Như vầy tôi nghe một lúc đức
Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðọc.
Bấy giờ thành Xá Vệ có Ưu Bà
Di tên Hằng Hà Thượng từ nhà đến chỗ đức Phật dảnh lễ chơn Phật rồi lui
ngồi một phía. Ðức Thế Tôn hỏi Ưu BÀ Di ấy rằng: Ngươi từ dâu đến?
-Bạch đức Thế Tôn Nếu hỏi hoá
nhơn rằng từ đâu đến? Hỏi như vậy thì phải trả lời thế nào?
-
Nầy Ưu Bà Di! Luận về hóa nhơn không có vãng lai cũng không sanh
diệt đâu nên nói là có chỗ từ đó mà đến.
-Bạch đức Thế Tôn! Các pháp
há chẳng phải đều như hóa cả ư?
-Nấy Ưu Bà Di! Ðúng vậy.
Ðúng như lời ngươi nói.
-Bạch đức THế Tôn! Nếu tất cả
pháp đều như hóa thì sao hỏi rằng ngươi từ đâu đến?
-Nầy Ưu Bà Di! Người huyễn
hóa ấy chẳng đế ác đạo chẳng sanh lên trời chẳng chứng Niết bàn, nầy Hằng
Hà Thượng! Ngươi cũng như vậy sao?
-Bạch Ðứ Thế Tôn! Nếu tôi
thấy thân khác với huyễn hóa mới nên nói là qua ác đạo sanh thiện đạo
chứng Niết bàn. Tôi chẳng thấy thân khác với huyễn hóa thì sao lại nói là
qua ác đạo sanh thiện đạo chứng niết bàn.
Lại nưã, bạch Thế Tôn! Như
tánh niết bàn cứu cánh chẳng còn sanh thiệt ác đạo và Niết bàn, tôi xem
thân mình cũng vậy
-Nầy Ưu Bà Di! Ngươi há chẳng
xu hướng Niết bàn giới ư?
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu đem
lời hỏi nầy hỏi nơi vô sanh thì nên trả lời thế nào?
-Nầy Ưu Bà Di! Vô sanh tức là
niết Bàn vậy
-Bạch đức Thế Tôn! Các pháp
há chẳng đề đồng niết bàn hư?
-Nầy Ưu Bà Di! Ðúng vậy.
Ðúng như lời ngươi nói.
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp đồng Niết bàn thì sao lại hỏi ngươi há chẳng xu hướng Niết bàn giới
sao ư?
Lại nữa bạch đức Thế Tôn! Ví
như hóa nhơn hỏi hóa nhơn ngươi há chẳng xu hướng Niết bàn ư? Họ sẽ phải
đáp thế nào?
-Nầy Ưu BÀ Di! Họ hỏi như vậy
không có phan duyên.
-Bạch đức Thế Tôn! Ðức Như
Lai há lại dùng phan duyên để nêu lời hỏi ấy?
-Nấy Ưu Bà Di! Lời ta hỏi
cũng không phan duyên, nhưng vì trong pháp hội đây có thiên nam tử thiên
nữ nhơn đáng được thành thục nên ta phát lời hỏi ấy. Tại sao? Vì Như Lai
ở nơi danh tự các pháp ấy còn là bất khả đắc thì nào có các pháp và kẻ hay
xu hướng Niết Bàn kia.
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu như
vậy thì sao lại vì Bồ Ðề mà tích tập thiện căn, vì chư Bồ Tát và chư thiện
căn đều là bất khả đắc.
-Nầy Ưu Bà Di! Lúc tích tập
tức vô tâm vậy, lúc chẳng phải tích tập cũng như vậy.
-Bạch đức Thế Tôn! Vô tâm
được nói ấy là muốn thuyết minh nghiã gì?
