vui.  Ðức Thế Tôn lại như cha mẹ làm cho tất cả chúng sanh được quả báo lành đó là căn bổn ».

Ðức Phật dạy : « Nầy Hiền Hộ ! Nếu ông có nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ phân biệt giải thuyết cho ».

Trưởng giả Hiền Hộ được Phật hứa khả, lòng ông vui mừng muốn hỏi điều nghi trong lòng, ông liền đứng dậy ở qua một bên , thân ông oai quang viên mãn đầy đủ.

Trưỡng lão A Nan thấy Hiền Hộ như vậy liền bạch rằng : « Hi hữu Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ nầy thân quang oai lực hơn các đại vương, đẹp lạ tuyệt quần đoan chánh  khả ái, trong thế gian độc nhứt vô song ».

Ðức Phật dạy : « Nầy A Nan ! Nay ông có muốn nghe những sự vui đẹp trong nhà của trưởng giả Hiền Hộ chăng ? Nếu nói đủ quả báo sung sướng của Hiền Hộ thì daé-u Ðế Thích  Thiên Vương tại trời Ðao Lợi còn chẳng bằng huống là nhơn gian nơi Diêm Phù Ðề nầy ! Duy trừ một người là trưởng giả tử Chơn Nguyệt”.

Trưởng lão A Nan bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ

nầy trong nhà có gì thù thắng mà đức Thế Tôn khen ngợi”.

Ðức Phật dạy : “Nầy A Nan  ! Ông nên lắng nghe, trưởng giả nầy có những của cải căn lành rộng lớn, nay ta vì ông mà thứ đệ tuyên nói.

Nầy A Nan ! Trưởng giả Hiền Hộ nầy có sáu vạn tối đại thương chủ thường theo sau ông.  Mỗi thương chủ ấy đều có vô lượng của báu kỳ dị.

Trong nhà Hiền Hộ thường trần thiết sáu vạn giuờng nằm lục hiệp thượng diệu, trên trải mền nệm tạp sắc, có gối dựa lụa tạp sắc để cặp hai bên.

Diệu y tạp sắc bằng lụa kiều xa gia v. v…, mỗi nơi đều đủ bốn bộ, và những vật đẹp lạ sản xuất  từ bốn phương dều có đủ trang nghiêm nhà ấy.  Những y phục ấy đều mịn nhuyễn sạch sẽ bóng sáng.

Nhà Hiền Hộ khắp mọi nơi đều treo chơn châu anh lạc để trang sức.

Còn có sáu vạn thể nữ đoan chánh đẹp tuyệt, thân thể nhu nhuyến trơn mịn, giỏi cười đùa khéo nói năng, tư thái diễm mỹ chiều tiếp ý người.  Kẻ giận phiền thấy họ đều vui vẻ, kẻ lo rầu gặp họ thì thơ thới, lời nói thanh âm cợt đùa của họ làm cho người nở lòng đẹp mắt, họ đều thảo luận chiêm ngưỡng chồng mình đủ lễ làm vợ, xa lìa dục tâm đối với nam tử khác.  Hoặc có lúc họ tự biết hổ thẹn chắp tay ngó xuống khom mình cung kính chuyên hướng nơi chồng mà không còn ngó chỗ khác.  Hoặc có lúc vì yêu riêng đối với chồng mà họ ghen ganh tranh đấu ghét nhau nhíu mày nhăn trán, họ giả bộ để đùa kỳ thiệt họ không có lòng ganh ghen.  Ngón móng của họ thon dài tròn đều, cườm tay mắt chưn đầy đặn nhỏ kín, thân như say lả liếc nhìn đắm đuối, bước đi tường tự đứng ngồi đoan trang, tóc màu xanh biếc mịn láng dịu mềm chải gỡ khéo làm mê hoặc người.  Các thể nữ ấy hoặc hầu hoặc nưng đều chuyên cung phụng chồng mình tiếng đồn trong sạch lưu bố khắp xứ.  Các thể nữ ấy dòng họ rất lớn ở trong nhà họ cũng có tiếng tốt đều kham làm vợ chánh các nhà quyền quí.  Có những sự trang nghiêm như vậy trong nhà to rộng của Hiền Hộ chẳng thể kể hết.

Lúc Trưởng giả Hiền Hộ muốn ăn thì có sáu vạn thứ cơm canh thơm ngon vi diệu như thức ăn cõi trời.  Thực phẩm ấy sắc vị hoàn hảo đủ tám công đức, tùy ý ăn, vào miệng liền tiêu, ăn rồi thuận thích không làm chướng ngại, vì quả báo lành chiêu cảm nên tự nhiên vừa lòng, thân thể sáng sạch không hôi dơ.

Trong nhà Hiền Hộ còn có sáu vạn kiệu và xe đều trang nghiêm với những trân kỳ châu báu, đều có diệu y giăng che bên trên.  Mặt đất rải hoa thơm đẹp nước thơm tưới khắp không có bụi bặm sạch sẽ bóng láng.

Trong nhà Hiền Hộ còn có những âm nhạc tối thượng : tay đánh ngón khảy miệng thổi thanh âm vi diệu thảnh thót nhập thần ca khúc đúng đắn người nghe thích ý.  Những thứ vi diệu như vậy trang nghiêm nhà ấy

Nơi nhà Hiền Hộ còn có

vườn rừng cây cối tươi tốt sum sê cỏ lạ hoa thơm đủ màu tươi sáng.  Trong vườn cây có nhiều chim lạ phát ra âm thanh hòa nhã như nhạc trời.  Cảnh trí thanh âm không khác Thiên cung gom các báu Tu Di hiệp thành long quật.

Trong nhà Hiền Hộ còn khắp các thứ đèn sáng không bị gió thổi lay sáng thấu khắp nơi đêm như ngày không khác.

Lại cõi nước nơi nhà Hiền Hộ có sáu vạn thành đường sá lâu đài đều trang nghiêm đầy đủ.  Những thành ấy mọi nơi đều có thương nhơn các nước tụ tập, nhiều hình dạng, nhiều ngôn ngữ, nhiều trân kỳ,  nhiều hàng báu cùng đổi chác nhau, chợ búa trăm ngàn vạn nhơn chúng không thể đếm kể.

Giáp vòng bốn phía thành ấy có vườn tược cây cối trăm ngàn thứ, hoa trái sum suê cành lá rậm rạp, bầy ong đua bay lấy mật lấy phấn.

Các thành ấy có nhiều voi ngựa và xe cộ.

Trong các thành ấy có bao nhiêu đại phú trưởng giả cư sĩ thương chủ và thương nhơn thường nhứt tâm cùng ca ngợi công đức của trưởng giả Hiền Hộ, họ đồng chắp tay đảnh lễ tán thán, huống là danh tiếng của Hiền Hộ họ đều vui được nghe, muốn được mắt thấy Hiền Hộ trưởng giả. Chúa nước ấy là vua Ba Tư Nặc thấy sự giàu có hình thế phước đức của Hiền Hộ, tự thấy mình thua kém không khác bần nhơn, nhà vua khen của báu của Hiền Hộ.

Nầy A Nan ! Ông trưởng giả Chơn Nguyệt mỗi lúc ăn có ngàn thứ trân vị, sớm tối tả hữu đồ dùng tự nhiên, còn có năm ngàn thể nữ vây quanh thừa phụng vui thú.  Sánh với Thiên Ðế Thích thì Trưởng giả Chơn Nguyệt hưởng thọ sung sướng hơn ngàn lần, nhưng so với Trưởng giả Hiền Hộ thì chẳng bằng một phần trăm về dung mạo của báu cũng như hưởng thọ sung sướng.

Nầy A Nan ! Trưởng giả Hiền Hộ có một cỗ xe vi diệu tên là Ðoạt Ý Kỳ xảo tinh lệ nhơn gian không có.  Trong xe ấy có tòa thiên bửu, xe ấy thuần trang hoàng với những châu báu cõi trời.  Những thiên bửu mã não kim cương chơn châu trân bối ánh sáng chói lòa như các tinh tú trên không gian.  Xe ấy đi mau như gió.

Nầy A Nan ! Lúc ý của Hiền Hộ muốn đến trong biển lượm châu báu, ngồi lên xe ấy tùy ý liền đến, thọ khoái lạc xong, muốn về nhà thì liền về đến nhà”.

Trưởng lão A Nan đảnh lễ chưn Phật bạch rằng : “ Hi hữu Thế Tôn ! Trưởng giả Hiền Hộ thuở trước tạo thiện căn gì mà đời nay thọ quả báo nầy ?”.

Ðức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Ông muốn biết thì phải lắng nghe.  Nhơn duyên nầy đều do quá khứ ở bên Phật tạo thiện căn nay được quả báo thắng thượng như vậy.

Nầy A Nan ! Ta nhớ thuở xưa có Phật xuất thế hiệu Lạc Quang Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.  Lúc ấy Hiền Hộ ở bên Phật làm Tỳ Kheo tên Pháp Kế trì giới chẳng trọn có nhiều thiếu sót mà giỏi tuyên nói giáo pháp của Phật khai thị người chưa nghe.  Ðại pháp sư ấy đa văn tổng trì tạng tu đa la cũng trì luật tạng thường thuyết pháp yếu cho các chúng sanh, hiểu rộng biện tài nghĩa vị thậm thâm âm thanh rành rẽ người đều thích nghe.  Người được nghe pháp đều sanh lòng hoan hỉ chẳng còn bị đọa ác đạo.