-Nầy Ưu Bà Di! Pháp ấy chẳng
phải tư duy biết được cũng chẳng phải tư duy đến được. Tại sao? Vì trong
ấy tâm còn là bất khả đắc huống là pháp được tâm sanh. Do vì tâm bất khả
đắc nên gọi là chỗ bất tư nghị. Chỗ bất tư ngị ấy chẳng phải đắc chẳng
phải nhiễm chẳng phải tịnh. Tại sao? Vì Như Lai thường nói các pháp như
hư không không có chướng ngại vậy.
-Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả
pháp như hư không sao đức Thế Tôn lại nói các sắc có các sác thọ tưởng
hành thức cùng các giới xứ mười hai nhơn duyên hữu lậu vô lậu nhiễm là
tịnh sanh tữ Niết bàn?
-Nầy Ưu Bà Di! Như nói rằng:
Ngã, dầu có lời nói mà thiệt không có ngã tướng để được. Ta nói các sắc
cũng thiệt không có sắc tướng để được nhẫn đến nói Niết bàn cũng không có
Niết bàn tướng để được.
Nầy Ưu Bà Di! trong pháp của
ta những người tu phạm hạnh thấy tất cả pháp đều vô sở đắc mới được gọi là
người chơn tu phạm hạnh. Còn người tăng thượng mạn nói hữu sở đắc thì
chẳng gọi là an trụ chơn phạm hạnh. Người tăng thượng mạn như vậy nghe
thâm pháp nầy sanh lòng rất kinh nghi, họ chẳng giải thoát được sanh lảo
bịnh tử ưu bi khổ não.
Nầy Ưu Bà Di! Sau khi ta diệt
độ có người hay diễn thuyết pháp đoạn dứt lưu chuyễn thậm thâm nầy, có kẻ
ngu si vì ác kiến nên đối pháp sư sanh lòng sân hận, do đây họ bị sa đọa
địa ngục.
-Bạch đức Thế Tôn! Như đức
Phật nói pháp dứt lưu chuyển, do nghiã gì mà gọi tên dứt lưu chuyễn?
-Nầy Ưu Bà Di! Dứt lưu chuyễn
là nói thiệt tế bất tư nghị giới, pháp nầy chẳng thể xoi đục trở hoại nên
gọi tên là pháp dứt lưu chuyển ».
Bấy giờ đức thế Tôn vui vẻ
mỉm cười, từ diện môn phóng ra những tia sáng xanh vàng đỏ trắng hồng tía
pha lê chiếu suốt khắp vô lượng thế giới trên đến trời Phạm Thế rồi xong
về nhập vào đảnh đức Như Lai.
Tôn giả An Nam thấy sự ấy
liền đứng dậy trịch vai hữu chấm đức chấp tay
cung kính bạch Phật: «Bạch
đức Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười? ».
Ðức Phật phán: «Nầy An Nan!
Ta nhớ quá khức có ngàn đức Như Lai cũng tại xứ nầy nói pháp như vậy,
trong các chúng hội kia cũng có Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di làm thượng thủ. Ưu
Bà Di kia và các các đại chúng nghe chư Như Lai kia nói pháp nầy rồi đều
xuất gia ở nơi Vô dư Niết bàn mà được diệt độ ».
Tôn Giả An Nan bạch Phật:
«Bạch đức Thế Tôn! Nên đặt tên kinh nầy là gì, chúng tôi phải thọ trì thế
nào? ».
Ðức Phật phán: «Nầy An nan!
Kinh nầy tên là Vô Cấu Thanh Tịnh, các ông nên thọ trì như vậy ».
Lúc nói kinh nầy có bảy trăm
Tỳ Kheo và bốn trăm Tỳ Kheo Ni hết hẳn các lậu tâm được giải thoát.
Chư Thiên cỏi Dục đem các thứ
hoa trời rải lên đức Phật mà nói rằng: « Ưu Bà Di nầy rất hi hửu có thể
cùng đức Như Lai đối đáp được vô sở úy. Người nầy đã từng ở chỗ vô lượng
chư Phật thân cận cúng dường vun trồng các thiện căn».
Ðức Phật nói kinh nầy rồi,
Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di và hàng đại chúng Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật
dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
HẾT
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|