Nầy A Nan ! Do nhơn duyên pháp thí như vậy nên ông ấy trong chín mươi mốt kiếp hằng sanh lên trời trong người đoan chánh giàu sang.

Nầy A Nan ! Nhơn duyên được báo xe vi diệu ta sẽ nói cho ông.

Lúc làm pháp sư thời kỳ Phật Lạc Quang, ông ấy thấy các Tỳ Kheo tu phạm hạnh trì giới mà ốm gầy bịnh hoạn thì cung cấp tất cả đồ dùng luôn cả giày dép đều vui vẻ bố thí , do đó mà nay được quả báo xe vi diệu như ý.

Nầy A Nan ! Thuở xưa có Phật hiệu Ca Diếp Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.  Ðức Phật Ca Diếp ấy bảo trưởng giả : Ðời vị lai có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri sẽ thọ ký cho ông.

Nầy A Nan ! Nay ta cần dạy cho Hiền Hộ được tỏ ngộ”.

Trưởng lão A Nan bạch rằng :” Hi hữu Thế Tôn ! Ông trưởng giả nầy giàu có lớn như vậy mà tánh nhu hòa chẳng cống cao, ở trong ngũ dục mà lòng chẳng nhiễm”.

Ðức Phật dạy ;”Nầy A Nan ! Phàm là người trí thì chẳng vì giàu có mà kiêu ngạo và nhiễm ngũ dục.

Trưởng giả Hiền Hộ nầy do nhơn duyên diệu pháp mà nhiều đời thọ phước báu vô tận”.

Bấy giờ trưởng giả Hiền Hộ đã được Phật hứa khả muốn thỉnh hỏi chỗ nghi, liền nhứt tâm ở trước Phật quỳ dài chắp tay bạch rằng : “Ðại từ Thế Tôn nhiếp thọ tất cả chúng sanh , thương xót tất cả chúng sanh.  Nay lòng tôi có chỗ nghi muốn hỏi  xin đức Thế Tôn giải thuyết cho tôi được hết nghi”.

Ðức Phật dạy :” Nầy Hiền Hộ ! Nếu lòng ông có nghi mà muốn dứt trừ thì nay là phải lúc, ta cho phép ông hỏi, ta vì ông mà phân biệt giải nói”.

Trưởng giả Hiền Hộ bạch rằng :”Bạch đức Thế Tôn ! Các chúng sanh biết mình có thần thức.  Mà thần thức nầy như là cái trắp báu lúc chưa mở ra chẳng biết trong ấy có báu gì ?

Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức ấy tướng mạo ra sao ? Do duyên gì gọi là thần thức ?Lúc mạng chung các căn sắp diệt tứ đại sắp phân tán, thần thức ấy không tay chưn mặt mắt làm sao từ trong thân dời ra được.  Thần thức ấy màu gì hình gì ?Từ trong thân làm sao rời lìa được thần thức ấy ? Thế nào xả bỏ thân nầy mà thành tựu thân khác ? Thế nào xả bỏ các đại các nhập nầy mà hướng đến đời sau ? Thế nào thành tựu nhiều thân sai khác ? Nay người đã chết các nhập vị lai thế nào tùy thuận ? Thế nào đời nầy tạo căn lành đời vị lai thọ quả báo ? Thế nào đời nay các ấm nhập nầy tạo các căn lành mà đời sau các ấm nhập khác thọ lấy quả báo ? Thế nào thần thức nầy được thân nơi chỗ kia ? Thế nào các nhập hình thể theo chỗ kia ?”

Ðức Phật dạy : “Lành thay lành thay, đúng như lời ông hỏi.  Nầy Hiền Hộ ! Nay ông nên chí tâm lãnh thọ.  Ta sẽ vì ông mà nói thần thức đến đi dời dứt.

Nầy Hiền Hộ ! Ví như phong đại không hình sắc chẳng nhìn thấy được , nhưng do nhơn duyên mà hiện hình sắc.  Nó hiện hình sắc thế nào ? Như gió thổi động các cây cối, thổi chạm vách núi bờ sông phát ra tiếng, do nhơn duyên lạnh nóng sanh ra gió nên có thể cảm thọ được, mà hình thể gió ấy chẳng thấy được , cũng chẳng thấy được tay chưn mặt mắt ra sao, nhưng trên các hình sắc nó có tác dụng tăng ích hơn lên hoặc đen hoặc trắng.

Thần thức giới nầy cũng vậy, chẳng thể dùng màu sắc thấy được cũng chẳng đến hình sắc, chỉ do chỗ sở nhập làm ra hình thể mà hiện màu sắc.

Tại sao nơi chỗ kia thức giới nầy được tên là thọ xúc pháp giới ư ? Lại thế nào thức giới nầy bỏ thân nầy rồi sau đó thọ ái xúc v. v…ư ?

Ví như phong giới hay dời hơi hương nên biết mùi hoa nầy theo gió thổi lại nhưng thiệt ra phong giới ấy chẳng mang mùi hoa đến cũng chẳng phải không gió mà mùi hoa bay đến.  Hương ấy không có sắc, gió ấy cũng không có sắc, căn ngửi mùi kia cũng không sắc.

Cũng vậy người chết kia thần thức sắp dời giữ lấy xúc thọ v. v…và các giới rồi có đời kia, do phụ mẫu hòa hiệp rồi sau biết được có thức, do có thức thì biết có thọ có xúc hòa hiệp mà thành.

Ví như người khỏe mạnh thức cường thắng nên có căn ngửi hương, vì căn ngửi hương mạnh nên có hương mạnh.  Vì có hai xứ thắng nên có hai sự thắng có thể thấy được.  Hai sự thắng là sắc và xúc.

Vì gió kia nhiều nên mùi hoa cũng nhiều.  Cũng vậy, vì thức lớn nên thọ cũng lớn, vì thọ lớn nên thức cũng lớn, vì thức lớn nên các giới cũng lớn mà biết đây là thiện đây là ác vậy.

Ví như họa sư đã thành tựu giỏi tốt rồi thì bản họa tùy ý muốn phát xuất để làm liền có thể thành ý hiểu biết tốt nên tùy màu sắc đều làm được.  Nhưng họa sư ấy nếu không có màu sắc thì không thể hiện thành màu sắc.

Cũng vậy, thức ấy thành tựu sáu sắc căn : những là nhơn nhãn thấy sắc mà có thức biết, nhơn nhãn thấy sắc ấy thiệt ra không có sắc,.  Nhơn nhĩ nghe thanh ấy cũng không có sắc , nhơn tỷ ngửi hương ấy cũng không có sắc, nhơn thiệt nếm vị ấy cũng không có sắc, nhơn thân giác xúc ấy cũng không có sắc, nhơn ý có các đại ấy cũng không có sắc, những cái được biết ấy cũng không có sắc.  Nên biết trong cảnh giới cũng không có sắc.  Theo thứ đệ như vậy nên biết thức ấy cũng không có sắc.  Phải quan sát như vậy.

Nầy Hiền Hộ ! Ông hỏi thức nầy bỏ thân đến đời kia thế nào ?

Nầy Hiền Hộ ! Lúc chưa mạng chung, thức nầy do nghiệp nắm giữ.  Lúc nghiệp và mạng ấy hết, ví như người nhập tịch diệt tam muội có thức thân thể,  thức thân thể nầy diệt rồi sau nhập ở trong tịch diệt định, cũng vậy, thức nầy ở bên người chết xả thân và các đại xả rồi , chỉ có niệm lực biết như vậy : tôi là mổ giáp ấy.  Phàm khi người xả thân có hai thứ xúc chánh niệm : một là chánh niệm, hai là xúc, mà lúc người ấy mạng chung nên thân có xúc hai thọ : một là thân thọ , hai là niệm thọ, sau khi chết niệm có xúc.

Lại nữa ông hỏi thức ấy nghĩa là gì ?

Nầy Hiền Hộ ! Như có một hột giống hay mọc mầm , từ trí sanh thức nên gọi là niệm.  Thế nên trí hay sanh gọi là thức rồi sau trờ lại thọ nơi xúc.  Vì trí biết khổ lạc nên gọi là thức, sau lại thọ thiện ác, cũng có thể biết cảnh giới thiện ác nên gọi là thức, như hột mọc mầm thân ấy thành tựu, nên gọi là thức.

Lại nữa, thức nầy thế nào bỏ thân rồi dời đến kia ?

Nầy Hiền Hộ ! Ví như trong gương soi hiện thân hình, lại như trong khuôn đất đúc ra thân hình, lại như lúc mặt nhựt mọc hay diệt trừ tối tăm mặt nhựt ấy lặn thì tối trở lại, nhưng mà tối ấy không có chỗ thường định, nhưng tối ấy không có sắc không thọ chẳng thấy được.  Cũng vậy thức nầy sanh thân rồi như tối rời sáng, thân sanh cũng vậy, người ấy chẳng thấy thức nầy mà thức thọ thân nầy.  Ví như phụ nhơn thọ thai mà chẳng biết thai tôi mang đây lá nam là nữ, là đen là trắng, các căn đủ hay chẳng đủ, tay chân ngay thẳng hay chẳng ngay, mà kẻ ở tại trong thai hoặc vì ăn nóng chạm xúc nên liền máy động.  Cũng vậy, thức nầy đến đi co ruỗi cùng chung với mắt mở nhắm, do các nghiệp được tạo từ trrước nên có những cảnh giới, tức nơi cười nói v. v. . .  các việc phát sanh mà biết được thức an trụ, trong sắc thân.  Nhưng các chúng sanh chẳng biết thức ở trong sắc thân ta có hình thể gì.

Nầy Hiền Hộ ! Vì thức nầy khéo thành tựu nên dời đến các cõi mà chẳng nhiễm trước cá cõi.

Nầy Hiến Hộ ! các cõi và thức cảnh giới sáu căn là sáu giới xứ, có bốn đại xứ, có năm ấm xứ.  Ông nên biết cảnh giới thức v. v. . .  như vậy.

Nầy Hiền Hộ ! Ví như người gỗ do một cơ quan mà tác động tất cả việc chạy nhảy và hiện ra các thứ múa men.  Ý ông thế nào, có duyên cớ gì mà người gỗ làm các sự ấy ?

- Bạch đức Thế Tôn ! Chỗ hỏi của đức Như Lai chẳng phải cảnh giới của tôi, tôi không có trí để đáp được.  Nầy Hiền Hộ ! Sự kia là do sức trí huệ khéo mà làm ra các sự việc, mà việc khó ấy không có sắc do trí sanh ra.  Cũng vậy, thân người nầy do thức khéo mà sanh , mà các thứ thân do thức làm ra, thức nầy tạo thân nên sanh ra, nhưng thức nầy không thể cùng tận.  Như do pháp giới huân tu nên các thân xưa trước ý ức niệm thành tựu.  Ví như ánh sáng mặt nhựt soi đến các tử thi tanh hôi dơ dáy ấy chẳng lìa ánh sáng mặt nhựt.  Cũng vậy thức nầy sơ sanh tại hôi dơ ăn uống các vật bất tịnh, lại ở trong bụng chó heo mà thọ thai, mà thức nầy chẳng bị ô nhiễm, nhưng hôi dơ ấy chẳng lìa ánh sáng mặt nhựt.  Cũng vậy, thức nầy sơ sanh tại hôi dơ ăn uống các vật bất tịnh, lại ở trong bụng chó heo mà thọ thai, mà thức nầy chẳng bị ô nhiễm.

Lại nầy Hiền Hộ ! Thức nầy xả thân rồi tùy theo nghiệp thiện ác đã làm.  Nghĩa nầy là sao ? Sau khi bỏ thân thể nầy, thức liền thọ lấy tội phước kia.  Ví như phong giới từ đầu núi phát xuất đến rừng chiêm bặc, vì xúc chạm nên gió ấy thọ mùi hương vị diệu rồi đến chỗ hôi dơ chỗ các tử thi, tùy đến nhiều chỗ gió ấy nhận lấy nhiều mùi đến kia thành nhiều.  Như gió ấy mang các mùi kia đi qua, mà gió ấy không sắc.  Cũng vậy, xả thân nầy rồi thức ấy mang thiện ác mà dời đến thứ đệ mà đi.  Thức ấy muốn dời đi, dường như người chiêm bao biết có tất các vật mà thân chẳng dời bổn xứ.  Cũng vậy, có phước cũng sanh, lúc thức muốn dời đi, dường như chiêm bao thấy có các sự vật, nhưng thức ấy chẳng từ yết hầu đi ra, chẳng từ lỗ lông đi ra, lúc thức ấy ra cũng chẳng tìm các lỗ ».

Trưởng giả Hiền Hộ đảnh lễ chưn Phật bạch rằng : » Bạch đức Thế Tôn ! Như trứng gà trứng ngỗng, thức ở trong vỏ, vỏ ấy không có lỗ , làm sao biết có thức riêng khác , thức ấy không vỡ làm sao dời đi ? ».

Ðức Phật dạy : » Nầy Hiền Hộ ! Ví như dùng các thứ hoa chiêm bặc v. v… ướp mè đen cho thục rồi ép lấy dầu mà gọi là dầu hoa chiêm bặc v. v… Hơi hương của hoa chẳng phá hoại bột mè mà hơi hương dời vào, hương ấy chẳng dính lấy mè, nhơn nơi mè và hoa cùng hòa hiệp mà hơi hương dính lấy nhau mà hơi hương chẳng tìm lỗ bên hột mè để chui vào.  Nhơn nơi hai thứ hoa và mè mà hơi hương dời đổi.  Cũng vậy, thức nầy chẳng phá hoại vỏ trứng mà nó chuyển dời, ông phải biết như vậy.

Lại thức ấy chẳng dời đổi, ví như ánh sáng của mặt nhựt lửa và ma ni bửu v. v…, phải thấy biết như vậy.

Lại thức ấy dời đổi dường như hột giống gieo trong đất mọc ra mầm cây lá hoa quả hoặc trắng hoặc đỏ hoặc đen đều riêng tự có vị lực thành thục, mà địa giới ấy vẫn là một, thủy hỏa và phong vẫn là một.  Cũng vậy thức nầy có một pháp giới mà thành tựu thân trong tất cả các cõi rồi sau mới sanh hoặc đen hoặc trắng hoặc đỏ các màu sắc, hoặc bổn tánh cang cường , hoặc bổn tánh điều nhu.

Lại lúc mạng chung, thần thức nầy xả thân rồi thành chủng tử của thân sau sắp làm thành thân thể tay chưn v. v… mà đương thời chưa có thân phần, nó bỏ địa phần mà lấy pháp giới phần, các gìới ấy cùng hòa hiệp với niệm, nhưng niệm ấy do sức tín kính nên hòa hiệp với niệm pháp giới, giữ lấy thức chẳng rời lìa thức mà pháp giới có thể lấy được, cũng chẳng rời pháp giới mà thức có nhơn , nhưng thức ấy được phong lực trợ giúp tự có các pháp giới khác đều là vi diệu, đó là niệm giới, thọ giới, pháp giới, sắc giới vậy.

- Bạch đức Thế Tôn ! Thức ấy thế nào có sắc ?

- Nầy Hiền Hộ ! Phàm có hai thứ sắc : là nội với ngoại.  Nội sắc là gì ? Ðó là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý vậy.  Ngoại sắc là gì ? Ðó là nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý vậy.  Ngoại sắc là gì ? Ðó là sắc thanh hương vị xúc và pháp vậy.

 Nầy Hiền Hộ ! Như người sanh manh ban đêm trong chiêm bao thấy những sắc đẹp tối thắng tối thượng cõi trời, thấy rồi người nầy sanh lòng hỉ lạc tối thắng.  Thức giấc không còn thấy, đến sáng nói với mọi người rằng : trong đêm rồi tôi chiêm bao thấy thân hình phụ nữ đoan chánh tối diệu tối thượng lại thấy trượng phu số đông trăm ngàn, tôi còn thấy vườn hoa rừng cây  v. v… Người sanh manh ấy thuật rõ cảnh tượng người vật đã được thấy trong chiêm bao mà mọi người chẳng thấy ? Ý ông thế nào ? Người sanh manh ấy ngủ chiêm bao tại sao được thấy ?

- Lành thay, bạch đức Thế Tôn ! Xin vì tôi mà nói sự ấy, tại sao được thấy.

- Nầy Hiền Hộ ! Bởi nhục nhãn nhơn trí lực mà người sanh manh ấy ở trong chiêm bao được thấy, chẳng phải thiệt mắt thấy.

Nầy Hiền Hộ ! Như người chiêm bao thấy sắc chánh niệm chốc lát, người chết thấy nội sắc cũng như vậy.

Nầy Hiền Hộ ! Ta lại vì ông mà giải nói thần thức người chết dời đổi như chủng tử.

Ví như chủng tử gieo xuống đất thọ lấy tứ đại, thần thức nầy thọ chánh niệm rồi, thọ xúc thọ rồi, thọ thiện và bất thiện rồi, xả thân rồi sau đó mới dời.

- Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào thần thức nầy thọ thiện và bất thiện rồi sau đó thần thức nầy mới dời ?

- Nầy Hiền Hộ ! Ví như ma ni bửu theo bóng sắc mà biến đổi.  Nếu để nơi bóng đen thì hình ma ni biến thành đen, nếu để trong bóng trắng thì nó biến thành trắng.  Tùy ở chỗ bóng hình thế nào thì ma ni bửu ấy liền biến đồng màu sắc ấy.  Thần thức nầy thọ thiện và ác mà liền dời đi cũng như vậy.

- Bạch đức Thế Tôn ! Thần thức nầy thể chất gì mà hiện ?

- Nầy Hiền Hộ ! Thần thức nầy vô hình không có chỗ tụ họp không có chỗ tích trữ, cứu cánh không thể được có chẳng thể nói được.  Thần thức nầy có sanh có diệt có khổ não cũng chẳng thể nói được.

Ví như từ hột sanh mầm cũng chẳng thể được.  Chẳng phải hột mục hột hư sanh mầm mà hột tốt kia mới sanh mầm được.  Ý ông thế nào ? Hột sanh mầm ấy vốn ở chỗ nào ? Là ở tại thân cây hay ở tại lá hay ở tại rễ hoặc ở tại nhánh ? Cũng vậy, thần thức nầy ở tại thân thể không có nương ở chỗ nào, nó chẳng ở tại nhãn, chẳng ở tại nhĩ, chẳng ở tại tỷ thiệt thân hay ý.

Cũng như từ hột sanh mầm, hột sanh mầm ấy lấy thủ thọ làm gốc, vì chỗ kia thủ nên liền thọ thai, thọ thai rồi liền có xúc.  Như sanh mầm rồi y theo thời tiết mà có nhánh lá quả liền có hột.  Cũng vậy thần thức nầy trước tiên thành tựu thân thể, thân thể được thành tựu rồi thần thức nầy không có chỗ an trụ mà cũng chẳng rời lìa thần thức có thân thể.

Như từ trái chin có hột giống chẳng phải từ trái sống.  Cũng vậy, lúc thân nầy mạng chung, từ trong thân thể thần thức nầy hiển hiện.  Do thọ hòa hiệp , do ái trói buộc, do niệm nắm lấy cùng hòa hiệp với thiện phan duyên hay với bất thiện phan duyên, do phong giới giữ lấy, trí huân theo nghiệp, nhơn phụ mẫu hòa hiệp sau đó thần thức hiển hiện.

Ví như gương sáng tốt soi thấy hình mặt, chẳng phải không có mặt mình mà thấy được hình mặt, cũng vậy chẳng phải không gương sáng mà có được hình mặt.  Do gương sáng và mặt hai duyên hòa hiệp nên có bóng mặt , mà bóng mặt ấy không có sắc cũng không có thọ không có thức.  Tùy theo thân chuyển động thì bóng hình trong gương cũng chuyển động, như thân nói năng dời đổi chuyển động duỗi co cúi ngửa, tùy theo động tác của thân bóng hình trong gương cũng có những tướng dạng như vậy hiển hiện.

Nầy Hiền Hộ ! Ý ông thế nào, bóng mặt ấy do sự gì mà hiện trong gương ?

 - Bạch đức Thế Tôn ! Do thân thể người đối với gương nên có bóng hình hiện trong gương.  Tùy theo thân diện có sắc như vậy, bóng hình cũng sắc như vậy, hoặc các căn đủ hay chẳng đủ, trong gương cũng hiện ra bóng hình như vậy.

- Nầy Hiền Hộ ! Như trong gương sáng hiện có bóng hình, do vì có thân người mà bóng hình hiện ra trong gương sáng.  Cũng vậy thân nầy do nơi thức mà có thọ có thủ có thức có các hành tư niệm thành tựu thân thể. Nói gương sáng ấy là nói duyên nơi phụ mẫu hòa hiệp.

Nên biết như thân diệt rồi không có thức hình, như gương sáng kia đã hiện bóng mặt xong rồi ở nơi nước trong lại thấy bóng mặt, cũng vậy, thức nầy xả thân nầy rồi đến nơi kia lại thọ các ấm khác.

Ví như hột cây ni câu đà hoặc hột cây ưu đàm bà la v. v… dầu hột ấy nhỏ bé mà hay sanh ra cây nhánh rất lớn.  Sanh ra cây nhánh rất lớn rồi hột lại bỏ rời cây ấy mà đến sanh cây chỗ khác.  Cũng vậy, thức nầy vi tế không có hình sắc nhứt định sanh ra thân rồi lại bỏ để sanh ra các thân thể khác nữa.

Ví như các thứ hột lớn đại mạch tiểu mạch mè đen v. v… tùy gieo tại địa phương nào, nó liền ở nơi địa phương ấy bén rễ ? Cũng vậy, thức nầy ở trong thân chúng sanh dời đến chỗ kia liền có thủ có thọ mà ở tại đó, hoặc thọ phước, hoặc thọ tội, từ đời nầy dời đến đời kia. Như con ong mật, nó tìm mật trong hoa lấy mật rồi bỏ hoa ấy dời đến hoa khác, hoặc bỏ hoa xấu dời đến hoa tốt, đậu trên hoa rồi, vui say hoa ấy lấy vị mật của hoa.  Cũng vậy, thần thức nầy do nhiều thiện căn hoặc thọ thân trời rồi do nghiệp ác hoặc thọ các thân địa ngục súc sanh ngạ quỉ, thọ rồi lại thọ thân khác nữa.

Nhưng thần thức nầy phải quan sát nó thế nào ?

Như bột uất kim hương hay hột hoa hồng lam hay hoa phân đà lợi, hình thể nó tùy theo phần sắc bất định, mà trong hột nó chẳng thể thấy mầm cũng không sắc nhứt định.  Nhưng hột ấy xuống đất được nước thấm nhuần liền sanh mầm, có mầm cây rồi sau mới sanh hoa, mà sắc hoa không thể thấy được nơi hột, cũng chẳng rời lìa hột mà có mầm cây và màu sắc. Cũng vậy, thần thức nầy xả thân nầy rồi sắp thành thân kia, trong khối thịt kia còn chưa có các căn huống là có các nhập, đã không các căn các nhập đâu được có thiên nhãn thiên nhĩ và thể chất hương vị xúc để được có biết.  Ðâu có thể biết rằng tôi ở lúc ấy làm nghiệp như vậy thân thể quá khứ của tôi như vậy, chỉ nhơn nơi thúc mà thọ. Như con tằm, từ thân miệng nó nhả ra chỉ tơ làm kén bọc vấn thân nó rồi bỏ thân tằm đổi thân khác.  Cũng vậy, thức nầy sanh thân rồi trở lại tạo nghiệp liền tự diệt thân dời đến nơi kia.

Như hoa sen sanh trong nước có sắc đẹp hương thơm, nhưng trong hoa không có thể chất nước ấy có thể thấy được.  Hoa sen ấy diệt rồi có địa phương nào đặt hột nó trong đó thì có sắc hương ở đó.  Cũng vậy, chỗ thần thức nầy được dời, các căn cảnh giới chẳng cùng nó dời thọ cũng không dời, cái được dời ấy chỉ có pháp giới.

Như châu như ý, tùy đến chỗ nào có cần vật gì thì tùy ý được có.  Như ánh sáng mặt nhựt tự theo mặt nhựt, mặt nhựt đến đâu ánh sáng ấy cũng đến đó.  Cũng vậy, chỗ mà thần thức nầy được dời đến thì pháp giới của thọ tưởng v. v…cũng theo nó chẳng rời lìa.

Lại nữa, thần thức nầy bỏ thân nầy rồi lấy tất cả các hữu tụ họp lại, lấy rồi không thịt không xương dời đến thân sau.  Nó lấy các hữu và các xúc v. v… các việc, dùng thiên nhãn xem thấy thọ và thủ thiện ác.

Ví như những trái tiểu táo, thiên niên táo, am ma la, ca tì đà v. v…lúc nó thành tựu đều riêng có một vị, hoặc đắng hoặc chua hoặc ngọt hoặc mặn v. v…Những trái ấy chin rồi tùy ở tại địa phương nào thì vị nó ở trong trái ấy.  Cũng vậy, thần thức nầy dời đến chỗ nào thì nó tự có xúc theo dõi, phước và vô phước do hữu và niệm tự theo nó mà dời.

Lại nữa, thần thức nầy lúc xả thân nó nghĩ như vậy : “Nay tôi bỏ thân nầy”, nên gọi niệm thức nầy là thức.  Vì biết nghiệp thiện nghiệp bất thiện, biết nghiệp nầy theo tôi mà đi, biết tôi theo nghiệp nầy mà đi, do vì biết như vậy nên gọi là thức.  Lại vì thân nầy biết tạo tất cả nghiệp nên gọi là thức.

Ví như phong giới, hoặc có lúc lạnh có lúc nóng, hoặc có lúc theo hôi mà có mùi, hoặc nhơn thơm mà có mùi, nên biết đó là gió.  Cũng vậy, thể chất của thức nầy không có sắc, hoặc do sắc do thủ sắc làm nhơn , hoặc dục thủ làm nhơn, hoặc kiến thủ làm nhơn, hoặc trì giới cầu báo thủ làm nhơn nhẫn đến hữu và thọ, nhơn nơi thọ mà thọ thân thể sắc thành tựu nên gọi là thức”.

Bấy giờ trong đại chúng có một trưởng giả tên Chơn Nguyệt đứng dậy đảnh lễ chưn Phật chắp tay bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Cần phải quan sát sắc ấy, thủ ấy, dục thủ ấy, kiến thủ ấy và giới thủ ấy thế nào ?”.

Ðức Phật dạy : “ Nầy Chơn Nguyệt ! Phàm là người trí muốn biết những điều ông hỏi, thì nên biết như vầy :

Nầy Chơn Nguyệt ! Nếu có thiện sắc hay có phi thiện sắc  từ nơi khối thịt phải quan sát gân, máu, mạch và khí mạch, sọ đầu túm lấy óc, ruột già, ruột non, phổi, tim, gan cật, tì, mật các tạng phủ, mỡ thịt, tủy, máu, đàm, nước mũi, nước bọt, hôi thúi dơ bẫn  phi thường đáng sợ, long tóc râu ria da thứa gói che tụ họp, tụ rồi tất cả các sắc đều do bốn đại làm thành.  Bốn đại ấy nắm lấy sắc để làm thành thân thể nên gọi là thủ sắc. 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy